Tổng Hợp

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 1

Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện còn để lại khoảng 1.000 bài thơ chữ Hán và trên dưới 200 bào thơ Nôm trong “Bạch Vân am tập ” và “Bạch Vân Quốc ngữ thi tập”

Nhận xét về thơ Trạng Trình, nhà sử học Phan Huy Chú trong thế kỉ XIX có viết:

“Văn chương ông tự nhiên, nói ra là thành không cần gọt giũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà cóývị, đều có quan hệ đến việc dạy đời”.

Mảng thơ viết về thiên nhiên và vịnh nhàn chiếm một tỉlệ sang trọng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài thơ Nôm số 73 của Tiên sinh mà người soạn sách Ngữ văn đặt cho cái nhan đề “Nhàn” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật và tâm hồn thanh cao của “ôngTiên giữa cõi trần ” này.

“Nhàn ” được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đườngluật, đó là những vần thơ “giản di mà linh hoạt, khôngmàu mè mà có ý vị”

“Một mai, một cuốc, một cần cáu,

Thơ thẩn, nào ai vui thú nào.

Ta dại, ta tìm nơi vắngvẻ,

Người khôn, ngườiđến chốn lao xao.

Thu ăn măngtrúc, đôngăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạtắm ao.

Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao ”,

Nhịp thơ rất biến hóa, gợi lên một tâm thế đủng đỉnh khoan thai của một lão nông sống ung dung thanh thản nơi vườn quê thân thuộc:

“Một mai, một cuốc, một cần câu,”

Thơ thẩn, nào ai vui thú nào Mai, cuốc, cần câu, những nông cụ ấy, vật dụng ấy với ta cũng chí có “một” mà thôi; hằng ngày ta vẫn cùng “Một mai, một cuốc, một cần câu ” ấy vui vầy giữa “chốn nước non ”, thảnh thơi với dòng xanh sông Tuyết Giang quê nhà. Cái gia tài có 3 thứ, thứ nào cũng chỉ có “một” nhưng với Bạch Vân cư sĩ thì vô cùng giàu có và sang trọng. Dù ai có cách vui thú nào cũng mặc, riêng “ta ” cứ thơ thẩn, nhởn nhơ ung dung giữa cuộc đời. Có tự ý thức được mình thì mới có tâm thế “thơ thẩn ” ấy. Cách sống ấy của Nguyễn Bỉnh Khiêm có khác nào cách sống cần cù, thanh bạch của ức Trai trong thế kỉ XV sau khi đã thoát vòng danh lợi:

“Ao cạn vớt bèo cấy muống,

Đìa thanh phát cỏ ương sen.

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,

Thuyền chở yên hà nặng vạy then ”,

                   (Thuật hứng – 24)

Hai câu 3, 4 trong phần thực đối nhau: “Ta dại” đối với “người khôn”, “ta tìm” đối với “người đến”, “nơi vắngvẻ” đối với “chốn lao xao”. Nghệ thuật đối ấy đã tương phản và đối lập hai quan niệm sống, hai cách sống, hai nhân cách trong cuộc đời. “Nơi vắng vẻ” với Nguyễn Bỉnh Khiêm là quê tổ đất cha, là am Bạch Vân, là làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là xã Lí Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng), là sông Tuyết Giang, là quán Trung Tân. Đó là nơi “hằng mến” đối với Tuyết Giang phu tử:

“Ba gian am quán, lòng hằng mến,

Đòi chốn sơn hà, mặt đã quen.

Thanh vắng thú quê giàu mấy nả,

Dữ lành miệng thế mặc chê khen”

“Chốn lao xao” theo Nguyễn Bỉnh Khiêm là chốn bon chen danh lợi, là nơi bọn vênh vang tự đắc, lên mặt đạo đức dạy đời, là nơi đồng tiền hôi tanh đã trở thành “sức mạnh của cán cân cônglí”:

“Đạo nọ nghĩa này trăm tiếng bướm,

Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền”

             (Thơ nôm, bài số 5)

Sau nhịp thơ 2/5 và các điệp ngữ “ta”, “người”, chúng ta cảm thấy ánh mắt của nhà thơ nheo lại với nụ cười mỉm:

“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ.

Người khôn, người đến chốn lao xao”

Hai câu trong phần luận đăng đối hài hòa làm hiện rõ một cách sống giản dị, bình dị, thanh bạch của kẻ sĩ cao khiết đã lánh đục tìm trong, đã thoát “chốn lao xao ” đầy bụi trần:

“Thu ăn măng trúc, đôngăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao ”

Trúc và giá còn thơm ngon hơn cao lương mĩ vị “chốn lao xao”.Tắm hồ sen về mùa xuân, tắm ao về mùa hạ đối với Bạch Vân cư sĩ là để thanh sạch tâm hồn, để di dưỡng tinh thần cho thêm phần thanh cao. “Xuân tắm hồ sen ” là thú quê, là niềm vui dân dã không phải ai cũng tìm thấy, ai cũng được tận hưởng:

“Rủ nhau ra tắm hồ sen,

Nước trong bóng mát hương chen cạnh mình.

Cứ chi vườn ngọc ao quỳnh,

Thôn quê vẫn thú hữu tình xưa nay”.

                   (Ca dao)

Hai câu kết thể hiện một cốt cách thanh cao, ung dung tự tại của bậc cao sĩ phong lưu. Ởtrên đã nói “ta tìm nơi vắngvẻ” thì khi uống rượu, “ta” lại “đến cội cây”. Trong lúc “người đến chốn lao xao” thì với “tư” lại “nhìn xem phủ quý tựa chiêm bao”.Xưa nay, đã mấy ai có cách sống đẹp như thế:

“Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao ”

Xưa kia, Nguyễn Trãi đã từng “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng “.Uống rượu và uống cả ánh trăng thanh. Thì giữa am Bạch Vân, Trạng Trình lại ung dung “Rượu đến cội cây, ta sẽ uống Rượu ấy là rượu đế, rượu tăm, đâu phải là mĩ tửu. Có dị bản ghi: “Rượu đến cội cây, ta sẽ nhắp chữ “nhắp ” mới thể hiện đầy đủ cốt cách của kẻ sĩ yêu nhàn và sống nhàn.

Có người cho rằng hai câu kết “tác giả có ý dẫn điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cây hòe, rồi mơ thấy mình ở nước Hòe An, được côngdanh phú quỷ rất mực vinh hiển. Sau bừng mất tỉnh dậy thì hóa ra đó là giấc mộng… Chúng tôi không nghĩ như thế. Một là, Thuần Vu Phần chưa có chút danh vọng gì, giấc mộng của ông ta chỉlà “giấc Nam Kha ” mà thôi! Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi bước lên tới đỉnh cao danh vọng mới lui về quê cũ dựng am Bạch Vân để vui thú trong cảnh nhàn:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quỷ tựa chiêm bao ”

Hai là, trong thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm có khá nhiều điển tích, còn trong thơ Nôm của ông rất ít điển tích, mà sử dụng nhiều tục ngữ, ca dao. Thuần Vu Phần là một bất đắc chí, say sưa, mộng hão, còn Bạch Vân cư sĩ là một đã từng đứng trên đỉnh cao danh vọng, ung dung tự tại, caokhiết nên mới có tâm thế “nhìn xem phủ quỷ tựa chiêm bao? ” ấy đã chan hòa với thiên nhiên, từng coi gió mát trăng thanh là “cố trí ”, là “tương thức”:

“Trăng thanh gió mát là tương thức,

Nước biếc non xanh ấy cố tri”

Với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì sống nhàn là coi thường phú quý danh lợi, có sống nhàn mới tận hưởng được mọi vẻ đẹp của thiên nhiên. Một chén rượu, một chén trà đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm là để sống đẹp hơn, an nhàn hơn, hạnh phúc hơn:

“Hoa trúc tay tự giồng

Gậy, dép bén mùi hoa

Chén, cốc ánh sắc hồng

Rửa nghiên cá nuốt mực

Phatrà, chim lánh khói… ”

                (Ngụ hứng ở quán Trung Tân)

“Nhàn” là một bài thơ tuyệt tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ có ngôn ngữ bình dị, giọng điệu khoan thai, thểhiện một tàm thế thanh cao, coi thường danh lợi phú quý bon chen trong cuộc đời. Có sống trong sạch mới có tâm hồn thanh cao, mới có nhàn tuyệt đẹp.

Hình ảnh Tuyết Giang phu tử hiện lên thấp thoáng sau vần thơ đã làm cho ta kính phục và ngưỡng mộ kẻ sĩ quân tử thời loạn.

Học bài “Nhàn ” để chúng ta hiểu rõ hơn cám hứngthế sự trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và trong thơ văn trung đại.

Có điều ta nên biết, các bạn trẻ nên biết là Nguyễn Bỉnh Khiêm đi thi cả ba lần đều đỗ thủ khoa, đã đỗ Trạng Nguyên. Cái tài học ấy, bảng vàng ấy không thể sống “Nhàn ” mà có được!

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 2

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm. Tuy nhiên khi nhắc đến ông là làm mọi người phải nghĩ đến việc, lúc ông còn làm quan ông đã từng dâng sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng đã không thành công nên ông đã cáo quan về quê. Do học trò của ông đều là những người nổi tiếng nên được gọi là Tuyết Giang Phu Tử. Ông là người có học vấn uyên thâm,là nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ của ông mang đậm chất triết lí giáo huấn, ngợi ca chí khí của kẻ sĩ,thú thanh nhàn, đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội. Khi mất ông để lại tập thơ bằng tập viết thơ bằng chữ Hán là Bạch Vân am thi tập ; tập thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi và “ Nhàn” làbài thơ tiêu biểu trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập, được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật. Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn.Qua đó ta có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc của làn quê.
“ Một mai một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào 
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người dến chốn lao xao
Thu ăn năng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến cội cay ta sẽ uống 
Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.”

Hai câu đề đã khắc họa dược như thế nào 1 nhàn rỗi

“ Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẫn dầu ai vui thú nào…..”

Ở câu thơ đầu câu thơ đã khắc họa hình ảnh 1 ông lão nông dân sống thảnh thơi.Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp điệp số từ “ một “thêm vào là 1 số công cụ quen thuộc của nhà nông nhằm khơi gợi trước mắt người đọc 1 cuộc sống rất tao nhãn và gần gũi nhưng không phải ai mún là có. Từ “ thơ thẩn” trong câu hai lại khắc họa dáng vẻ của 1 người đang ngồi ung dung chậm rãi và khoan thai.Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo ông về ở ẩn. Và từ “ vui thứ nào” cũng 1 lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn dẫu cho ai có ban chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái. Hai câu thơ đầu đã không chỉ được đề tài mà còn khắc họa tư thái ung dung nhàn hạ, tâm trang thoải mái nhẹ nhàng vui thú điền viên.

“….. Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người dến chốn lao sao……”

Hai câu thực của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đến cảnh nhàn và sử dụng các từ đối nhau như “ ta “_ “ người” ; “ dại” _ “ khôn” ; “ nơi vắng vẻ”_ “ chốn lao xao” từ 1 loạt những từ đối lập đó đã thể hiện được quan niệm sống của tác giả. Nhân vật trữ tình đã chủ động tìm đến nơi vắng vẻ đến với chốn thôn quê sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm chốn “phồn hoa đô hội”. hai câu thơ đã đưa ra được hai lối sống độc lập hoàn toàn trái ngược nhau. Tác giả tự nhận mình là “ dại” vì đã theo đuổi cuộc sống thanh đạm thoát khỏi vòng danh lợi để giữ cho tâm hồn được thanh nhàn.Vậy lối sống của NBK có phải là lối sống xa đời và trốn tránh trách nhiệm?” Điều đó tất nhiên là không vì hãy đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác chỉ có thể làm như vậy mới có thể giữ được cốt cách thanh cao của mình. Do NBK có hoài bảo muốn giúp vua làm cho trăm dân ấm no hạnh phúc nhưng triều đình lúc đó đang tranh giành quyền lực, nhân dân đói khổ tất cả các ước mơ hoài bảo của ông không được xét tới.Vậy nên NBK rời bỏ “ chốn lao xao “ là điều đáng trân trọng.

“ ….. Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao………”

Hai câu luận đã dùng biện pháp liệt kê những đồ ăn quanh năm có sẵn trong tự nhiên. Mùa nào thức ăn nấy, mùa thu thường có măng tre và măng trúc quanh nhà, mùa đông khi vạn vật khó đâm chồi thì có giá thay. Câu thơ “ xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” gợi cho ta cuộc sống sinh hoạt nơi dân dã.Qua đó ta có thể cảm nhận được tác giả đã sống rất thanh thản, hòa hợp với thiên nhiên tận hưởng mọi vẻ đẹp vốn có của đất trời mà không bon chen, tranh giành.Đăt bài thơ vào hoàn cảnh lúc bấy giờ thì lối sống của NBK thể hiện được vẻ đẹp của tâm hồn thanh cao đó là lối sống tích cực thể hiện rõ thái độ của Bạch Vân cư sĩ.

“……. Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.”

Hai câu luận đã thể hiện dược cái nhìn của 1 nhà trí tuệ lớn, có tính triết lí sâu sắc, vận dụng ý tượng sáng tạo của điện tích Thuần Vu. Đối với NBK phú quí không phải là 1 giấc chiêm bao vì ông đã từng đỗ Trạng Nguyên, giữ nhiều chức vụ to lớn của triều đình nên cuộc sống phú quí vinh hoa ông đã từng đi qua nhưng ông đã không xem nó là mục đích sống của ông. Mà ông đã xem đó chỉ là 1 giấc chiêm bao không có thực và ông đã tìm đến với cuộc sống thanh thản để luôn giữ được cốt cách thanh cao của mình.

Như vậy qua bài thơ ta đã hiểu được quan niệm sống nhàn và nhân cách của NBK coi thường danh lợi, luôn giũ dược tâm hồn thanh cao hòa hợp với thiên nhiên, dề cao lối sống của những nhà nho giáo giàu lòng yêu nước nhưng do hoàn cảnh nên phải sống ẩn dật. Bên cạnh đó NBK còn sử dụng ngôn ngữ gần gũi mộc mạc nhưng giàu chất triết lí. Sử dụng khéo léo thể thơ thất ngôn đường luật, điện tích điện cố và cách phép đối thường gặp ở thể thơ Nôm 1 cách linh hoạt.

Bài “Nhàn” là 1 bông hoa viết bằng chữ Nôm tuyệt đẹp của VHTĐVN. Quan niệm sống đề cao vẻ đẹp tâm hồn, lối sống trong sạch của NBK vẫn còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay.

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 3

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.

Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hường nhà của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong quy luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.

Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị.

“Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quý của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khá, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ được phác họa trong câu thơ độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc, cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đằng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.

Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh.

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn người đến chốn lao xao”

Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai, những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực: một bên là nhà thơ xưng ta một cách ngạo nghề, một bên là người, một bên là dại của ta, một bên là khôn của người, một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống cùa Nguyễn Bĩnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dạng ích kỉ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa “Người đời tỉnh cả, một minh ta say” đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn – dại. Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”

Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hòa hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư. Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát nét gần gũi với triết lí “vô vi” của đạo Lão. “Thoát tục” của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hòa hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình. Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hòa hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang Phu Tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định:

“Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đă nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gần với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình:

“Ơ thể mới hay người bạc ác,

Giàu thì tìm đến, khó thì lui”

(Thói đời)

Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ ‘‘Tăng thử” (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhàn cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.

Bài thơ “Nhàn” bao quát toàn bộ triết lí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vong thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 4

Nguyễn Bỉnh Khiêm ( 1491- 1585) được biết đến là một người có học vẫn uyên thâm, ông đã để lại nhiều tác phẩm mang tính triết lí giáo huấn, ngợi ca chí khí của kẻ sĩ đồng thời lên tiếng phê phán những điều xấu xa trong xã hội cũ. Trong đó tập thơ “ Bạch Vân quốc ngữ thi “ vơi bài thơ tiêu biểu là “ Nhàn” được viết theo thể thất ngôn bát cú đường luật. Qua bài thơ nổi bật lên vẻ đẹp chân chính, mộc mạc,giản dị của ông.

Với những câu từ hết sức giản dị đời thường cùng với hình ảnh mộc mạc, gắn với cuộc sống của người dân lao động, nhưng nguyễn Bỉnh Khiêm đã lột tả hết vẻ đẹp chân chất dân giã ấy

Với những câu từ hết sức giản dị đời thường cùng với hình ảnh mộc mạc, gắn với cuộc sống của người dân lao động, nhưng nguyễn Bỉnh Khiêm đã lột tả hết vẻ đẹp chân chất dân giã ấy. Mở đầu bài thơ, phần nào khắc họa được một cuộc sống nhàn rỗi. Ngay chính cái nhan đề của bài thơ cũng phần nào đề cập tới nội dung và không khí toát lên toàn bài thơ. Thường người ta được hưởng cảnh an nhàn, vui sống với cảnh thôn quê, chiều chiều ngắm cảnh, ngồi tựa cây để vui thú quê hương.

“ Một mai một cuốc,một cần câu

Thơ thẫn dầu ai vui thú nào.”

Hình ảnh một mai, ý chỉ về mai đây, của tương lại, ông sẽ sống với cuộc sống như thế nào? Đó là “một cuốc, một cần câu” vốn đã rất gần gũi với cuộc sống đời thường của người dân lao động. Ngày ngày cuốc đất gieo trồng, tới khi nhàn nhã lại vác cần câu như một thú vui tao nhã lại vừa có thêm thức cho cuộc sống hàng ngày. Trong thơ nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm không dùng tới các mỹ từ, không trau chuốt dùng những từ ngữ mang tính tượng trưng lớn, hay mang tính ẩn dụ. Với những từ ngữ và hình ảnh rất đỗi đời thường khiến cho chúng ta ngay cả khi đọc lên cũng thấy một cảm giác rất gần gũi. Hai câu thơ tiếp theo tác giả viết:

“ Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao”

ở hai câu thơ này, biện pháp nghệ thuật đối được sử dụng một cách triệt để, đặc biệt đối giữa hai đối tượng giữa ta và người, giữa nơi vắng vẻ với chốn lao xa, giữa không và dại. Đối ngược hoàn toàn đấy tạo nên một suy nghĩ một tâm niệm sâu xa. Tác giả tự nhận mình dại,ông rất khiêm tốn khi nói tới bản thân mình. Ông sống một cuộc sống an nhàn nơi thôn quê, tránh xa mọi phiền muộn cũng như rối ren ngoài kia. Không phải do ông thiếu trách nhiệm thiếu tinh thần yêu nước, không muốn giúp đỡ nước nhà.Nhưng vì, tình hình triều đình rối ren, tranh gianhf quyền lực, muốn giữ sự thanh cao của mình, ông đã qui về ở ẩn. Như để minh chứng cho sự thanh cao, muốn sống một cuộc sống trong sạch,thanh đạm.

 Đó là một cuộc sống mà gắn với:

 “ Thu ăn măng trúc đông ăn giá. 

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”

 Mọi thứ đều sẵn có, măng trúc hay giá đều có thể được tạo ra bởi bàn tay lao động. Cảnh sống an nhàn hiện ra với hình ảnh rất dân giã, những thức đồ mà có thể tự mình tạo ra. Hình ảnh xuân tắm hồ sen hạ tắm ao, gợi về một hình ảnh hết sức đời thường, đó là một cuộc sống có vẻ như rất nhàn rỗi cũng hết sức thanh tao, gần gũi với thiên nhiên.

Hai câu cuối cùng – hai câu luận thể hiện được cái nhìn, sự quan sát của một nhà trí tuệ lỗi lạc:

“ Rượu đến cội cây ta cũng uống

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao”

Tác giả coi phú quí tựa như giấc chiêm bao, đó không phải là do tác giả mong muốn có một cuộc sống vinh hoa phú quí mà là ông chỉ muốn vinh hoa phú quí đó chỉ là một giấc mơ, một giấc mơ không có thực. Đối với ông, cuộc đời ông không phải theo đuổi theo vinh hoa nữa, ông cũng từng trải qua những thời gian được tín nhiệm, giữ những chức vụ lớn trong triều đình, nhận bổng lộc. Nhưng  bây giờ, thứ ông theo đuổi là một cuộc sống an nhàn nơi chốn dân gian, không vướng bận những phiền muộn thời cuộc, tranh giành quyền lực, mà vẫn giữ được tâm hồn thanh cao,lối sống thanh đạm.

Bài thơ Nhàn vừa lột tả cuộc sống nhàn nhã của tác giả khi qui về ở ẩn nhưng cũng là mong muốn của tác giả về một cuộc sống giản dị mộc mạc, lối sống của những người dân chân chất. Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm và sự đa cảm, sự tinh tế chất chứa trong  từng vần thơ.

Xem thêm:

 

Nỗi ưu tư về một chữ “nhàn”- Đọc bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 5

Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan dưới triều Mạc, nhưng sau khi thất bại trong việc dâng sớ xin chém mười tám tên nịnh thần, ông lui về ở ẩn. Trong thời gian đó, ông đã viết rất nhiều bài thơ, và “Nhàn” là một trong số ấy. Tiêu đề “Nhàn” không phải của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà là do người đời sau đặt. Bài thơ như lời tâm sự sâu sắc của tác giả về quan niệm sống, khẳng định cách sống nhàn, hòa hợp với thiên nhiên, giữ cố cách thanh cao, không màng danh lợi.

“Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.”

Hai câu đầu, cũng là hai câu đề bài thơ đã tái hiện lại hoàn cảnh sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc bấy giờ cũng như tâm trạng của ông. Ở câu đầu tiên xuẩt hiện những công cụ quen thuộc “cuốc”, “cần câu”, cùng từ “một” được lập lại nhiều lần, gợi lên cuộc sống bình dị của một lão nông nhàn nhã. Bên cạnh đó, cách ngắc nhịp đặc biệt 2/2/3 cũng góp phần làm sáng tỏ sự nhàn hạ đó. Ở câu thơ thứ hai, “thơ thẩn” được dùng để thể hiện trạng thái thảnh thơi, không lo âu, vướng bận, khắc họa hình ảnh một con người chậm rãi, khoan thai. Đặt vào hoàn cảnh của tác giả, có thể thấy lúc nhàn rỗi của ông chính là thơi gian ông lui về ở ẩn. “Dầu ai vui thú nào” ý chỉ việc tác giả không quan tâm đến lựa chọn của người khác, không còn bon chen giành giật ở chốn quan trường mà kiên định với sự lựa chọn của bản thân, ẩn mình khỏi vong danh lợi, sống nhẹ nhành vui thú điền viên. Sự lựa chọn của Nguyễn Bỉnh Khiêm càng được thể hiện rõ nét hơn qua hai câu thực tiếp theo.

“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.”

Trong hai câu thơ trên, nghệ thuật đối lập được tô đậm qua cách dùng tính từ “dại”-“ khôn”, “vắng vẻ”-“lao xao”. Nguyễn Bỉnh Khiêm tự cho mình là “dại” khi tìm đến chốn thôn quê, “nơi vắng vẻ” sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho người người đuổi theo vinh hoa phú quý, tìm đến “chốn lao xao”. “Nơi vắng vẻ” là nơi yên bình, người người hiền lành chất phác, sống hòa hợp với thiên nhiên, trong khi đó “chốn lao xao” là kinh đô phồn hoa nhộn nhịp, là chốn quan quan trường luôn đầy rẫy những con người bị nhuốm bẩn bởi tiền tài, tham vọng, những âm mưu ngoan độc, nơi  người đạp người đi lên. Vậy câu hỏi đặt ra là, lối sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là lối sống vô trách nhiệm? Xét theo hoàn cảnh của ông, khi triều đình đang diễn ra tranh chấp địa vị, quyền lực, mặc cho nhân dân đói khổ thì hoài bảo giúp vua giúp nước an dân của Nguyễn Bỉnh Khiêm tất nhiên là thật khó để thành sự thật. Vì thế, ông đã quyết định rời bỏ “chốn lao xao” để giữ lại cốt cách thanh cao của mình. Ta có thể thấy trong thời gian ở ẩn, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn tiếp tục tham vấn cho triều đình nhưng không trực tiếp tham gia vào việc triều chính nên không thể nói rằng lựa chọn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là lựa chọn vô trách nhiệm, mà đó là cách làm thật đúng đắn. Do đó qua hai câu thơ, tác giả còn sử dụng cách nói ngược, dùng hàm ý mỉa mai. Trong thi phẩm “Dại khôn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm một lần nữa thể hiện quan niệm, trí tuệ và nhân cách hơn người của mình khi nói:

“Khôn mà hiểm độc là khôn dại

Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.”

Trở lại với cuộc sống ẩn dật của mình, tác giả đã tái hiện lại cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên của mình qua hai câu luận tiếp theo của bài thơ. 

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”

Hai câu thơ là bức tranh tứ bình về sinh hoạt cả 4 mùa xuân hạ thu đông. Hai câu thơ vận dụng biện pháp liệt kê, liệt kê cả bốn mùa cũng những thức ăn, sự vật có trong mỗi mùa. “Mùa nào thất nấy”, quả vậy, tác giả sống hòa mình vào thiên nhiên, không cần những thứ xa hoa, cao sơn mĩ vị. Cuộc sống ông đạm bạc đến không thể đạm bạc hơn, có gì ăn đó, còn gì dùng nấy, không cầu kì đòi hỏi. Mùa thu thì có măng trúc, khi đông đến, vạn vật không thể đâm chồi lại có giá thay. Tuy nhiên, bên cạnh nghĩa gốc, lại có ý kiến cho rằng, “giá” ở đây còn có nghĩa là “giá rét”. Xuân Diệu cũng từng nói rằng “cảm tưởng tác giả ăn giá tuyết, uống măng đông”. Theo cách nghĩ này, có thể nói ông không cần một cuộc sống ấm no đầy đủ, dù có thiếu thốn đôi chỗ nhưng ông vẫn rất hài long với cuộc sống hiện tại. Xoay tiếp sang “xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.” Câu thơ diễn tả bức tranh sinh hoạt không chỉ bình dị mà còn đầy tính thẩm mĩ. Tất cả đã xây dựng nên một cuộc sống đạm bạc, giản dị, thanh cao.

“Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”

Hai câu kết này như phủ định lại chữ nhàn mà tác giả thể hiện từ đầu bài thơ đến giờ, chỉ ra rằng tác giả là “nhàn thân không nhàn tâm”, tức ngoài mặc ông có vẻ thoải mái, nhàn rỗi nhưng trong lòng luôn vướng bận nhiều lo âu, suy nghĩ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dùng tích điển Thuần Vu Phần uống rượu say. Khi say, Thuần Vu Phần mơ thấy đến nước Hòe An, được rất nhiều vinh hoa phú quý, nhưng cuối cùng tỉnh mộng và nhận ra đó chỉ là giấc mơ. Khi sử dụng điển tích này, Nguyễn Bỉnh Khiêm như nhấn mạnh bản thân xem nhẹ phú quý, bởi bản thân ông đã từng làm quan cho nhà Mạc, có đủ phú quý nhưng ông không xem trọng nó, không lấy nó làm mục đích sống, chỉ xem đó như là một giấc mộng không có thật, khiến người ta sa vào để rồi hụt hẫng khi giật mình tỉnh dậy, nên ông đã  tìm đến nơi làng quê thanh bình để giữ lại cho mình cốt cách thanh cao. Hai câu thơ thể hiện cái nhìn cũng như quan niệm sống của một nhà trí tuệ lớn, có tính triết lí sâu sắc. Ngoài ra, với cách ngắt nhịp 1/3/3 đầy mới lạ, Nguyễn Bỉnh Khiêm như muốn nhấn mạnh thêm về cái nhìn của mình.

Mặc dù “Nhàn” là một bài thơ Nôm, nhưng với cách sử dụng ngôn ngữ đầy giản dị, tự nhiên khiến người đọc cảm thấy dễ hiểu, cũng là cách làm rõ quan niệm sống nhàn của ông. Nguyễn Bỉnh Khiên còn qua bài thơ, kết hợp tính trữ tình vào triết lí, làm bài thơ thêm phần thâm trầm nhưng sâu sắc. Cả bài thơ đã thể hiện trọn vẹn cái nhìn và cuộc sống của tác giả, về sự hòa mình vào thiên nhiên, giữ vững cốt cách thanh cao cũng như tránh xa vòng danh lợi nhưng lại không thể tránh khỏi việc trong lòng vẫn còn vướng bận việc nước, lo nghĩ cho dân, nhân mạnh trí tuệ và nhân cách hơn người của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

“Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là tiêu biểu cho dòng thơ Nôm trong nền thơ ca Việt Nam nói chung và kho tàng văn học trung đại nói riêng. Bài thơ chính là cách truyền lại quan niệm sống trong sạch, thanh cao đáng ngưỡng mộ của Nguyễn Bỉnh Khiêm đến các thế hệ mai sau. 

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 6

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) không chỉ là một nhà nho uyên thâm lỗi lạc, có nhiều đóng góp cho triều đình, nhưng do thời cuộc rối ren, ông không chấp nhận chốn quan trường thị phi, về sống ẩn dật tại quê nhà. Ông để lại cho nhân loại một số lượng tác phẩm lớn, bài thơ Nhàn cho thấy một phần cuộc sống và quan niệm sống của tác giả trong cảnh ẩn dật.

Giữa cảnh đất nước rối ren, nhân dân lầm than cơ cực, triều đình thì mục nát, một nhà yêu nước như ông phải sống nhàn nhã, ẩn dật vô công rồi nghề. Tả lại cảnh nhàn hạ của mình mà giọng điệu của ông thật chua cay.

“Một mai một cuốc một cần câu

Thơ thẩn dầu ai  vui thú nào”

Đọc câu thơ, thoạt nghe người đọc có cảm tưởng nhà thơ đang có cuộc sống ung dung tự tại. Câu đầu, nhịp điệu trong hai câu thơ thể hiện sự thong thả, ung dung. Nhà thơ dùng một số từ “một” lặp lại ba lần, cùng với các danh từ đứng sau chỉ công cụ sinh hoạt: “Một mai, một cuốc, một cần câu”. Cuộc sống của nhàn nhã của nhà thơ thật bình dị, đơn giản nhưng ông vẫn thấy vui. Ông không quan tâm đến xung quanh, mặc cho thế sự cuộc đời có thế nào, đối với ông cuộc sống của ông lúc này thật đáng sống. Tâm trạng của nhà thơ là tâm trạng của một kẻ sĩ “an bần lạc đạo”, vượt lên trên nỗi lo lắng bon chen của đời thường để tìm đến cái vui của ẩn sĩ.           

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người dến chốn lao xao

Đối với ông “Nơi vắng vẻ” chính là nơi thôn quê yên tĩnh nơi ông đang sống còn “chốn lao xao” là nơi thành thị, chốn quan trường đầy rẫy những thị phi. Trong cuộc sống của con người, người khôn sẽ chọn ở nơi đông đúc, theo thói vụ lợi, giành giật, bon chen vinh hoa, phú quý, lợi ích vật chất để được hưởng cái hay, cái tốt đẹp ở đời. Chỉ có những con người dại dột mới xa lánh lợi lộc, tìm chốn thanh cao, vắng vẻ, sống an nhàn để tu tâm dưỡng tính. Nhưng nhà thơ đi ngược lại với quan niệm bình thường đó, ông tự nhận mình là kẻ khờ dại, ngu dốt, giữ chốn triều đình hưởng lộc vua mà không sống lại chọn vùng quê nghèo để sống cho qua ngày.

Đối lập giữa “nơi vắng vẻ” với “chốn lao xao”, tác giả muốn khẳng định cách sống nhàn cư ẩn dật, xa lánh chốn vinh hoa, chạy theo vật chất tầm thường. Hai vế tương phản, làm nổi bật ý nghĩa, nhấn mạnh phương châm sống của bản thân. Khôn kia là cái khôn của kẻ tiểu trí còn cái dại này là cái dại của bậc đại trí. Tại sao lại như vậy? Vì nắm được thời thế, vì không muốn bụi bặm của xã hội nhiễu phương vấy bẩn. Hai câu thơ 3, 4 còn thể hiện sự kiên định lối sống, có một chút mỉa mai thói đời, thói người đời và bộc lộ cái cao ngạo của kẻ sĩ.

nơi làng quê thanh bình như một thú chơi tao nhã của nhà thơ, mỗi mùa, mỗi dịp lại có những thú vui khác nhau.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Đó là những cảnh sinh hoạt hết sức giản dị, đạm bạc mà thanh cao, lối sống hòa nhập cùng thiên nhiên cỏ cây hoa lá. Đáng chú ý, thán phục hơn là lối sống hòa nhập cùng thiên nhiên cỏ cây hoa lá, lối sống tuân theo lẽ tự nhiên – mùa nào thức nấy, quê mùa, chất phác.

Không phải tác giả miêu tả lại cảnh sống của mình là chỉ để miêu tả, trong cách miêu tả ấy mang một nỗi niềm sâu kín trong tâm trạng của nhà thơ. Trong thời loạn lạc, người có nhân cách cao đẹp phải xa lánh cuộc bon chen tầm thường, tìm đến nơi yên tĩnh, vui thú cùng cỏ cây, vạn vật, an lòng với cảnh nghèo khó, sống hòa mình với thiên nhiên vũ trụ và giữ được cốt cách thanh cao, trong sạch. Giá trị nghệ thuật của hai câu này là ở sức gợi của nó, gợi cái ung dung, điềm nhiên, đạm bạc mà thanh cao; nhẹ nhàng, từ tốn mà kiên nghị của một con người. Một trong những câu thơ như lời nói thường nhật mà hay hiếm có trong thi ca.

Suy ngẫm lại cuộc sống hiện tại của mình, tác giả dường như chứa chất một nỗi buồn khó tả, nỗi buồn ấy không biết chia sẻ cùng ai, tác giả chỉ biết dùng những thú vui tầm thường tao nhã để quên đi những gì đang diễn ra trước mắt mình.

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.

Hai câu thơ trên được tác giả dựa theo điển tích Trung Hoa nói về cái hư ảo, không thực chất, qua nhanh, có cũng như không, có đấy mà tan ngay đấy của giàu sang phú quý. Nhưng dù sao vẫn có chút ngậm ngùi thân thế. Nguyễn Bỉnh Khiêm biết rõ lẽ thường này và coi thường, xem nhẹ giàu sang phú quý chứ không có chút ngậm ngùi vì vinh hoa qua như chớp mắt. Ta thấy ông ung dung tự tại mang rượu đến gốc cây nằm uống, nhưng không ngủ để giác mơ kia, mà tỉnh táo nhìn nó – sự phú quý đi qua như giấc chiêm bao. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đứng cao hơn một bậc trong sự đối diện với phú quý. Lối sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đạt tới, ở trên tầm cao trong vắt.

Là một nhà Nho có tài, có lòng yêu nước thương dân muốn cống hiến sức lực của mình để giúp dân giúp nước, nhưng ông lại không đứng ra để giúp mà chọn cách sống ẩn dật. Bởi lẽ ông đã chán với cuộc sống chốn quan trường với quan tham, vua nhu nhược, ông chọn cách sống ẩn dật để giữ tâm hồn mình được thanh cao, trong sạch. Bài thơ là nỗi niềm tâm sự của nhà thơ với dân với nước, là sự cay đắng đến tận cùng của tác giả về thế thời của đất nước.

Xem thêm:

 

Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính chất tự sự (như Lượm hoặc Đêm nay bác không ngủ) theo những ngôi kể khác nhau (ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ nhất).

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 7

Bài Nhàn trong Bạch vân quốc ngữ thi thuộc về chủ đề triết lí xã hội, mà tập trung nhất là triết lí Nhàn có người đã từng cho rằng tư tưởng Nhàn, triết lí Nhàn là một chủ đề lớn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói chung và Bạch vân quốc ngữ thi nói riêng. Nhàn với Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là một cứu cánh mà là một phương thức tư duy một triết lí. Cho nên Nhàn là khái niệm chữ không phải là tâm trạng.

Tâm lí Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những biểu hiện tích cực và tiêu cực.

Yếu tố tích cực của chữ Nhàn là ở chỗ: Nhàn là sông theo lẽ tự nhiên, sống hoà hợp với thiên nhiên để cho tâm hồn được thanh thản.

Chúng ta sẽ thấy rất rõ những điều trên qua việc đi sâu phân tích bài thơ Nhàn của ông trong Bạch vân quốc ngữ thi.

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng liên tiếp số từ một nhằm mục đích nhấn mạnh hoàn cảnh sống của ông khi cáo quan về quê. Với những dụng cụ quen thuộc, một mai, một cuốc, một cần câu và có thể là cả một con người, một cuộc đời ở đó. Số từ một biểu hiện sự cô đơn, một mình của Nguyễn Bỉnh Khiêm chốn quê nghèo, ông làm bạn cùng với những vật dụng quen thuộc của nhà nông là mai đào đất, xắn đất, cuốc lật đất, đi kèm phía sau là một cần câu để nhằm chỉ ra rằng sau những lúc làm lụng vất vả, ông vẫn giữ được các thú chơi tao nhã, thanh đạm của người Việt Nam đó là đi câu cá. Số từ một thể hiện sự cô đơn, trong một câu thơ nhà thơ đã sử dụng tơi ba số từ một nhằm nhấn mạnh sự cô đơn, trống vắng của một con người mang đầy chí lớn đang phải sống cuộc đời ẩn dật. Nhưng đứng sau ba số từ một cũng lại là một loạt các danh từ mai, cuối, cần câu, chắc gì sau ba từ một đứng trước… không có một từ một đứng sau. Chắc gì sau ba danh từ đó không có thểm một danh từ ẩn sau đó. Đó là một cuộc đời, một con người chính các công việc của nhà nông ấy, tuy vất vả nhưng lại rất ấm áp và gần gũi. Để rồi chỉ có gần gũi, vui bên thú chơi câu cá tao nhã, thanh đạnt mới làm cho nhân vật trữ tình của chúng ta phải thơ thẩn mà không cần bận tâm đến người khác nói gì, nghĩ gì, làm gì. Chỉ cần những điều khiển ta được vui vẻ, được hoà hợp được.

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Nhịp thơ của câu đầu 2/2/3 thể hiện sự khẳng định, quyết tâm có thể cả sự thách thức.

Một mai / một cuốc / một cần câu

Nhịp thơ đã tạo cho câu thơ có sức chuyển mạnh mẽ, không chỉ là lời nói khẳng định thông thường những gì mình trải qua mà táe giả qua đó muốn khẳng định sự quyết tâm vượt qua những khó khăn, vất vả trong cuộc đời đầy xô bồ, đổi thay. Và từ đó thấy rằng nhân vật trữ tình rất yêu quí, gắn bó thanh đạm mà gần gũi, ấm áp tình người. Cũng chính vì thế mà có sự chuyển nhịp ở câu sau:

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Nhịp thơ 4/3 là sự chậm lại của cảm xúc tâm trạng và nó đem lại một hơi ấm, niềm vui cho nhân vật trữ tình đến đây đã tìm thấy phương thức sống của cuộc đời mình. Với ước muốn sống hoà hợp với thiên nhiên để cho tâm hồn được thanh thản, yên vui, vì thế nhà thơ của chúng ta đã rời xa chốn lao xao để về nơi vắng vẻ.

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ 

Người không, người đến chốn lao xao. 

Tự nhận mình là dại, tác giả dại vì đã rời xa chốn phồn hoa đô hội, lấp lánh trở về sống ẩn nấp, vất vả nơi vùng quê nghèo. Nhưng có phải vì thê mà dại chăng? Và thế nào là khôn, không là đến sống ở nơi sung sướng, đầy đủ lụa là gấm vóc, ấm êm, cung phụng lẽ vì thế mà mới không. Và khôn, dại như thê nào mà tìm đến ở chôn lao xao và nơi vắng vẻ.

Tâm lí Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những biểu hiện tích cực và tiêu cực

Đặt câu thơ trong hoàn cảnh sống của tác giả, chúng ta sẽ thấy quan niệm về nơi vắng vẻ và chôn lao xao hay quan niệm dại và khôn. Nơi vắng vẻ ở đây chính là cuộc sống đạm bạc với thôn quê còn nhiều khó khăn và thiếu thốn. Chỉ có người dám coi thường danh lợi, coi thường vật chất, coi của cải chỉ là phù phiếm mới có thể dại mà đến ở nơi vắng vẻ. Còn chốn lao xao chính là nơi tấp nập ngựa xe, nơi sung sướng và đầy đủ, là cuộc sống hoàn toàn đối lập với nơi vắng vẻ và nơi đó chỉ đành cho những ai biết khôn, những ai coi danh lợi, vật chất là cuộc sống thì mới sống và muốn sống ở đó. Tác giả đã sử dụng hai từ láy vắng vẻ và lao xao để miêu tả hai chốn ở khác nhau. Vắng vẻ từ láy tạo nên đậm nét sức bình dị, yên bình của thôn quê. Còn từ láy lao xao nó như có cả tiếng reo vui, tiếng náo nhiệt và tấp nập của chốn đô thành. Và từ đây ta có thể hiểu nơi vắng vè là thôn quê, yên lành, còn chốn lao xao là vùng kinh đô đầy náo nhiệt. Nhưng còn không là thế nào và dại là ra sao? Chon nơi vắng vẻ là để tránh xa cuộc sống xô bồ của cuộc đời đầy bon chen, toan tính và không ít hiểm nguy. Và khi tránh xa những điều đó thì tác giả dại hay khôn. Còn khôn sống ở nơi đô thị tránh xa sự yên bình, thanh sạch khi đó là khôn hay dại khi bước chân vào chốn xô bồ. Nguyễn Binh Khiêm đã dùng biện pháp nghệ thuật sóng đôi ở hai câu thơ này để diễn tả sự đối lập, tương phản, thậm chí là trái ngược hoàn toàn tới xung khắc của hai nơi sống, hai quan điểm sống và hai sự lựa chọn.

Ta dai / ta tìm nơi vắng vẻ 

Người khôn / người đến chốn lao xao.

Ta đối với người, dại đối với khôn, ta tìm đối với người đến (thể hiện sự lựa chọn qua hai từ tìm và đển) nơi vắng vẻ đối với chốn lao xao. Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất của bài thơ. Bởi nghệ thuật đối, bởi ý nghĩa tư tưởng của hai câu muốn nói đến. Hai câu thơ đối xứng nhau rất chuẩn cả về từ và cả về dấu thanh tạo nên sự khác biệt và đối lập nhằm khẳng định một lần nữa cách sống và cách lựa chọn của tác giả?

Hai câu tiếp theo miêu tả cuộc sống của Nguyễn Bình Khiêm nơi thôn quê nghèo thanh đạm với những sản vật riêng chỉ có nơi thôn quê.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá 

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Mặc dù sống ở nơi thôn quê còn nhiều khó khăn vất vả, nhưng ở đó lại cos các thú vui riêng và được thưởng thức những món ăn rất tầm thường nhưng lại ngon vô cùng. Chỉ có măng trúc và giá thôi, mà nào thức nấy, những thứ ấy dù rất bình thường vì lúc nào cũng có sẵn trong nhà. Thế nhưng khi ăn chúng ta sơ cảm nhận được vị ngon của nó nhờ vào sự hoà hợp, cảm thông của tấm lòng với tấm lòng. Bởi vì đã không ít lần Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rằng:

Câu thanh nhàn đọc qua ngày tháng.

Hay:  

Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách

Qua hai câu thơ thứ 5 và 6 này, chúng ta thấy cuộc sống của tác giả nơi thôn quê thaajt đạm bạc mà thanh nhàn. Đạm bạc hỏi món ăn chỉ măng và giá nhưng thanh nhàn, hoà hợp với thiên nhiên.

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Chỉ có vùng nông thôn người ta nói có thể được vùng vẫy, thoải mãi thả hồn mình vào trong thiên nhiên hoà mình với thiên nhiên để cảm hết niềm hạnh phúc, thú vui lạc quan ở đời.

Nếu mới đọc qua chúng ta chỉ thấy đó là hai câu thơ tả cuộc sống nơi thôn quê của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng chiều sâu trong đó lý tưởng sống cùa ông, là khát vọng được sống hoà hợp với thiên nhiên. Được ăn những món ăn mà chỉ do thiên nhiên hoà quyện với thiên nhiên mới khiến ta mở rộng lòng mình, vùng vẫy ôm thiên nhiên vào lòng và cũng chính thiên nhiên ôm ta vào lòng nâng dậy sức sống và khơi mát tâm hồn. Chỉ có thiên nhiên tươi đẹp mới làm cho tâm hồn ta thanh thản, ấm áp mà thôi. Là nếu cần đánh đổi thì Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ sẵn sàng đánh đối phú quí để được tận hưởng cuộc sống này, tận hưởng các nhàn.

Để rẻ công danh muốn được nhàn.

Dường như bất kì thi nhân nào cũng không tránh được một thú vui, không thể thiếu của cuộc đời đó là rượu và Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không tránh khỏi niềm đam mê với các thú vui ấy:

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống 

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.

Đây là hai câu thơ có lấy điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say và nằm dưới gốc cây hoè ngủ. Ông ta mơ thấy mình ở nước Hoè An được công danh phú quí, vinh huấn. Nhưng khi tỉnh dậy thì đó chỉ là giấc mộng, thấy cành hoè phía nam chỉ có một tấc kiến mà phơi. Điển tích này để chỉ phú quí chỉ là giấc chiêm bao.

Chính vì quan điểm này Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không màng đến danh lợi bởi danh lợi, phú quí chỉ là phù phiếm và chỉ như một giấc mộng rồi sẽ qua đi.

Để rẻ công danh muốn được nhàn.

Hay: 

Thấy dặm thanh vân lại bước chen Được nhàn ta sá dường thân nhàn. 

Chữ nhàn ở thơ Nguyễn Bình Khiêm đôi lập với tất cả chữ nhàn ở thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhàn than chức không phải là nhàn tâm. Dù nhàn nhưng vẫn lo âu việc nước việc đời.

Hai câu kết tác giả muốn khẳng định rằng tiền bạc của cải chỉ là phù phiếm, nó sẽ nhanh chóng tan biến theo bước đường thời gian, vì vậy mà phương châm sống đừng chỉ lúc nào cũng mong về tiền tài, danh vọng.

Tuy rằng chữ nhàn có những hạn chế như: nhiều yếu tố nhàn rỗi, nhàn tâm, yên phận khá đậm nét. Mà đặc biệt một nhà nho ưu thời mẫu tục như Nguyễn Bỉnh Khiêm mà lại chủ trương nhàn tâm, chủ trương vô sự ngáy pho pho trước cảnh đất nước loạn lạc, nhân dân cực khổ lầm than. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm hi vọng với những vần thơ triết lí này của mình có thể giữ trọn được tâm hồn và nhân cách để cuộc sống con người được hài hoà, hợp với lẽ của tự nhiên và xã hội cũng đi đến…

Nhàn là một triết lí sống để bảo toàn nhân phẩm trước sự đua chen danh lợi, trước sự băng hoại về đạo đức:

Có thuở được thời mèo đuổi chuột 

Đến khi thất thế kiến tha bò.

Và:

Hoa càng khoe nở hoa càng rữa 

Nước chứa cho đầy nước ắt vơi. 

Toàn bộ bài thơ nhàn là một lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hoà hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi. Nhàn là triết lí sống chi phối nhiều sáng tác của Nguyễn Binh Khiêm. Tuy có lúc nó có mang yếu tốt tiêu cực nhưng nó lại là triết lí sống giúp con người ta sống đẹp hơn, đúng hơn với đời.

Bài viết liên quan:

  1. Phân tích chân dung Mã Giám Sinh và nội tâm Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều
  2. Cảm nhận về câu ca dao Ước gì sông rộng một gang. Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi.
  3. Phân tích hai chặng đời đấu tranh của nhân vật cô Tâm trong truyện cố tích “Tấm Cám”.
  4. “Bình ngô đại cáo là khúc ca hùng tráng bất hủ của dân tộc ta.” (Phạm Văn Đồng). Hãy cho biết ý kiến của em trước lời nhận định trên.
  5. Phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên trích Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ
  6. Tác phẩm “Nguyễn Du – Truyện Kiều” (Tác phẩm chọn lọc 1972, t.13) có viết; “Vừa đau xót, thông cảm, vừa ca ngợi, đồng tình vớinhững kẻ bị áp bức, Nguyễn Du đã biểu lộ trong “Truyện Kiều” tinh thần nhân đạo chủ nghĩa sâu xa của một nghệ sĩ thiên tài”. Bằng những hiểu biết về “Truyện Kiều”, hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
  7. Phân tích đoạn “Tào Tháo uống rượu luận anh hùng”, trích Hồi 21, “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung.
  8. “Tập quán xấu ban đầu là khách qua đường, sau trở nên người bạn thân ở chung nhà và kết cuộc biến thành một ông chủ khó tính”. Tìm hiểu ý nghĩa câu trên và từ đó rút ra bài học cho bản thân.
Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kiến Thức Chung

Xem Thêm :   Hướng dẫn cách dùng hàm DATE trong Excel – cách tính toán ngày tháng

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tổng Hợp
Xem thêm :  Bật mí các bước lập kế hoạch kinh doanh mỹ phẩm hiệu quả

Related Articles

Back to top button