Cái chết, phật giáo và chủ nghĩa hiện sinh trong nhạc trịnh công sơn
CÁI CHẾT,
PHẬT GIÁO
VÀ
CHỦ NGHĨA
HIỆN SINH
TRONG NHẠC TRỊNH CÔNG SƠN
John C. Schafer – Vy Huyền Dịch
Đôi nét về
tác giả
John C. Schafer là giáo sư , khoa Anh ngữ,
Đại học
Humboldt, Hoa Kỳ. Ông đã dạy Anh ngữ tại
Việt Nam
theo
Chương trình
Tình nguyện
Quốc tế (1968-1970) và
Chương trình
Fullbright (1971-1973, 2001).
Trích yếu
giải thích
về sự
nổi tiếng
của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua những đề tài như: ca từ đầy chất thơ, khác với dòng nhạc tiền chiến, mang
chủ đề
phản chiến, cả việc ông đã
khám phá
ra những tiếng hát nữ
tài năng
, và còn nhiều điều khác nữa. Nhưng
chủ đề
Phật giáo
trong những
bài hát
của ông lại rất
ít khi
được nhắc đến,
phải chăng
, đây là điều những
học giả
Việt Nam
cho là
hiển nhiên
. Bài viết này nói đến
chủ đề
Phật giáo
trong nhạc Trịnh và
chứng minh
rằng
chủ đề
này góp phần vào việc
giải thích
hiện tượng
Trịnh Công Sơn.
Ngoài ra
, bài viết này cũng đề cập đến
chủ nghĩa
hiện sinh
Âu châu, là điều mà
tác giả
bài viết cho rằng đã thu hút Trịnh Công Sơn nhưng không có
ảnh hưởng
lớn đến những
sáng tác
của ông. Đã có rất nhiều lờivề sựcủa nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua những đề tài như: ca từ đầy chất thơ, khác với dòng nhạc tiền chiến, mangphản chiến, cả việc ông đãra những tiếng hát nữ, và còn nhiều điều khác nữa. Nhưngtrong nhữngcủa ông lại rấtđược nhắc đến,, đây là điều nhữngcho là. Bài viết này nói đếntrong nhạc Trịnh vàrằngnày góp phần vào việcTrịnh Công Sơn., bài viết này cũng đề cập đếnÂu châu, là điều màbài viết cho rằng đã thu hút Trịnh Công Sơn nhưng không cólớn đến nhữngcủa ông.
thời gian
chiến tranh (ở
Việt Nam
), tôi dạy Anh ngữ tại miền Nam
Việt Nam
và
trở thành
một người
hâm mộ
ca/nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Vào những năm cuối thập niên 1960 và đầu 1970, ở các thành thị miền Nam,
mọi người
,
đặc biệt
giới sinh viên, đều nghe và hát nhạc Trịnh – họ hát những
bài hát
như “Gia tài của mẹ”, “Tình ca người mất trí”, và “Đại bác ru đêm”.
bài hát
này là “thánh ca”, chúng
thể hiện
lòng khát khao hoà bình và tình yêu quê hương của họ.
Trongchiến tranh (ở), tôi dạy Anh ngữ tại miền Namvàmột ngườica/nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Vào những năm cuối thập niên 1960 và đầu 1970, ở các thành thị miền Nam,giới sinh viên, đều nghe và hát nhạc Trịnh – họ hát nhữngnhư “Gia tài của mẹ”, “Tình ca người mất trí”, và “Đại bác ru đêm”. [1] Với những người trẻ mà tôi đã được biết trong cuộc chiến, cácnày là “thánh ca”, chúnglòng khát khao hoà bình và tình yêu quê hương của họ.
Việt Nam
, và
tiếp tục
sáng tác
. Đã có một thời, chính quyền cộng sản e ngại ông: họ
không chấp
nhận
thái độ
phản chiến của ông, vì ông
lên tiếng
chống lại
mọi
hình thức
chiến tranh kể cả chiến tranh kháng chiến của họ. Hiện nay, những
bài hát
phản chiến của ông vẫn không được cho hát và
phổ biến
tại
Việt Nam
.
Việt Nam
và khi được
chứng kiến
tình cảm và sự tiếc thương của
mọi người
trước sự ra đi của ông, tôi bắt đầu
quan tâm
đến những
lý do
vì sao ông lại quá
nổi tiếng
như vậy. Tôi
nghiên cứu
về những điều này trong một bài viết khác.
Sau năm 1975, Trịnh Công Sơn ở lại, và. Đã có một thời, chính quyền cộng sản e ngại ông: họnhậnphản chiến của ông, vì ôngmọichiến tranh kể cả chiến tranh kháng chiến của họ. Hiện nay, nhữngphản chiến của ông vẫn không được cho hát vàtại [2] Ngày 1 tháng 4 năm 2001, ông qua đời; tôi có dịp ởvà khi đượctình cảm và sự tiếc thương củatrước sự ra đi của ông, tôi bắt đầuđến nhữngvì sao ông lại quánhư vậy. Tôivề những điều này trong một bài viết khác. [3] Riêng trong bài viết này, tôi chú trọng hơn về triết lý sống của Trịnh Công Sơn.
chấp nhận
cụm từ “triết lý sống.” Nhiều
sáng tác
của ông mang những
hình ảnh
siêu thực, ca từ lạ và không theo
quy tắc
. Có thể,
chúng ta
sẽ phải hỏi rằng, làm sao những
sáng tác
như vậy lại được coi là những
lý luận
triết học? Mặc dù các
bài hát
của ông có những
đặc điểm
vừa nêu trên, tôi vẫn nghĩ rằng, trước sau như một, chúng mang một triết lý khá
kiên định
. Trịnh Công Sơn đã từng theo học
triết học
tại một trường trung học của Pháp ở Sài Gòn, và ông từng nói rằng ông “vốn thích
triết học
và vì thế [ông] muốn đưa
triết học
vào
ca khúc
của minh, một thứ
triết học
nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được.”
miêu tả
cái triết lý “nhẹ nhàng” đó và sẽ
chứng minh
rằng triết lý này chính là triết
lý Phật
Giáo, và cũng phần nào
liên hệ
đến
chủ nghĩa
hiện sinh
Âu châu, một triết lý đã
mê hoặc
Trịnh Công Sơn và giới
trí thức
miền Nam trong những năm cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960.
Những người biết nhạc Trịnh Công Sơn có thể sẽ khócụm từ “triết lý sống.” Nhiềucủa ông mang nhữngsiêu thực, ca từ lạ và không theo. Có thể,sẽ phải hỏi rằng, làm sao nhữngnhư vậy lại được coi là nhữngtriết học? Mặc dù cáccủa ông có nhữngvừa nêu trên, tôi vẫn nghĩ rằng, trước sau như một, chúng mang một triết lý khá. Trịnh Công Sơn đã từng theo họctại một trường trung học của Pháp ở Sài Gòn, và ông từng nói rằng ông “vốn thíchvà vì thế [ông] muốn đưavàocủa minh, một thứnhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được.” [4] Trong bài viết này, tôi sẽcái triết lý “nhẹ nhàng” đó và sẽrằng triết lý này chính là triếtGiáo, và cũng phần nàođếnÂu châu, một triết lý đãTrịnh Công Sơn và giớimiền Nam trong những năm cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960.
“Triết lý nhẹ nhàng” của Trịnh Công Sơn
Triết lý của Trịnh Công Sơn, qua những
sáng tác
của ông,
dựa trên
nhận thức
rằng cuộc sống tuy có những niềm vui, nhưng cũng đầy những u buồn. Trong bài “Gọi tên bốn mùa”, ông thốt lên rằng “Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng
kiếp người
.” Trong bài này và một số bài khác, ông
miêu tả
tuổi trẻ
, nhất là những năm tháng của tuổi đôi mươi, là
thời gian
đặc biệt
buồn bã của
cuộc đời
. Trong bài “Nhìn những
mùa thu
đi”, ông hát:
Đời sống
đầy u buồn vì nó tạm bợ. Tất cả – chim trời, hoa lá, niềm vui, những cuộc tình, và chính
đời sống
mỗi
con người
– chỉ là những điều tạm bợ, phù du như sương mù. Trong bài “Ở trọ”, Trịnh Công Sơn
nhấn mạnh
rằng,
vạn vật
chỉ là kẻ ở trọ nơi
cõi trần
:
Trong một số
bài hát
của Trịnh Công Sơn, tình yêu chính là nơi
nương náu
quyến rũ
của
con người
ở cõi thế u buồn này. Nhưng vì tình yêu, cũng như
vạn vật
, chỉ là tạm bợ nên tình yêu không phải là nơi
nương náu
vững vàng
cho mỗi người. Tình yêu
tuyệt đẹp
nhưng phù du, là
chủ đề
được
tìm thấy
trong nhiều
bài hát
của Trịnh Công Sơn. Ví dụ, trong bài “Đóa hoa vô thường”, ông hát về những giai đoạn của một cuộc tình – niềm vui khi tình yêu chớm nở và sau đó là một
kết cuộc
buồn không thể
tránh khỏi
:
tình ca
của Trịnh Công Sơn là những lời khẳng định siêu hình rằng những chia lìa, tan vỡ của những cuộc tình không phải là những
chướng ngại
trên đường đời vốn cơ bản là vui. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, những
bài hát
đó là “bài kinh cầu bên
vực thẳm
.”
đại học
tôi dạy hồi chiến tranh đều biết.
tình ca
Trịnh Công Sơn là những cái chết, là sự chuẩn bị chuyến ra đi
cuối cùng
khỏi kiếp này của người tình và của chính mình. Chúng gợi nhắc ta về cõi tạm. Trong những
bài hát
của Trịnh Công Sơn, cái chết, chuyến ra đi
cuối cùng
, không bao giờ là điều xa xôi. Trong một số
bài hát
, ông nói đến cái chết của chính mình,
Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người bạn của Trịnh Công Sơn, cho rằng các bàicủa Trịnh Công Sơn là những lời khẳng định siêu hình rằng những chia lìa, tan vỡ của những cuộc tình không phải là nhữngtrên đường đời vốn cơ bản là vui. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhữngđó là “bài kinh cầu bên.” [5] Nhà thơ Xuân Diệu đã từng nói, “Yêu là chết ở trong lòng một ít”; đây là câu thơ mà tất cả những sinh viêntôi dạy hồi chiến tranh đều biết. [6] Sự chia lìa không tránh được trongTrịnh Công Sơn là những cái chết, là sự chuẩn bị chuyến ra đikhỏi kiếp này của người tình và của chính mình. Chúng gợi nhắc ta về cõi tạm. Trong nhữngcủa Trịnh Công Sơn, cái chết, chuyến ra đi, không bao giờ là điều xa xôi. Trong một số, ông nói đến cái chết của chính mình, [7] như trong bài “Bên đời hiu quạnh”:
mơ hồ
hơn – như là
hành trình
về “nơi cuối trời.”
hình ảnh
nào đi nữa, nhạc Trịnh Công Sơn luôn hướng đến sự vĩnh hằng, như trong
bài hát
với tựa đề “Lời
thiên thu
gọi”:
Trong các bài khác, ông nói đến cái chết một cáchhơn – như làvề “nơi cuối trời.” [8] Dù bằngnào đi nữa, nhạc Trịnh Công Sơn luôn hướng đến sự vĩnh hằng, như trongvới tựa đề “Lờigọi”:
Và trong bài “Còn có bao ngày”, ông hát:
bao gồm
cả
vũ trụ
học. Có hai
thế giới
:
một thế
giới thực, là “trần gian” hay “nhân gian”, và
một thế
giới
phi thực
, là “thiên thu”, “đất muôn đời”, “thiên đàng” hay “vườn địa đàng”. Nhưng
thế giới
thực luôn hoà lẫn với cái
thế giới
phi thực
, cho nên
thế giới
của nhạc Trịnh Công Sơn là nơi mà Bùi
Vĩnh Phúc
gọi là
thế giới
“nhoè nhạt” hay “lai”,
một thế
giới mà trong bài “Đời cho ta thế”, Trịnh Công Sơn đã hát rằng “Không xa trời và cũng không xa phận người”. Cái mờ ảo giữa thực và
phi thực
, có thể được coi là cõi mờ ảo giữa sự sống và sự chết, giữa
thực thể
trần gian và chốn vĩnh hằng bao
trùm khắp
và là sự pha trộn của những
hình ảnh
đối lập
quan trọng nhất trong nhạc Trịnh Công Sơn.
Triết lý nhẹ nhàng của Trịnh Công Sơn còncảhọc. Có haigiới thực, là “trần gian” hay “nhân gian”, vàgiới, là “thiên thu”, “đất muôn đời”, “thiên đàng” hay “vườn địa đàng”. Nhưngthực luôn hoà lẫn với cái, cho nêncủa nhạc Trịnh Công Sơn là nơi mà Bùigọi là“nhoè nhạt” hay “lai”, [9] là chốn giữa thực và siêu thực;giới mà trong bài “Đời cho ta thế”, Trịnh Công Sơn đã hát rằng “Không xa trời và cũng không xa phận người”. Cái mờ ảo giữa thực và, có thể được coi là cõi mờ ảo giữa sự sống và sự chết, giữatrần gian và chốn vĩnh hằng baovà là sự pha trộn của nhữngquan trọng nhất trong nhạc Trịnh Công Sơn.
thường có
một thoáng của cái này trong cái kia và ngược lại: “Một chút xuôi trong ngược. Trăm năm trong xuân thì.
Chân như
trong hạt lệ.”
hệ thống
thường được dùng để trung hoà những điều đối nghịch, lại được Trịnh Công Sơn dùng đến, không phải để
phân biệt
và
đối lập
các
giá trị
và
phạm trù
, mà ngược lại, để làm nhoè và mờ đi, một nghệ thuật Cao Huy Thuần gọi là “đối hợp.”
không thật
gần”, “Không xa đời và cũng không xa mộ người”, và “Một phố hồng, một phố hư không”.
Nhưng còn có những mờ ảo khác, thường trong cùng một dòng. Theo Cao Huy Thuần, nhạc Trịnh Công Sơnmột thoáng của cái này trong cái kia và ngược lại: “Một chút xuôi trong ngược. Trăm năm trong xuân thì.trong hạt lệ.” [10] Nhiều câu chữ có cấu trúc song song, mộtthường được dùng để trung hoà những điều đối nghịch, lại được Trịnh Công Sơn dùng đến, không phải đểvàcácvà, mà ngược lại, để làm nhoè và mờ đi, một nghệ thuật Cao Huy Thuần gọi là “đối hợp.” [11] Ví dụ: “Tình không xa nhưnggần”, “Không xa đời và cũng không xa mộ người”, và “Một phố hồng, một phố hư không”. [12]
hiển nhiên
không muốn
phân biệt
chất lượng cũng như
phạm trù
: “Có chút lệ nhoà trong phút hôn nhau” và “Tình ngỡ đã phôi pha nhưng tình vẫn còn đầy”.
Tuy cấu trúc không song song, nhưng có những câu nhạc của Trịnh Công Sơnkhông muốnchất lượng cũng như: “Có chút lệ nhoà trong phút hôn nhau” và “Tình ngỡ đã phôi pha nhưng tình vẫn còn đầy”. [13]
hình ảnh
một người đi xuyên suốt
một thế
giới nửa hư nửa thực. Người ấy
mệt mỏi
và buồn bã. Dù
biết ơn
cuộc đời
này,
đặc biệt
là tình yêu, ông
hoàn toàn
thuộc về chốn
nhân gian
này; trong một số
bài hát
, ông nhắc đến mình như kẻ
lưu đày
.
con người
này sẽ đi về đâu? Và ông đang ra đi, hay đang trở về? Ông ra đi từ trần gian này, hay đang
trở về
từ một chốn nào khác? Kẻ lữ hành đó không thể
trả lời
những câu hỏi này. Trong bài “Có một ngày như thế”, ông hát:
Nhạc Trịnh Công Sơn cho tamột người đi xuyên suốtgiới nửa hư nửa thực. Người ấyvà buồn bã. Dùnày,là tình yêu, ông [14] vẫn khôngthuộc về chốnnày; trong một số, ông nhắc đến mình như kẻ [15] Vậynày sẽ đi về đâu? Và ông đang ra đi, hay đang trở về? Ông ra đi từ trần gian này, hay đangtừ một chốn nào khác? Kẻ lữ hành đó không thểnhững câu hỏi này. Trong bài “Có một ngày như thế”, ông hát:
Và trong bài “Tiến thoái lưỡng nan” ông hát:
Trong nhiều bài khác, ông lại hát lên nỗi nhớ nhà:
“Lời
thiên thu
gọi”
“Bên đời hiu quạnh”
“Đêm thấy ta là thác đổ”
cuối cùng
của mình – cái chết, sự vĩnh hằng? Về điểm này, ông có vẻ cũng không rõ – như trong bài “Tiến thoái lưỡng nan”, rằng ông đang đi về “cuối ngõ” nơi
quê nhà
hay về “cuối trời” của cõi vĩnh hằng. Trong
bài hát
“Một cõi đi về”
nổi tiếng
của ông, Trịnh Công Sơn viết “Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà”, và
vì vậy
người nhạc sĩ cứ mãi
loanh quanh
:
Nhưng khi nhắc đến “nhà”, “quê nhà” và “quê quán”, vậy ông đang nhắc đến quê quán của mình, hay đang nói nơi yên nghỉcủa mình – cái chết, sự vĩnh hằng? Về điểm này, ông có vẻ cũng không rõ – như trong bài “Tiến thoái lưỡng nan”, rằng ông đang đi về “cuối ngõ” nơihay về “cuối trời” của cõi vĩnh hằng. Trong“Một cõi đi về” [16] rấtcủa ông, Trịnh Công Sơn viết “Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà”, vàngười nhạc sĩ cứ mãi
Những
ảnh hưởng
của
Phật giáo
Như hầu hết các triết lý khác, “triết lý nhẹ nhàng” của nhạc Trịnh Công Sơn để lại cho
chúng ta
rất nhiều thắc mắc. Tuy vậy, triết lý của Trịnh Công Sơn và những
sáng tác
của ông, thật ra không khó hiểu như khi vừa tiếp cận, một khi
chúng ta
nhìn chúng từ
tư tưởng
Phật giáo
.
Hiển nhiên
, biết thêm về
cuộc đời
của người nhạc sĩ này cũng phần nào giúp
chúng ta
hiểu thêm.
trải qua
thời
thơ ấu
gắn liền với
cuộc chiến thứ nhất và
trưởng thành
trong
thời gian
xảy ra cuộc chiến thứ hai ở Đông Dương; một trải nghiệm
chắc chắn
đã giúp ông thấy rằng
thế giới
này ngập tràn những khổ đau và sự sống rất
mong manh
. Cha ông
tham gia
kháng chiến và đã bị
bỏ tù
ở Buôn Ma Thuột; năm 1949, khi mới lên mười, Trịnh Công Sơn đã phải sống với cha ông một năm trong Lao Thừa Phủ. Năm năm sau, cha ông qua đời trong một
tai nạn
xe trên đường từ Quảng Trị về nhà ở Huế.
trả lời
phỏng vấn
, Trịnh Công Sơn có lần đã nói rằng từ những năm của thời
thơ ấu
mãi đến tận bây giờ (1998), với ông, cái chết vẫn luôn là “ám ảnh lớn nhất” và cho rằng “biên giới giữa cái chết và cái sống hình như chỉ là một sợi tóc
mong manh
.”
tác giả
khác đã viết rất nhiều bài về thời
thơ ấu
và những trải nghiệm chiến tranh của ông,
ảnh hưởng
của
Phật giáo
và
chủ nghĩa
hiện sinh
.
Trịnh Công Sơn đãthờicuộc chiến thứ nhất vàtrongxảy ra cuộc chiến thứ hai ở Đông Dương; một trải nghiệmđã giúp ông thấy rằngnày ngập tràn những khổ đau và sự sống rất. Cha ôngkháng chiến và đã bịở Buôn Ma Thuột; năm 1949, khi mới lên mười, Trịnh Công Sơn đã phải sống với cha ông một năm trong Lao Thừa Phủ. Năm năm sau, cha ông qua đời trong mộtxe trên đường từ Quảng Trị về nhà ở Huế. [17] Trong một cuộc, Trịnh Công Sơn có lần đã nói rằng từ những năm của thờimãi đến tận bây giờ (1998), với ông, cái chết vẫn luôn là “ám ảnh lớn nhất” và cho rằng “biên giới giữa cái chết và cái sống hình như chỉ là một sợi tóc.” [18] Nhiềukhác đã viết rất nhiều bài về thờivà những trải nghiệm chiến tranh của ông, [19] nên ở đây, tôi sẽ chỉ tập trung nói về nhữngcủavà
ảnh hưởng
của
Phật giáo
trong các
sáng tác
của ông.
ảnh hưởng
này, theo tôi, là vì trong một nền văn hoá vốn đã quá
thấm nhuần
tư tưởng
Phật giáo
như ở
Việt Nam
, những người viết về Trịnh Công Sơn tự thấy không
cần thiết
phải đi sâu vào
chủ đề
này thêm nữa. Tuy vậy, trong những lần
trả lời
phỏng vấn
, chính Trịnh Công Sơn
thỉnh thoảng
đã nhắc đến những
ảnh hưởng
của Huế, quê hương ông, và của
Phật giáo
. “Huế và
đạo Phật
ảnh hưởng
sâu đậm trên tình cảm thời
thơ ấu
của tôi”, ông đã nói với một người
phỏng vấn
ông như vậy.
Phật giáo
gắn kết với
tâm hồn
của Trịnh Công Sơn cũng như nhiều người
Việt Nam
khác. Huế là đất của
Phật giáo
với rất nhiều chùa chiền. Tháng 5 năm 1963, khi những
đại diện
của vị Tổng thống theo
đạo Công
giáo Ngô Đình Diệm cấm
Phật tử
treo cờ mừng
lễ Phật đản
lần thứ 2527, nhiều người đã tập trung
biểu tình
hoà bình gần Đài phát thanh Huế. Một sĩ quan cảnh sát đã ra lệnh cho bắn vào đám đông
biểu tình
, giết chết một
phụ nữ
và tám trẻ em.
Sự kiện
này đã làm tăng những cuộc
biểu tình
của
Phật tử
và phần nào là
nguyên nhân
dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm. Huế cũng được biết đến với nhiều khu lăng tẩm vua chúa nằm ở những vùng yên lắng ở ngoại ô thành phố. Khi được hỏi về những
ảnh hưởng
của Huế, Trịnh Công Sơn đã nhắc đến những lăng tẩm – những cơn mưa dầm, và
con đường
mang tên “Âm hồn” ở Huế! Trịnh Công Sơn nói, “Tất cả những
bài hát
của tôi đều viết về Huế”; điều này cho thấy quê quán phần nào là
nguyên nhân
của
nỗi buồn
và
ám ảnh
về cái chết mà
mọi người
tìm thấy
trong những
bài hát
của ông.
Sau khi ông qua đời, trong rất nhiều những bài viết về Trịnh Công Sơn, người ta thường nhắc qua vềcủatrong cáccủa ông. [20] Những người say mê Trịnh Công Sơn thường không đi sâu vào nhữngnày, theo tôi, là vì trong một nền văn hoá vốn đã quánhư ở, những người viết về Trịnh Công Sơn tự thấy khôngphải đi sâu vàonày thêm nữa. Tuy vậy, trong những lần, chính Trịnh Công Sơnđã nhắc đến nhữngcủa Huế, quê hương ông, và của. “Huế vàsâu đậm trên tình cảm thờicủa tôi”, ông đã nói với một ngườiông như vậy. [21] Huế vàgắn kết vớicủa Trịnh Công Sơn cũng như nhiều ngườikhác. Huế là đất củavới rất nhiều chùa chiền. Tháng 5 năm 1963, khi nhữngcủa vị Tổng thống theogiáo Ngô Đình Diệm cấmtreo cờ mừnglần thứ 2527, nhiều người đã tập trunghoà bình gần Đài phát thanh Huế. Một sĩ quan cảnh sát đã ra lệnh cho bắn vào đám đông, giết chết mộtvà tám trẻ em.này đã làm tăng những cuộccủavà phần nào làdẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm. Huế cũng được biết đến với nhiều khu lăng tẩm vua chúa nằm ở những vùng yên lắng ở ngoại ô thành phố. Khi được hỏi về nhữngcủa Huế, Trịnh Công Sơn đã nhắc đến những lăng tẩm – những cơn mưa dầm, vàmang tên “Âm hồn” ở Huế! Trịnh Công Sơn nói, “Tất cả nhữngcủa tôi đều viết về Huế”; điều này cho thấy quê quán phần nào làcủavàvề cái chết màtrong nhữngcủa ông. [22]
Trong bài viết năm 2001 trên tờ Trịnh Công Sơn đã nói trực tiếp về những
ảnh hưởng
của
Phật giáo
đến
cuộc đời
và những
sáng tác
của ông:
ảnh hưởng
của
Phật Giáo
xuất hiện
rõ nhất trong các
bài hát
của ông.
Chân lý
trước tiên
của
Phật giáo
là “Đời là bể khổ.”
chân lý
khác là tính tạm bợ của cõi
nhân gian
, đã được
diễn đạt
rõ ràng
và thi vị trong
Kim cương kinh
(
Kim cương bát nhã ba la mật kinh
), một trong những
bộ kinh
quan trọng nhất của
Phật giáo
:
Nhưng bằng chứng về nhữngcủarõ nhất trong cáccủa ông.củalà “Đời là bể khổ.” [24] Mộtkhác là tính tạm bợ của cõi, đã đượcvà thi vị trong), một trong nhữngquan trọng nhất của
hai chân lý
này – rằng
đời sống
là khổ đau và không có điều gì là
vĩnh cửu
– là hai điều
chúng ta
sẽ thấy được lặp đi lặp lại nhiều lần trong nhạc Trịnh Công Sơn. Hai điều này
liên quan
chặt chẽ
với nhau
:
con người
khổ đau vì không có điều gì
vĩnh cửu
. Peter Harvey cho rằng
Phật giáo
“chẳng những không khước từ
hạnh phúc
tồn tại
ở
cõi trần
mà còn
cung cấp
nhiều cách để đạt thêm
hạnh phúc
nữa, nhưng cũng
nhấn mạnh
rằng, tất cả mọi hình thái của
hạnh phúc
đều không
vĩnh cửu
(trừ cõi
niết bàn
).
Sớm muộn
gì, những niềm
hạnh phúc
này rồi sẽ tuột khỏi tay của mỗi
con người
, và để lại những
dư vị
của mất mát và khao khát.”
chấp nhận
một
chân lý
khác rằng
con đường
để
chấm dứt
khổ đau là hãy bớt đi những
si mê
với cõi đời này. Điều này, Trịnh Công Sơn biết ông sẽ khó làm được, vì ông đã hát trong bài “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” rằng “Đã yêu
cuộc đời
này bằng trái tim của tôi”. Điều này không có nghĩa rằng Trịnh Công Sơn
cảm thấy
mâu thuẫn
giữa
niềm tin
vào
Phật giáo
và tình yêu của ông với
cuộc đời
. Ông đã từng nói, “Với tôi,
Phật giáo
là một
triết học
làm cho ta yêu đời hơn chứ không phải làm cho ta lãng quên cuộc sống”.
Phật giáo
cũng dạy về sự quan trọng của việc không
quyến luyến
, không
bám víu
vào những vui thú của
cuộc đời
. Trong một số
bài hát
,
chúng ta
thấy Trịnh Công Sơn đã trăn trở nhưng chưa thôi
quyến luyến
cuộc đời
; trong những bài ông viết sau này – ví dụ như bài “Như một lời chia tay”
sáng tác
năm 1991, và bài “Tôi ơi đừng tuyệt vọng”,
sáng tác
năm 1992 – ông dường như đã sẵn sàng hơn để
từ bỏ
cõi này.
Cảnày – rằnglà khổ đau và không có điều gì là– là hai điềusẽ thấy được lặp đi lặp lại nhiều lần trong nhạc Trịnh Công Sơn. Hai điều nàychặt chẽkhổ đau vì không có điều gì. Peter Harvey cho rằng“chẳng những không khước từmà cònnhiều cách để đạt thêmnữa, nhưng cũngrằng, tất cả mọi hình thái củađều không(trừ cõi).gì, những niềmnày rồi sẽ tuột khỏi tay của mỗi, và để lại nhữngcủa mất mát và khao khát.” [26] Những “dư vị của mất mát và khao khát” đó rất rõ trong nhạc Trịnh Công Sơn, là bằng chứng cho thấy ông đã trăn trở đểmộtkhác rằngđểkhổ đau là hãy bớt đi nhữngvới cõi đời này. Điều này, Trịnh Công Sơn biết ông sẽ khó làm được, vì ông đã hát trong bài “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” rằng “Đã yêunày bằng trái tim của tôi”. Điều này không có nghĩa rằng Trịnh Công Sơngiữavàovà tình yêu của ông với. Ông đã từng nói, “Với tôi,là mộtlàm cho ta yêu đời hơn chứ không phải làm cho ta lãng quên cuộc sống”. [27] Nhưngcũng dạy về sự quan trọng của việc không, khôngvào những vui thú của. Trong một sốthấy Trịnh Công Sơn đã trăn trở nhưng chưa thôi; trong những bài ông viết sau này – ví dụ như bài “Như một lời chia tay” [28] , ôngnăm 1991, và bài “Tôi ơi đừng tuyệt vọng”,năm 1992 – ông dường như đã sẵn sàng hơn đểcõi này.
quan niệm
Phật giáo
này đã
thâm nhập
vào
sáng tác
của Trịnh Công Sơn. Một
quan niệm
Phật giáo
nữa, mà Trịnh Công Sơn không coi quan trọng bằng hai
quan niệm
trên, là
thuyết luân hồi
, rằng muôn vật sẽ được
tái sinh
làm kiếp khác, tuỳ theo nghiệp của họ ở cõi này. Trong những
bài hát
của mình, Trịnh Công Sơn như muốn nhắc đến một câu rất
phổ thông
trong
Phật giáo
: “Hiện tại là
chiếc bóng
của
quá khứ
, tương lai là
chiếc bóng
của
hiện tại
.”
hiện tại
vừa linh cảm cùng trong một lúc
quá khứ
và tương lai. Anh như thấy
tiền kiếp
réo tên và cái chết vẫy gọi.”
Cuộc sống là khổ đau. Mọi cái chỉ là tạm thời. Nhữngnày đãvàocủa Trịnh Công Sơn. Mộtnữa, mà Trịnh Công Sơn không coi quan trọng bằng haitrên, là, rằng muôn vật sẽ đượclàm kiếp khác, tuỳ theo nghiệp của họ ở cõi này. Trong nhữngcủa mình, Trịnh Công Sơn như muốn nhắc đến một câu rấttrong: “Hiện tại làcủa, tương lai làcủa.” [29] Cao Huy Thuần nói rằng “Trịnh Công Sơn như vừa đứng ởvừa linh cảm cùng trong một lúcvà tương lai. Anh như thấyréo tên và cái chết vẫy gọi.” [30]
Trong bài “Cát bụi”, ông tự hỏi:
Trong những
bài hát
khác, những
ám chỉ
về sự
tái sinh
phần nào đó
gián tiếp
hơn:
“Cỏ xót xa đưa”
“Rừng xưa đã khép”
“Phôi Pha”
Quan niệm
của
Phật giáo
về
kiếp luân hồi
giúp
giải thích
tại sao Trịnh Công Sơn thường không bao giờ nói đến sự ra đi mà lại không nhắc đến sự quay
trở về
, và ông luôn xoá nhoà sự khác biệt giữa hai hành động này, như trong bài “Phôi pha” ở trên.
tái sinh
, thì khi một người ra đi, cũng là lúc người đó đang
trở về
. Nhìn sự sống và cái chết từ khía cạnh này cũng giống như khi ta nhìn nước trong một dòng sông, và tự hỏi liệu ta nên nói nó đang trôi đi hay đang đến, một điều mà Trịnh Công Sơn đã nắm bắt được trong bài “Gần như niềm tuyệt vọng”:
củavềgiúptại sao Trịnh Công Sơn thường không bao giờ nói đến sự ra đi mà lại không nhắc đến sự quay, và ông luôn xoá nhoà sự khác biệt giữa hai hành động này, như trong bài “Phôi pha” ở trên. [31] Nếu cái chết là kết tủa của, thì khi một người ra đi, cũng là lúc người đó đang. Nhìn sự sống và cái chết từ khía cạnh này cũng giống như khi ta nhìn nước trong một dòng sông, và tự hỏi liệu ta nên nói nó đang trôi đi hay đang đến, một điều mà Trịnh Công Sơn đã nắm bắt được trong bài “Gần như niềm tuyệt vọng”:
thường hay
xoá nhoà giữa đi và về, vì trong
Phật giáo
, cuộc
hành trình
từ cái sống đến cái chết
ví như
dòng nước; nó là một quá trình
luân chuyển
nhẹ nhàng, khác với
triết học
Tây phương
, nơi, như René Muller nói, “từ sống đến chết là một sự
gián đoạn
cay độc
.” Và ông nói thêm rằng, điều này cũng đúng với ngay cả “những
tín đồ
Thiên Chúa vốn có
niềm tin
vào
đời sau
và sự sống muôn đời.”
Phật giáo
dạy ta về cái chết với một
thái độ
khác. Các
Phật tử
tin rằng “không có một
cá thể
, một
linh hồn
hay một cái tôi
vĩnh cửu
nào ngoài quá trình
biến chuyển
không ngừng của
tinh thần
và
vật chất
, cái tạo nên sự
tồn tại
của
chúng ta
.”
một sinh
vật khi chết đi sẽ được
tồn tại
trong sinh vật đó sau khi
tái sinh
. Harvey
giải thích
như sau:
Khi nói về cái chết, Trịnh Công Sơnxoá nhoà giữa đi và về, vì trong, cuộctừ cái sống đến cái chếtdòng nước; nó là một quá trìnhnhẹ nhàng, khác với, nơi, như René Muller nói, “từ sống đến chết là một sự.” Và ông nói thêm rằng, điều này cũng đúng với ngay cả “nhữngThiên Chúa vốn cóvàovà sự sống muôn đời.” [32] dạy ta về cái chết với mộtkhác. Cáctin rằng “không có một, mộthay một cái tôinào ngoài quá trìnhkhông ngừng củavà, cái tạo nên sựcủa.” [33] Tuy vậy, theo lời dạy của Phật, một chút gì đó trongvật khi chết đi sẽ đượctrong sinh vật đó sau khi. Harveynhư sau:
. [36]
Nếu
con người
trong vòng
sinh-tử-tái sinh giữ được một số khía cạnh của
tiền kiếp
khi
tái sinh
, thì quá trình này có cả sự ra đi và sự
trở về
– “một cõi đi về”, như Trịnh Công Sơn đã đặt cho tựa đề một
bài hát
rất
nổi tiếng
của ông.
Trong bài “Ngẫu nhiên”, Trịnh Công Sơn cho rằng không thể
phân tách
giữa ra đi và
trở về
; ở đây,
chúng ta
có lẽ cũng thấy
quan niệm
của
Phật giáo
là
con người
không thể biết được vòng
tái sinh
bắt đầu từ đâu và bao giờ sẽ
kết thúc
:
Bởi vì không có sự khởi đầu hay
kết thúc
rõ ràng
của vòng
tái sinh
, nên cũng rất khó
phân biệt
giữa ra đi và
trở về
. Vua
Trần Nhân Tông
(1279-1293), một
Phật tử
, đã viết bài thơ trong di chúc:
Một
giá trị
Phật giáo
sau cùng trong những
sáng tác
của Trịnh Công Sơn là những ca từ khó hiểu và phi lôgic.
Hiển nhiên
,
bài hát
không phải là
lý luận
của
lý trí
, mà là tiếng
thổn thức
của tấm lòng. Bằng việc
không giải
thích những
ý nghĩa
đơn giản
, Trịnh Công Sơn để cho người nghe tự
diễn đạt
theo ý
của riêng
họ, và từ đó
đồng hành
với ông trong việc tạo ra
ý nghĩa
. Sự thiếu mạch lạc
có chủ ý
cũng phản ánh một
xu hướng
hiện đại
chủ nghĩa
bằng cách
xa lạ
hoá
ngôn từ
để làm nghệ thuật mới và tươi mát. Nhưng
sự cố
ý tối nghĩa của Trịnh Công Sơn, theo tôi, cũng là một cách truyền tải
quan niệm
Phật giáo
rằng
con người
không thể tìm tới sự tịnh an của
tâm hồn
bằng lý lẽ, và sự
giác ngộ
nằm ngoài
biên giới
của
ngôn ngữ
và logic, như
nhà sư
Ấn Độ
Bồ Đề Đạt Ma
đã truyền vào Trung Hoa ở thế kỷ thứ sáu:
. [38]
Mục đích
vượt khỏi
giới hạn
của
ngôn ngữ
có thể là lời
giải thích
tại sao Trịnh Công Sơn đã hoà trộn những phản đề như ra đi và
trở về
, gần và xa, lạnh nhạt và nồng nàn – như việc Trịnh Công Sơn luôn khẳng định rằng luôn có một thoáng của cái này trong cái kia và ngược lại. Giống như các
Thiền sư
, Trịnh Công Sơn có thể phủ nhận tuyết màu trắng và quạ màu đen chỉ để nói lên rằng, để được
giác ngộ
,
con người
phải “thoát khỏi những phản đề của ‘có’ và ‘không’” và
tìm cách
để hài hoà những đối nghịch.
lời Phật dạy
, để
giác ngộ
,
con người
phải biết
cưỡng lại
xu hướng
thỏa mãn
với những
nhị nguyên
đơn giản
.
Trí năng
của
con người
luôn muốn
chống lại
,
phân biệt
và phân loại, nhưng
chúng ta
phải
vượt qua
được
xu hướng
này để
đạt đến
“tánh không.” Để giúp
con người
đạt đến
trạng thái
này, các
thiền sư
dùng
phương pháp
“minh hoạ bằng phép phủ định,” một
phương pháp
được
tìm thấy
trong rất nhiều
bộ kinh
, luận và
công án
của
đạo Phật
.
Long Thọ
, một trong những
luận sư
vĩ đại nhất của
Phật giáo
Đại Thừa
Ma-ha-diễn-na (có nghĩa là “cỗ xe lớn”, là một trong hai trường phái lớn nhất của
đạo Phật
– ND), nói đến
trạng thái
này trong cuốn của ông, một kinh văn rất quan trọng của Ma-ha-diễn-na, bắt đầu như sau:
vượt khỏicủacó thể là lờitại sao Trịnh Công Sơn đã hoà trộn những phản đề như ra đi và, gần và xa, lạnh nhạt và nồng nàn – như việc Trịnh Công Sơn luôn khẳng định rằng luôn có một thoáng của cái này trong cái kia và ngược lại. Giống như các, Trịnh Công Sơn có thể phủ nhận tuyết màu trắng và quạ màu đen chỉ để nói lên rằng, để đượcphải “thoát khỏi những phản đề của ‘có’ và ‘không’” vàđể hài hoà những đối nghịch. [39] Theo, đểphải biếtvới nhữngcủaluôn muốnvà phân loại, nhưngphảiđượcnày để“tánh không.” Để giúpnày, cácdùng“minh hoạ bằng phép phủ định,” mộtđượctrong rất nhiều, luận vàcủa [40] Sư, một trong nhữngvĩ đại nhất củaMa-ha-diễn-na (có nghĩa là “cỗ xe lớn”, là một trong hai trường phái lớn nhất của- ND), nói đếnnày trong cuốncủa ông, một kinh văn rất quan trọng của Ma-ha-diễn-na, bắt đầu như sau:
giải thích
rằng
đa số
những
công án
Thiền đều dựa theo
phương pháp
“minh hoạ bằng phép phủ định.”
nổi tiếng
của
công án
về việc lắng nghe
âm thanh
khi vỗ bằng một bàn tay – một
âm thanh
không hẳn là
âm thanh
nhưng cũng không (
hoàn toàn
) không là
âm thanh
. Những
bài hát
của Trịnh Công Sơn phần nào có hơi hướng như một
công án
vì chúng cho thấy sự
ảnh hưởng
của “minh hoạ bằng phép phủ định” này hay
phương pháp
“không-không.” Trong rất nhiều
bài hát
,
chúng ta
thấy
phương pháp
này được
sử dụng
trong một hay hai câu hát;
tuy nhiên
, trong bài “Đời cho ta thế” và “Bay đi thầm lặng”, hơn một nửa những câu hát phá vỡ những cấu trúc
đối lập
dễ dãi
. Cả ba đoạn trong bài “Đời cho ta thế” đều bắt đầu và
kết thúc
với những câu hát “minh hoạ qua phép phủ định”. Đây là những câu hát trong đoạn thứ hai:
Chang Chen-chirằngnhữngThiền đều dựa theo“minh hoạ bằng phép phủ định.” [41] Điển hình là một ví dụcủavề việc lắng nghekhi vỗ bằng một bàn tay – mộtkhông hẳn lànhưng cũng không () không là. Nhữngcủa Trịnh Công Sơn phần nào có hơi hướng như mộtvì chúng cho thấy sựcủa “minh hoạ bằng phép phủ định” này hay“không-không.” Trong rất nhiềuthấynày đượctrong một hay hai câu hát;, trong bài “Đời cho ta thế” và “Bay đi thầm lặng”, hơn một nửa những câu hát phá vỡ những cấu trúc. Cả ba đoạn trong bài “Đời cho ta thế” đều bắt đầu vàvới những câu hát “minh hoạ qua phép phủ định”. Đây là những câu hát trong đoạn thứ hai:
Bản tiếng Việt © 2007 talawas
phụ lục
1 để biết thêm về danh sách và ngày xuất bản của tất cả các
bài hát
được trích dẫn trong bài viết này. Để tìm những lời
bài hát
và thông tin khác về những
bài hát
của Trịnh Công Sơn (ngày xuất bản, tên tập nhạc và những
chi tiết
khác), xem trang web: trang web của Trịnh Công Sơn-forum.org, http://TCS-home.org/songs; Kho sưu tập tư liệu về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, dưới mục “Kho sưu tập” tại http://www.hoiquanhoingo.com.vn và trang web của VNEnterprise.com, http://www.vnenterprise.com. Để biết thêm về các bản nhạc cũng như lời
bài hát
, xem (TPHCM:
Âm nhạc
, 1998).[1] Xem phần1 để biết thêm về danh sách và ngày xuất bản của tất cả cácđược trích dẫn trong bài viết này. Để tìm những lờivà thông tin khác về nhữngcủa Trịnh Công Sơn (ngày xuất bản, tên tập nhạc và nhữngkhác), xem trang web: trang web của Trịnh Công Sơn-forum.org, http://TCS-home.org/songs; Kho sưu tập tư liệu về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, dưới mục “Kho sưu tập” tại http://www.hoiquanhoingo.com.vn và trang web của VNEnterprise.com, http://www.vnenterprise.com. Để biết thêm về các bản nhạc cũng như lời, xem(TPHCM:, 1998).
[2]
Tuy nhiên
, nhà cầm quyền đã gặp khó khăn trong việc
thẩm định
xem những
bài hát
nào trong những
sáng tác
trước năm 1975 của Trịnh Công Sơn là phản chiến. Năm 2003, khi
phỏng vấn
Lê Nam, giám đốc phòng băng đĩa của phòng Nghệ thuật
Trình diễn
Thành phố Hồ
Chí Minh
, thuộc Bộ Văn hoá Thông tin, ông ta cho rằng
vấn đề
nằm ở những
bài hát
trong tập nhạc (1966/1967) vì những
sáng tác
này “nội dung phản chiến được nêu lên rất chung chung, không
phân biệt
chiến tranh
phi nghĩa
và
chính nghĩa
.” Xem bài “Cái gì đã thuộc về nguyên tắc thì không có ngoại lệ” của Thu Hà, báo , ngày 18 tháng 4, 2003, http://www.tuoitre.com.vn. Quả vậy,
bài hát
nào của Trịnh Công Sơn được và không được phép
trình diễn
tại
Việt Nam
vẫn là một điều
mập mờ
. Nhà cầm quyền thường
lẫn lộn
giữa những
ca khúc
của ông,
bài hát
được
sáng tác
trước năm 1975, và trong số đó, bài nào nằm trong tập Một điều không
rõ ràng
nữa là tất cả hay chỉ một số những
bài hát
trong tập nhạc này bị cấm. Theo
Cao Minh
Hiền và Dạ Ly, “Đối với dòng
Ca khúc
da vàng của Trịnh Công Sơn
cho đến
bây giờ vẫn rất ‘mập mờ’ trong viêc
cho hay
không cho các
ca sĩ
hát.” Xem “Chuyện ca khúc… duyệt và không duyệt!”, , 7 tháng 5, 2004, http://www2.thanhnien.com.vn
, nhà cầm quyền đã gặp khó khăn trong việcxem nhữngnào trong nhữngtrước năm 1975 của Trịnh Công Sơn là phản chiến. Năm 2003, khiLê Nam, giám đốc phòng băng đĩa của phòng Nghệ thuậtThành phố Hồ, thuộc Bộ Văn hoá Thông tin, ông ta cho rằngnằm ở nhữngtrong tập nhạc(1966/1967) vì nhữngnày “nội dung phản chiến được nêu lên rất chung chung, khôngchiến tranhvà.” Xem bài “Cái gì đã thuộc về nguyên tắc thì không có ngoại lệ” của Thu Hà, báo, ngày 18 tháng 4, 2003, http://www.tuoitre.com.vn. Quả vậy,nào của Trịnh Công Sơn được và không được phéptạivẫn là một điều. Nhà cầm quyền thườnggiữa nhữngcủa ông,đượctrước năm 1975, và trong số đó, bài nào nằm trong tậpMột điều khôngnữa là tất cả hay chỉ một số nhữngtrong tập nhạc này bị cấm. TheoHiền và Dạ Ly, “Đối với dòngda vàng của Trịnh Công Sơnbây giờ vẫn rất ‘mập mờ’ trong viêckhông cho cáchát.” Xem “Chuyện ca khúc… duyệt và không duyệt!”,, 7 tháng 5, 2004, http://www2.thanhnien.com.vn
, số sắp ra.[3] Xem “The Trịnh Công Sơn Phenomenon”, John Schafer., số sắp ra.
, tháng 1 1997; in lại trong cuốn (Hà Nội:
Âm Nhạc
, 2001), trang 201-202, do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, và Đoàn Tử Huyến
biên tập
.[4] Trịnh Công Sơn, “Để bắt đầu một hồi ức”,, tháng 1 1997; in lại trong cuốn(Hà Nội:, 2001), trang 201-202, do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, và Đoàn Tử Huyến
[5] (HCMC: Trẻ, 2004), 84.
(HCMC: Trẻ, 2004), 84.
năm 1938. Xem (Hà Nội:
Văn Học
, 1986), trang 72.[6] Câu thơ này từ bài thơ “Yêu” của Xuân Diệu, lần đầu tiên xuất bản trong tậpnăm 1938. Xem(Hà Nội:, 1986), trang 72.
bài hát
khác mà Trịnh Công Sơn nói đến cái chết của chính ông
gồm có
bài “Ngẫu nhiên” và “Phúc âm buồn”.[7] Ngoài bài “Bên đời hiu quạnh”, nhữngkhác mà Trịnh Công Sơn nói đến cái chết của chính ôngbài “Ngẫu nhiên” và “Phúc âm buồn”.
[8] Ví dụ, xem: “Cỏ xót xa đưa”, “Như một lời chia tay”, “Ở trọ”, “Phôi pha”, và “Về nơi cuối trời”.
của Bùi
Vĩnh Phúc
(Gardena, CA: Văn Mới, 2005), trang 131. Những người khác cũng
đồng ý
. Cao Huy Thuần cho rằng “Với Trịnh Công Sơn, cõi khác và cõi này không tách rời nhau rõ rệt.” Cao Huy Thuần nói điều này trong phần
giới thiệu
những
bài hát
của Trịnh Công Sơn tại “Đêm
hoài niệm
Trịnh Công Sơn”, Paris, 26 tháng 5, 2001.[9] Xemcủa Bùi(Gardena, CA: Văn Mới, 2005), trang 131. Những người khác cũng. Cao Huy Thuần cho rằng “Với Trịnh Công Sơn, cõi khác và cõi này không tách rời nhau rõ rệt.” Cao Huy Thuần nói điều này trong phầnnhữngcủa Trịnh Công Sơn tại “ĐêmTrịnh Công Sơn”, Paris, 26 tháng 5, 2001.
, Trần Thuỳ Mai, Dương Phước Thu, và Ngô Minh (Huế:
Thuận Hoá
, 2001), trang 102.[10] Cao Huy Thuần, “Buồn bã với những môi hôn”, trong, Trần Thuỳ Mai, Dương Phước Thu, và Ngô Minh (Huế:, 2001), trang 102.
[11] Ibid.
tự như
trên.[12] Từ bài “Như một lời chia tay”, “Đời cho ta thế”, và “Có nghe đời nghiêng”, theo thứtrên.
tự như
trên.[13] Từ bài “Bay đi thầm lặng” và “Tình nhớ”, theo thứtrên.
đại từ
giống đực vì tôi tin những
bài hát
của Trịnh Công Sơn là những
thông điệp
cá nhân
của ông.
Tuy nhiên
, những buồn bã của
thân phận
ông và
thân phận
của
kiếp người
rất gần gũi
với nhau
: chúng luôn bổ túc cho nhau.[14] Tôi dùnggiống đực vì tôi tin nhữngcủa Trịnh Công Sơn là nhữngcủa ông., những buồn bã củaông vàcủarất gần gũi: chúng luôn bổ túc cho nhau.
[15] Ví dụ, xem “Dã tràng ca”, “Phúc âm buồn”, “Tình xót xa vừa” và “Vết lăn trầm”.
bài hát
này nằm ở phần
phụ lục
B.[16] Lời củanày nằm ở phầnB.
của Bửu Ý (TPHCM: Trẻ, 2003), 16-17.[17] Xemcủa Bửu Ý (TPHCM: Trẻ, 2003), 16-17.
phỏng vấn
này, với Văn Cầm Hải, xảy ra năm 1998. Nó được in lại dưới tựa “Kiếp sau tôi vẫn là người nghệ sĩ” trong cuốn của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến, trang 207-208.[18] Cuộcnày, với Văn Cầm Hải, xảy ra năm 1998. Nó được in lại dưới tựa “Kiếp sau tôi vẫn là người nghệ sĩ” trong cuốncủa Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến, trang 207-208.
của Bửu Ý, của Hoàng Phủ Ngọc Tường, của Nguyễn Đắc Xuân (TPHCM:
Văn Học
, 2003); của Nguyễn Thanh Ty. Tôi cũng nói đến những năm tháng chiến tranh và những
bài hát
phản chiến của Sơn trong bài “The Trịnh Công Sơn Phenomenon,” (sắp ra).[19] Xemcủa Bửu Ý,của Hoàng Phủ Ngọc Tường,của Nguyễn Đắc Xuân (TPHCM:, 2003);của Nguyễn Thanh Ty. Tôi cũng nói đến những năm tháng chiến tranh và nhữngphản chiến của Sơn trong bài “The Trịnh Công Sơn Phenomenon,”(sắp ra).
xuất hiện
trong nhiều tập sưu tầm. Ví dụ, xem của Trần Thuỳ Mai, Dương Phước Thu, và Ngô Minh; của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến.[20] Những bài viết nàytrong nhiều tập sưu tầm. Ví dụ, xemcủa Trần Thuỳ Mai, Dương Phước Thu, và Ngô Minh;của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến.
phỏng vấn
[không rõ ngày tháng] này được in lại với tựa đề “Chữ tài chữ mệnh cũng là bể dâu” trong cuốn của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến, trang 221.[21] Buổi[không rõ ngày tháng] này được in lại với tựa đề “Chữ tài chữ mệnh cũng là bể dâu” trong cuốncủa Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến, trang 221.
do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến
biên tập
.[22] Bài “Kiếp sau tôi vẫn là người nghệ sĩ” của Văn Cầm Hải trong cuốndo Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến
tháng 4, 2001. Được in lại với tựa đề “Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Phải biết sống trong mỗi
sát na
của hiện tại”, trong cuốn do Lê Minh Quốc
biên tập
(Hà Nội:
Phụ Nữ
, 2004), trang 202-204.[23] Trịnh Công Sơn,tháng 4, 2001. Được in lại với tựa đề “Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Phải biết sống trong mỗicủa hiện tại”, trong cuốndo Lê Minh Quốc(Hà Nội:, 2004), trang 202-204.
cổ ngữ
Ấn Độ
là duhkha, Thích
Thiên Ân
dịch là “khổ đau,
đau đớn
,
buồn rầu
,
bất mãn
; những
trạng thái
của
Luân hồi
.” (
Luân hồi
là “bể của sinh và tử; là bánh xe của sự
tồn tại
;
thế giới
luân chuyển
hiện hữu
.”) Xem Zen Philosophy của Thích
Thiên Ân
(Emeryville, CA: Dharma Publishing, 1975), 175, 177.[24] Từ này tronglà duhkha, Thíchdịch là “khổ đau,; nhữngcủa.” (là “bể của sinh và tử; là bánh xe của sự.”) Xem Zen Philosophy của Thích(Emeryville, CA: Dharma Publishing, 1975), 175, 177.
Thiên Ân
dịch, Zen Philosophy, 137.[25] Thíchdịch, Zen Philosophy, 137.
(Cambridge: Cambridge University Press, 1990), 48.[26] Peter Harvey,(Cambridge: Cambridge University Press, 1990), 48.
(xem chú thích số 24), Lê Minh Quốc
biên tập
, trang 203.[27] Trịnh Công Sơn, “Phải biết sống hết mình,” trong cuốn(xem chú thích số 24), Lê Minh Quốc, trang 203.
bài hát
này nằm ở phần
phụ lục
C.[28] Lờinày nằm ở phầnC.
Thiên Ân
, , 54.[29] Xem Thích, 54.
[30] Cao Huy Thuần, (Xem chú thích 9).
trở về
trong nhiều
bài hát
, trong đó có bài “Biển nhớ”, “Có nghe đời nghiêng”, “Cỏ xót xa đưa”, “Lặng lẽ nơi này”, “Lời
thiên thu
gọi”, “Rừng xưa đã khép”, và “Một cõi đi về”.[31] Trịnh Công Sơn nói về sự ra đi vàtrong nhiều, trong đó có bài “Biển nhớ”, “Có nghe đời nghiêng”, “Cỏ xót xa đưa”, “Lặng lẽ nơi này”, “Lờigọi”, “Rừng xưa đã khép”, và “Một cõi đi về”.
e (Westport, CT: Praeger, 1998), 121.[32] Xem René Muller,e (Westport, CT: Praeger, 1998), 121.
Thiên Ân
, , 84.[33] Xem Thích, 84.
, một đoạn đối thoại giữa
Di Lan Đà
, một vị vua Hy Lạp cai trị đế quốc Ấn – Hy Lạp vào những năm cuối thế kỷ thứ hai
trước Công nguyên
, và một vị sư tên
Na Tiên
. là một quyển quan trọng của tín
lý Phật
giáo,
đặc biệt
là nhánh Theravada (
Tiểu thừa
). Để biết thêm về
giáo lý
Phật
liên quan đến
vấn đề
tái sinh
, xem thêm Thích
Thiên Ân
, “The Matter of Soul in Buddhism,” trong cuốn 165-170.
Giải thích
về
tái sinh
, Thích
Thiên Ân
cũng nói đến và
hình ảnh
ngọn đèn
. [34] Harvey trích dẫn từ, một đoạn đối thoại giữa, một vị vua Hy Lạp cai trị đế quốc Ấn – Hy Lạp vào những năm cuối thế kỷ thứ hai, và một vị sư tênlà một quyển quan trọng của tíngiáo,là nhánh Theravada (). Để biết thêm vềPhật, xem thêm Thích, “The Matter of Soul in Buddhism,” trong cuốn165-170.về, Thíchcũng nói đếnvà
, 58.[35] Harvey,, 58.
, phần 71, như là nguồn gốc của
hình ảnh
này (58).[36] Harvey trích dẫn, phần 71, như là nguồn gốc củanày (58).
Thiên Ân
dịch, Zen Philosophy, 108.[37] Thíchdịch, Zen Philosophy, 108.
Thiên Ân
, , 17.[38] Xem Thích, 17.
(New York: Grove Press, 1964), 52, 69.[39] Daisetz Teitaro Suzuki,(New York: Grove Press, 1964), 52, 69.
(New York: Harper and Brothers, 1959), 128. Thích
Thiên Ân
cũng nói đến
phương pháp
này, mà ông gọi là “phương pháp không-không” trong (Rutland, VT:Charles Tuttle, 1975), 34, 219n6; 257–258n6.[40] Xem Chang Chen-chi,(New York: Harper and Brothers, 1959), 128. Thíchcũng nói đếnnày, mà ông gọi là “phương pháp không-không” trong(Rutland, VT:Charles Tuttle, 1975), 34, 219n6; 257–258n6.
, 128.[41] Xem Chang Chen-chi,, 128.
Chủ nghĩa
hiện sinh
Chủ nghĩa
hiện sinh
, một triết lý đã
mê hoặc
Trịnh Công Sơn và những
trí thức
trẻ ở các thành thị miền Nam
Việt Nam
những năm cuối thập niên 1950 đầu 1960, có thể đã
ảnh hưởng
đến những
sáng tác
của Trịnh Công Sơn. Thái Kim Lan,
bạn thân
của Trịnh Công Sơn và một người Huế, đã nói những cụm từ như “lo âu” (angoisse, angst), “hư vô”, “nôn mửa” và “nỗi hoài công
phi lý
của Sisyphus” đã “như những tiếng gõ huyền
bí ẩn
vào cánh cửa
tâm hồn
của lớp thanh niên trẻ
chúng tôi
thời ấy như những mời gọi phiêu lưu vào những vùng đất lạ của
tri thức
.”
thân mật
về
chủ nghĩa
hiện sinh
, bà nói rằng Trịnh Công Sơn nói rất ít về những điều này, nhưng rồi sau đó, ông
sáng tác
và “hát triết học”, nhờ vậy giúp
mọi người
hiểu những
quan niệm
triết học
khó này.
Sâm Thương
, một người
bạn thân
khác, cũng
thừa nhận
là Trịnh Công Sơn bị
chủ nghĩa
hiện sinh
lôi cuốn
; ông nói thêm rằng Trịnh Công Sơn tự đọc về những
triết gia
hiện sinh
chứ không phải học ở trường. Trong khi đang
học lấy
bằng tú tài thứ hai ở trường trung học Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn, Trịnh Công Sơn theo Ban C, là ban triết, chứ ông không theo học Ban A (khoa học
tự nhiên
) hay Ban B (toán và
vật lý
). Theo ông
Sâm Thương
, những giáo sư Ban C, “không dạy về một
triết gia
hay một
lý thuyết
cụ thể
nào, mà họ dạy những
ý tưởng
chung từ những
quan niệm
của
tâm lý
học, logic và
đạo đức
. Ví dụ, iáo sư có thể dạy về
ý thức
và
vô thức
, những xúc cảm, niềm
hạnh phúc
, sự
đau khổ
v.v… từ
quan điểm
của một số
triết gia
. Vậy thôi. Còn những
triết gia
như Nietzsche, Albert Camus, Jean Paul Sartre, Heidegger, và Merleau Ponti là những người mà Trịnh Công Sơn đã tự mình
khám phá
; những
triết gia
này không nằm trong
chương trình
học.”
, một triết lý đãTrịnh Công Sơn và nhữngtrẻ ở các thành thị miền Namnhững năm cuối thập niên 1950 đầu 1960, có thể đãđến nhữngcủa Trịnh Công Sơn. Thái Kim Lan,của Trịnh Công Sơn và một người Huế, đã nói những cụm từ như “lo âu” (angoisse, angst), “hư vô”, “nôn mửa” và “nỗi hoài côngcủa Sisyphus” đã “như những tiếng gõ huyềnvào cánh cửacủa lớp thanh niên trẻthời ấy như những mời gọi phiêu lưu vào những vùng đất lạ của.” [1] Trong các buổi nói chuyệnvề, bà nói rằng Trịnh Công Sơn nói rất ít về những điều này, nhưng rồi sau đó, ôngvà “hát triết học”, nhờ vậy giúphiểu nhữngkhó này. [2] , một ngườikhác, cũnglà Trịnh Công Sơn bị; ông nói thêm rằng Trịnh Công Sơn tự đọc về nhữngchứ không phải học ở trường. Trong khi đangbằng tú tài thứ hai ở trường trung học Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn, Trịnh Công Sơn theo Ban C, là ban triết, chứ ông không theo học Ban A (khoa học) hay Ban B (toán và). Theo ông, những giáo sư Ban C, “không dạy về mộthay mộtnào, mà họ dạy nhữngchung từ nhữngcủahọc, logic và. Ví dụ, iáo sư có thể dạy vềvà, những xúc cảm, niềm, sựv.v… từcủa một số. Vậy thôi. Còn nhữngnhư Nietzsche, Albert Camus, Jean Paul Sartre, Heidegger, và Merleau Ponti là những người mà Trịnh Công Sơn đã tự mình; nhữngnày không nằm tronghọc.” [3]
chắc chắn
ông cũng có được những
thuận lợi
từ các cuộc
đàm luận
với những nhóm bạn
trí thức
,
tài năng
và từ môi trường
trí thức
ở Huế. Vốn là một
trung tâm
văn hoá và học vấn
nổi tiếng
, khi
Đại học
Huế được mở năm 1957, Huế
trở thành
một thành phố
đại học
. Trong năm 1958, ấn
bản đầu
tiên của được cho ra mắt; tổng
biên tập
là ông Nguyễn Văn Trung, một người Bắc vừa du học từ Bỉ
trở về
. Theo ông Bửu Ý, một người bạn của Trịnh Công Sơn, thì Nguyễn Văn Trung là một người
uyên bác
,
đam mê
triết, và là một
tác giả
tài ba; ông
trở thành
một nhân vật “nòng cốt” và là người dẫn dắt những buổi
đàm luận
triết học
ở Huế. , dưới quyền của ông Trung, đã có nhiều bài về
triết học
hiện sinh
, trong đó, có nhiều bài do chính ông Trung viết. Bài viết về
giải thoát
con người
trong
Phật giáo
và J.P. Sartre của ông
xuất hiện
trong số thứ hai.
tình cảnh
phi lý
của kẻ lưu đày”, chủ yếu nói về của Camus (trong
thần thoại
Hy Lạp, Sisyphus là một vị vua bị đày ở chốn
địa ngục
bằng cách phải
đời đời
lăn một tảng đá lớn lên một dốc cao, nhưng trước khi lên tới đỉnh thì hòn đá lăn xuống và Sisyphus lại phải bắt đầu lăn lên lại và cứ thế
tiếp tục
mãi – ND), là một bài viết của ông Trung
xuất hiện
2 năm sau đó, trong số tưởng niệm Camus, một người đã từng đoạt giải Nobel, mất ngày 1 tháng 4 năm 1960,trong một
tai nạn
xe hơi.
học giả
khác về Merleau Ponty, Gabriel Marcel, Karl Jaspers, và Martin Heidegger.
Ngoài việc Trịnh Công Sơn tự mình đọc,ông cũng có được nhữngtừ các cuộcvới những nhóm bạnvà từ môi trườngở Huế. Vốn là mộtvăn hoá và học vấn, khiHuế được mở năm 1957, Huếmột thành phố. Trong năm 1958, ấntiên củađược cho ra mắt; tổnglà ông Nguyễn Văn Trung, một người Bắc vừa du học từ Bỉ. Theo ông Bửu Ý, một người bạn của Trịnh Công Sơn, thì Nguyễn Văn Trung là một ngườitriết, và là mộttài ba; ôngmột nhân vật “nòng cốt” và là người dẫn dắt những buổiở Huế. [4] Tờ, dưới quyền của ông Trung, đã có nhiều bài về, trong đó, có nhiều bài do chính ông Trung viết. Bài viết vềtrongvà J.P. Sartre của ôngtrong số thứ hai. [5] Bài “Vài cảm nghĩ vềcủa kẻ lưu đày”, chủ yếu nói vềcủa Camus (trongHy Lạp, Sisyphus là một vị vua bị đày ở chốnbằng cách phảilăn một tảng đá lớn lên một dốc cao, nhưng trước khi lên tới đỉnh thì hòn đá lăn xuống và Sisyphus lại phải bắt đầu lăn lên lại và cứ thếmãi – ND), là một bài viết của ông Trung2 năm sau đó, trong số tưởng niệm Camus, một người đã từng đoạt giải Nobel, mất ngày 1 tháng 4 năm 1960,trong mộtxe hơi. [6] Ấn bản tháng 11 năm 1960 có những bài viết của cáckhác về Merleau Ponty, Gabriel Marcel, Karl Jaspers, và Martin Heidegger. [7]
bạn thân
của Trịnh Công Sơn đã theo học ở
Đại học
Huế vào đầu thập niên 1960. Trong số này có Bửu Ý (người sau này làm trưởng khoa
Pháp ngữ
của
Đại học
Sư phạm), nhà thơ Ngô Kha, Thái Kim Lan và Hoàng Phủ Ngọc Tường, người sau này là giáo viên Triết tại trường nữ trung học Đồng Khánh. Hoàng Phủ Ngọc Tường, trước khi
trở về
Huế và dạy tại trường Đồng Khánh, đã
hoàn thành
luận văn tại
Đại học
Sài Gòn, dưới sự dẫn dắt của Nguyễn Văn Trung.
Nhiều người trong số những ngườicủa Trịnh Công Sơn đã theo học ởHuế vào đầu thập niên 1960. Trong số này có Bửu Ý (người sau này làm trưởng khoacủaSư phạm), nhà thơ Ngô Kha, Thái Kim Lan và Hoàng Phủ Ngọc Tường, người sau này là giáo viên Triết tại trường nữ trung học Đồng Khánh. Hoàng Phủ Ngọc Tường, trước khiHuế và dạy tại trường Đồng Khánh, đãluận văn tạiSài Gòn, dưới sự dẫn dắt của Nguyễn Văn Trung. [8]
đàm luận
với bạn bè, Trịnh Công Sơn
rõ ràng
đã bị
triết học
hiện sinh
thu hút. Nhưng điều gì đã
lôi cuốn
ông đến như vậy? Và nếu có, sự
mê hoặc
chủ nghĩa
hiện sinh
đã
ảnh hưởng
như thế nào đến những
sáng tác
của ông?
Chủ nghĩa
hiện sinh
Âu châu, hệ quả của sự vỡ mộng sau hai cuộc thế chiến,
hiển nhiên
hấp dẫn
giới
trí thức
miền Nam
Việt Nam
trong những năm 1950 và 1960 bởi vì họ, như những người Âu châu đã
trải qua
cuộc chiến, cảm nhận được rằng họ đang sống trong
một thế
giới
phi lý
, nơi mà sự bất công giành phần thắng và những người vô tội
bị giết
oan. Có phải điều này đã thu hút Trịnh Công Sơn? Albert Camus, một
triết gia
hiện sinh
, người đã đoạt giải Nobel năm 1957, cho rằng
hoàn cảnh
của
nhân loại
trong
xã hội
hiện đại
là
phi lý
. Theo những người bạn của ông, Trịnh Công Sơn rất thích những
tác phẩm
của Camus,
đặc biệt
là cuốn Lúc ở Qui Nhơn, ông viết bài “Dã tràng ca”, và
bài hát
đã được đồng ca tại
buổi lễ
khánh thành ngôi trường mới; đây là ngôi trường được
xây dựng
bởi viện trợ của Hoa Kỳ.
Bài hát
này
rõ ràng
lấy
cảm hứng
từ của Camus, là cuốn sách mà, theo Nguyễn Đắc Xuân, Trịnh Công Sơn đã đọc trong
thời gian
ở Qui Nhơn.
Qua việc tự đọc và qua những cuộcvới bạn bè, Trịnh Công Sơnđã bịthu hút. Nhưng điều gì đãông đến như vậy? Và nếu có, sựđãnhư thế nào đến nhữngcủa ông?Âu châu, hệ quả của sự vỡ mộng sau hai cuộc thế chiến,giớimiền Namtrong những năm 1950 và 1960 bởi vì họ, như những người Âu châu đãcuộc chiến, cảm nhận được rằng họ đang sống tronggiới, nơi mà sự bất công giành phần thắng và những người vô tộioan. Có phải điều này đã thu hút Trịnh Công Sơn? Albert Camus, một, người đã đoạt giải Nobel năm 1957, cho rằngcủatronglà. Theo những người bạn của ông, Trịnh Công Sơn rất thích nhữngcủa Camus,là cuốnLúc ở Qui Nhơn, ông viết bài “Dã tràng ca”, vàđã được đồng ca tạikhánh thành ngôi trường mới; đây là ngôi trường đượcbởi viện trợ của Hoa Kỳ.nàylấytừcủa Camus, là cuốn sách mà, theo Nguyễn Đắc Xuân, Trịnh Công Sơn đã đọc trongở Qui Nhơn. [10]
Camus cho rằng trong
một thế
giới
phi lý
,
chúng ta
bị
quyến rũ
bởi một
hy vọng
hão huyền
(như
niềm tin
của
đạo Thiên chúa
về một sự sống
đời đời
ở chốn
thiên đàng
) và sự tự vẫn. Camus
chống lại
cả hai
xu hướng
đó; ông thích sự bất chấp hơn. Giống như Sisyphus trong
thần thoại
Hy Lạp, Camus viết,
con người
phi lý
“chỉ có thể làm
kiệt quệ
chính mình
cho đến
phút chót. Sự
phi lý
là
trạng thái căng thẳng
cực độ
, điều anh ta
thường xuyên
duy trì
bằng
cố gắng
đơn độc
, vì anh ta biết rằng trong
ý thức
và trong những kháng cự
hằng ngày
, anh ta đã
chứng minh
được
chân lý
duy nhất
của mình, đó là sự bất chấp.”
so sánh
cuộc đời
buồn bã của ông với con dã tràng, suốt ngày mải mê xe cát biển Đông; con dã tràng chính là một Sisyphus của
Việt Nam
,
hình ảnh
tượng trưng
cho công khó nhọc không ngừng nghỉ và
vô ích
. Trong phần đầu của
bài hát
, con dã tràng than:
TrongCamus cho rằng tronggiớibịbởi một(nhưcủavề một sự sốngở chốn) và sự tự vẫn. Camuscả haiđó; ông thích sự bất chấp hơn. Giống như Sisyphus trongHy Lạp, Camus viết,“chỉ có thể làmchính mìnhphút chót. Sựlà, điều anh tabằng, vì anh ta biết rằng trongvà trong những kháng cự, anh ta đãđượccủa mình, đó là sự bất chấp.” [11] Trong bài “Dã tràng ca”, Trịnh Công Sơnbuồn bã của ông với con dã tràng, suốt ngày mải mê xe cát biển Đông; con dã tràng chính là một Sisyphus củacho công khó nhọc không ngừng nghỉ và. Trong phần đầu của, con dã tràng than:
Sang đoạn hai,
tiếp theo
con dã tràng, một thanh niên
cất tiếng
ca. Hắn nói bước sang tuổi đôi mươi là
bước một
bước từ
thiên đường
của
tuổi thơ
ấu đến một cuộc sống
đơn độc
chẳng khác gì
thân phận
con dã tràng. Đoạn này có những câu:
bài hát
chứ không chỉ là một
tác phẩm
lý luận
như . Nó giống của Camus về sự mất mát của những nguồn ảo vọng
an ủi
, nhưng “Dã tràng ca” của Trịnh Công Sơn thiên nhiều về tính
cá nhân
hơn là tính siêu hình. Trịnh Công Sơn như muốn
đáp lại
những diễn biến trong
cuộc đời
của riêng
ông hơn là của
con người
nói chung. Theo Nguyễn Đắc Xuân, người đã
phỏng vấn
một số các thành viên trong nhóm hợp xướng bài “Dã tràng ca” năm 1962, thì
bài hát
này là
phản ứng
của Trịnh Công Sơn
trước cảnh
gia đình
ông
suy sụp
về kinh tế sau cái chết của cha ông, việc ông
lo lắng
bị bắt
lính, việc ông bị một số thanh niên ở Qui Nhơn đối xử
thô bạo
, và một vài trải nghiệm của ông về tình yêu
vô vọng
. [12]
Tuy nhiên
,
Sâm Thương
, một người bạn gần gũi với Trịnh Công Sơn, lại nói rằng Trịnh Công Sơn và
gia đình
ông không gặp khó khăn gì về kinh tế trong
thời gian
này, và mặc dù Trịnh Công Sơn có
lo lắng
về việc
bị bắt
quân dịch và không hứng thú cho lắm với việc dạy học, nhưng ông đã có những kỷ niệm đẹp trong
thời gian
sống ở Qui Nhơn.
“Dã tràng ca” là mộtchứ không chỉ là mộtnhư. Nó giốngcủa Camus về sự mất mát của những nguồn ảo vọng, nhưng “Dã tràng ca” của Trịnh Công Sơn thiên nhiều về tínhhơn là tính siêu hình. Trịnh Công Sơn như muốnnhững diễn biến trongông hơn là củanói chung. Theo Nguyễn Đắc Xuân, người đãmột số các thành viên trong nhóm hợp xướng bài “Dã tràng ca” năm 1962, thìnày làcủa Trịnh Công Sơnôngvề kinh tế sau cái chết của cha ông, việc ônglính, việc ông bị một số thanh niên ở Qui Nhơn đối xử, và một vài trải nghiệm của ông về tình yêu, một người bạn gần gũi với Trịnh Công Sơn, lại nói rằng Trịnh Công Sơn vàông không gặp khó khăn gì về kinh tế trongnày, và mặc dù Trịnh Công Sơn cóvề việcquân dịch và không hứng thú cho lắm với việc dạy học, nhưng ông đã có những kỷ niệm đẹp trongsống ở Qui Nhơn. [13]
ảnh hưởng
sâu sắc nhất đến
tâm hồn
của Trịnh Công Sơn trong năm 1962. Ở Huế, vào những năm cuối 1950 và đầu 1960, những thanh niên không có tương lai
rõ ràng
,
đặc biệt
là những nghệ sĩ tóc dài, thường phải lòng các
thiếu nữ
đẹp trong những
gia đình
danh giá
. Nhưng vì những
ngăn cản
của
xã hội
, họ thường giữ tình yêu đơn phương và thầm kín. Các
gia đình
đều muốn gả con gái mình cho những người đàn ông có bằng cấp và có tương lai nhiều hứa hẹn.
Thời gian
này, Trịnh Công Sơn đem lòng yêu một người con gái tên Phương Thảo, em của một người bạn của ông, để rồi phải
chứng kiến
cô này lấy một người đã
đứng tuổi
, chủ nhiệm khoa ở
Đại học
Huế. Theo những gì Trịnh Công Sơn và những người bạn của ông
cho biết
, [14]
chúng ta
có thể
kết luận
rằng, trải nghiệm này đã phá vỡ những
ảo tưởng
của ông về tình yêu. Chính Trịnh Công Sơn nói rằng, đó là “một
thất vọng
lớn không lường được.”
phản ứng
của Trịnh Công Sơn đối với mối tình Phương Thảo, và cả những tình yêu bị từ chối khác mà Trịnh Công Sơn đã trải nghiệm khi còn ở Huế, trước khi vào sống ở Qui Nhơn.
Có lẽ những cuộc tình không may đã cósâu sắc nhất đếncủa Trịnh Công Sơn trong năm 1962. Ở Huế, vào những năm cuối 1950 và đầu 1960, những thanh niên không có tương lailà những nghệ sĩ tóc dài, thường phải lòng cácđẹp trong những. Nhưng vì nhữngcủa, họ thường giữ tình yêu đơn phương và thầm kín. Cácđều muốn gả con gái mình cho những người đàn ông có bằng cấp và có tương lai nhiều hứa hẹn.này, Trịnh Công Sơn đem lòng yêu một người con gái tên Phương Thảo, em của một người bạn của ông, để rồi phảicô này lấy một người đã, chủ nhiệm khoa ởHuế. Theo những gì Trịnh Công Sơn và những người bạn của ôngcó thểrằng, trải nghiệm này đã phá vỡ nhữngcủa ông về tình yêu. Chính Trịnh Công Sơn nói rằng, đó là “mộtlớn không lường được.” [15] “Dã tràng ca” cũng rất có thể là mộtcủa Trịnh Công Sơn đối với mối tình Phương Thảo, và cả những tình yêu bị từ chối khác mà Trịnh Công Sơn đã trải nghiệm khi còn ở Huế, trước khi vào sống ở Qui Nhơn.
chủ đề
của một số những tranh cãi. Trịnh Công Sơn
chưa bao giờ
hát hay
thu thanh
bài này; ông cũng
chưa bao giờ
phổ biến
bài này trong các tập nhạc của mình. Rất ít người biết về bài này
cho đến
khi Nguyễn Đắc Xuân nói chuyện với những thành viên của dàn đồng ca và bắt đầu viết về nó.
im lặng
về
bài hát
này vì họ tin rằng Trịnh Công Sơn không thích nói về
thời gian
ông sống ở Qui Nhơn. Sau khi Trịnh Công Sơn đã
nổi tiếng
, họ không nhắc lại bài này vì sợ
mọi người
nghĩ rằng họ đang khoe khoang về mối quan hệ với người nhạc sĩ
nổi tiếng
.
giữ kín
bài hát
này, vì ông sợ
bài hát
đã phản ánh quá nhiều
tình trạng
tâm lý
ông trong
thời gian
sống ở Qui Nhơn. Ông Xuân cho rằng, “Những người hiểu
hoàn cảnh
bi đát
,
vô vọng
của Trịnh Công Sơn lúc đó thì mới hiểu được Trường ca Tiếng hát Dã Tràng. Còn những người không hiểu sẽ không thích, mà còn có thể cho rằng Trịnh Công Sơn
bi quan
,
yếu đuối
.”
buổi lễ
tốt nghiệp
đại học
ở Nha Trang; lúc đó, có cả sự
hiện diện
của Trịnh Công Sơn.
Sâm Thương
và cả Đinh Cường, một người
bạn thân
khác của Trịnh Công Sơn, hiện đang sống tại Hoa Kỳ, cũng nói rằng
bài hát
này
chưa bao giờ
bị lãng quên.
Sâm Thương
nói ông nhớ đã từng thấy nó nằm giữa những
bài hát
khác của Trịnh Công Sơn, và nói thêm rằng Trịnh Công Sơn “có lần nói với tôi và những bạn bè thân là
cảm thấy
không còn bằng lòng với về mặt kỹ thuật của bài này.”
đặc biệt
, chỉ để
trình diễn
với dàn đồng ca.
“Dã tràng ca” làcủa một số những tranh cãi. Trịnh Công Sơnhát haybài này; ông cũngbài này trong các tập nhạc của mình. Rất ít người biết về bài nàykhi Nguyễn Đắc Xuân nói chuyện với những thành viên của dàn đồng ca và bắt đầu viết về nó. [16] Các thành viên của dàn đồng ca nói với Nguyễn Đắc Xuân họ giữvềnày vì họ tin rằng Trịnh Công Sơn không thích nói vềông sống ở Qui Nhơn. Sau khi Trịnh Công Sơn đã, họ không nhắc lại bài này vì sợnghĩ rằng họ đang khoe khoang về mối quan hệ với người nhạc sĩ [17] Còn Nguyễn Đắc Xuân lại cho rằng Trịnh Công Sơn muốnnày, vì ông sợđã phản ánh quá nhiềuông trongsống ở Qui Nhơn. Ông Xuân cho rằng, “Những người hiểucủa Trịnh Công Sơn lúc đó thì mới hiểu được Trường ca Tiếng hát Dã Tràng. Còn những người không hiểu sẽ không thích, mà còn có thể cho rằng Trịnh Công Sơn.” [18] Nhưng chính Nguyễn Đắc Xuân nói rằng bài này được hát năm 1973 tại mộttốt nghiệpở Nha Trang; lúc đó, có cả sựcủa Trịnh Công Sơn. [19] và cả Đinh Cường, một ngườikhác của Trịnh Công Sơn, hiện đang sống tại Hoa Kỳ, cũng nói rằngnàybị lãng quên.nói ông nhớ đã từng thấy nó nằm giữa nhữngkhác của Trịnh Công Sơn, và nói thêm rằng Trịnh Công Sơn “có lần nói với tôi và những bạn bè thân làkhông còn bằng lòng với về mặt kỹ thuật của bài này.” [20] Còn Đinh Cường lại cho rằng bài này ít được hát vì nó là một bài, chỉ đểvới dàn đồng ca. [21]
mọi người
đều
đồng ý
là “Dã tràng ca” chính là “kho
lưu trữ
,” nơi Trịnh Công Sơn “cất giữ” những tư liệu mà ông dùng trong các
sáng tác
sau đó.
thành ngữ
,
hình ảnh
, và những
chủ đề
được lặp đi lặp lại trong những
ca khúc
sau này. Có những
bài hát
khác có thể cũng “hiện sinh” như “Dã tràng ca,” nhưng tôi nhắc đến bài này vì sự
đặc biệt
của nó, và vì nó
bộc lộ
tâm trạng của người nhạc sĩ ở
bước đầu
sự nghiệp
của ông.
Có một điều màđềulà “Dã tràng ca” chính là “kho,” nơi Trịnh Công Sơn “cất giữ” những tư liệu mà ông dùng trong cácsau đó. [22] Nó chứa đầy những, và nhữngđược lặp đi lặp lại trong nhữngsau này. Có nhữngkhác có thể cũng “hiện sinh” như “Dã tràng ca,” nhưng tôi nhắc đến bài này vì sựcủa nó, và vì nótâm trạng của người nhạc sĩ ởcủa ông.
tình cảnh
phi lý
của kẻ lưu đày” của Nguyễn Văn Trung, được đăng trên tạp chí năm 1961,
nhấn mạnh
việc Camus không bám vào những ảo vọng hay
lựa chọn
con đường
tự vẫn mà
đối diện
với
thế giới
phi lý
này như một kẻ
lưu đày
cô đơn
nhưng
ngang bướng
. “Ảo vọng” mà Camus nói ở đây là
niềm tin
vào cuộc sống
đời sau
sẽ
đền bù
cho tất cả những
đau khổ
trần tục
của
con người
. Nhưng
chúng ta
hãy
để ý
đến cách Nguyễn Văn Trung nói đến ảo vọng của Camus:
Trong bài “Vài cảm nghĩ vềcủa kẻ lưu đày” của Nguyễn Văn Trung, được đăng trên tạp chínăm 1961, [23] ông Trung đãviệc Camus không bám vào những ảo vọng haytự vẫn màvớinày như một kẻnhưng. “Ảo vọng” mà Camus nói ở đây làvào cuộc sốngsẽcho tất cả nhữngcủa. Nhưnghãyđến cách Nguyễn Văn Trung nói đến ảo vọng của Camus:
Tù đầy chính là
Quê nhà
Tù đầy chính là
hy vọng
vào
một đời
sau cũng không khác gì nỗi hoài mong chốn
quê nhà
.
giải nghĩa
về của Camus, Nguyễn Văn Trung không nhắc gì đến
đời sau
:
niềm tin
vào
ơn trên
của Camus
trở thành
hoài niệm
về “quê hương”: “Tôi [NVT nói giùm cho Camus]
lựa chọn
ở lại nơi
lưu đày
vì trong đó có những sự thực
chắc chắn
hơn là một Quê hương chỉ là hứa hẹn,
ảo mộng
.”
Theo phân tích của Nguyễn Văn Trung,vàosau cũng không khác gì nỗi hoài mong chốn [25] Trong một đoạn khác,vềcủa Camus, Nguyễn Văn Trung không nhắc gì đếnvàocủa Camusvề “quê hương”: “Tôi [NVT nói giùm cho Camus]ở lại nơivì trong đó có những sự thựchơn là một Quê hương chỉ là hứa hẹn,.” [26]
của Camus, và có thể qua bản đã được “Việt Nam hoá” của Nguyễn Văn Trung, đã thu hút Trịnh Công Sơn. Ở Huế, vào những năm cuối 1950, đầu những năm 1960,
hình ảnh
của kẻ sống kiếp
lưu đày
,
cô đơn
, phản kháng lại một
xã hội
theo lệ thường, là một
hình ảnh
rất thời thượng. Những bộ phim của Hollywood, một phương thức
giải trí
mới và
phổ thông
ở Huế trong
thời gian
đó, cũng đóng
vai trò
quan trọng trong việc
cổ động
hình ảnh
này. Theo những người bạn của Trịnh Công Sơn, ông ngưỡng mộ James Dean, người
diễn viên
của những phim như (East of Eden) (1955), (Rebel without a Cause) (1955), (Giant) (1956). Trịnh Công Sơn đã treo một bức hình lớn của Dean ở lối đi cầu thang.
chủ nghĩa
hiện sinh
phương Tây”,
liên quan
giữa Dean, một kẻ
nổi loạn
của Hollywood, và người
nổi loạn
hiện sinh
như Camus; và giữa họ còn một điểm tương đồng nữa là cả hai đều bị chết vì
tai nạn
xe. Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi Dean là “vị
anh hùng
của sự cô đơn” và nói rằng Dean “trở thành một ‘mô hình’ của
thân phận
con người
rất được yêu mến bởi Trịnh Công Sơn.”
ảnh hưởng
của những ngôi sao Hollywood khác – Clark Gable, Robert Taylor, Montgomery Clift – nhưng cả hai đều
đồng ý
rằng người “nổi bật hơn hết là tài tử James Dean như một
hình tượng
thanh niên mới mẻ, độc đáo: một thanh niên lầm lì, không
quan tâm
đến một cái gì rõ rệt, luôn luôn xung động, khó sống với người chung quanh và xã hôi.”
điện ảnh
đã
ảnh hưởng
đến Trịnh Công Sơn và quỹ đạo của ông. Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng “những
không gian
lớn của miền Viễn tây Hoa Kỳ đã cuốn hút và làm thay đổi khiếu thẩm mỹ của thanh niên Huế.”
Điều dễ thấy làcủa Camus, và có thể qua bản đã được “Việt Nam hoá” của Nguyễn Văn Trung, đã thu hút Trịnh Công Sơn. Ở Huế, vào những năm cuối 1950, đầu những năm 1960,của kẻ sống kiếp, phản kháng lại mộttheo lệ thường, là mộtrất thời thượng. Những bộ phim của Hollywood, một phương thứcmới vàở Huế trongđó, cũng đóngquan trọng trong việcnày. Theo những người bạn của Trịnh Công Sơn, ông ngưỡng mộ James Dean, ngườicủa những phim như(East of Eden) (1955),(Rebel without a Cause) (1955),(Giant) (1956). Trịnh Công Sơn đã treo một bức hình lớn của Dean ở lối đi cầu thang. [27] Bửu Ý, một người bạn của Trịnh Công Sơn, gọi Dean là “hiện thân củaphương Tây”, [28] và nói rằng những người trong nhóm bạn của Trịnh Công Sơn thấy được mốigiữa Dean, một kẻcủa Hollywood, và ngườinhư Camus; và giữa họ còn một điểm tương đồng nữa là cả hai đều bị chết vìxe. Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi Dean là “vịcủa sự cô đơn” và nói rằng Dean “trở thành một ‘mô hình’ củarất được yêu mến bởi Trịnh Công Sơn.” [29] Hoàng Phủ Ngọc Tường và Bửu Ý còn nói đếncủa những ngôi sao Hollywood khác – Clark Gable, Robert Taylor, Montgomery Clift – nhưng cả hai đềurằng người “nổi bật hơn hết là tài tử James Dean như mộtthanh niên mới mẻ, độc đáo: một thanh niên lầm lì, khôngđến một cái gì rõ rệt, luôn luôn xung động, khó sống với người chung quanh và xã hôi.” [30] Bối cảnh phim cũng như tài tửđãđến Trịnh Công Sơn và quỹ đạo của ông. Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng “nhữnglớn của miền Viễn tây Hoa Kỳ đã cuốn hút và làm thay đổi khiếu thẩm mỹ của thanh niên Huế.” [31]
Nếu James Dean là người hùng của sự
cô đơn
, thì với người
Việt Nam
, Trịnh Công Sơn
trở thành
người
truyền thông
điệp của sự
cô đơn
. Những từ như “một mình”, “cô đơn” hay “cô liêu”
xuất hiện
trong rất nhiều
bài hát
. Bài “Lời buồn thánh”, một trong những
bài hát
buồn nhất của Trịnh Công Sơn, bắt đầu như sau:
Bài này
kết thúc
với lời
cầu xin
năm ngón tay
thiên thần
của người yêu hãy
đi vào
nỗi
cô đơn
của ông.
hình ảnh
người
anh hùng
đi qua những miền đất thưa vắng, khô cằn. Thường trong những
bài hát
của mình, Trịnh Công Sơn bắt gặp mình nơi phố lạ. Ông
rõ ràng
bị thu hút bởi hai điều mà Nguyễn Văn Trung nói đến khi phân tích về của Camus: sự
lôi cuốn
của kiếp
lưu đày
và sự
lôi cuốn
của chốn
quê nhà
. Trong bài “Lời
thiên thu
gọi”, Trịnh Công Sơn đã hát, “Nhiều đêm muốn đi về con phố xa/ Nhiều đêm muốn
quay về
ngồi yên
dưới mái nhà.” Và trong bài “Tình xót xa vừa”, Trịnh Công Sơn hát, “Từng ngày chôn chân, nhớ phố lang thang.” Trong cuộc
giằng co
giữa
lưu đày
và
quê nhà
của Trịnh Công Sơn,
quê nhà
bao giờ cũng thắng. Ông
chưa bao giờ
tỏ ra
nghi ngờ
về tình yêu
quê nhà
. Với Trịnh Công Sơn, “Chân đi xa trái tim bên nhà.”
trưởng thành
trong một nền văn hoá mà tình yêu quê hương,
quê nhà
là điều lớn lao nhất, Trịnh Công Sơn không thể nào
thực hiện
được điều mà, như Nguyễn Văn Trung cho là
ý tưởng
của Camus, [là] biến nơi
lưu đày
thành
quê nhà
.
Trong một phim cao bồi của James Dean và trong các truyện ngắn như chuyện “Người khách” [32] của Camus có rải rácngườiđi qua những miền đất thưa vắng, khô cằn. Thường trong nhữngcủa mình, Trịnh Công Sơn bắt gặp mình nơi phố lạ. Ôngbị thu hút bởi hai điều mà Nguyễn Văn Trung nói đến khi phân tích vềcủa Camus: sựcủa kiếpvà sựcủa chốn. Trong bài “Lờigọi”, Trịnh Công Sơn đã hát, “Nhiều đêm muốn đi về con phố xa/ Nhiều đêm muốndưới mái nhà.” Và trong bài “Tình xót xa vừa”, Trịnh Công Sơn hát, “Từng ngày chôn chân, nhớ phố lang thang.” Trong cuộcgiữavàcủa Trịnh Công Sơn,bao giờ cũng thắng. Ôngvề tình yêu. Với Trịnh Công Sơn, “Chân đi xa trái tim bên nhà.” [33] Sinh ra vàtrong một nền văn hoá mà tình yêu quê hương,là điều lớn lao nhất, Trịnh Công Sơn không thể nàođược điều mà, như Nguyễn Văn Trung cho làcủa Camus, [là] biến nơithành
Việt Nam
,
quê nhà
là nơi mỗi người được sinh ra và là nơi chôn nhau cắt rốn. Đó là nơi yên nghỉ của ông bà
tổ tiên
, nơi mỗi người mong mình được chôn cất khi qua đời (điều này
giải thích
lý do
tại sao Trịnh Công Sơn có thể nói
cuộc đời
là “một cõi đi về”, một
hành trình
dài
trở về
quê nhà
). Trong trí tưởng của người Việt,
quê nhà
gợi đến
thiên đường
đã mất của thời
thơ ấu
,
đặc biệt
là
tình thương
dịu dàng
của người mẹ.
Thiền sư
Thích
Nhất Hạnh
, một
nhà sư
Phật giáo
nổi tiếng
thế giới
, cũng
xuất thân
từ Huế như Trịnh Công Sơn, đã chỉ ra rằng: “Trong tiếng Việt, lòng mẹ là ‘cung điện của trẻ thơ [
tử cung
].’
Thiên đường
nằm trong lòng người mẹ của
chúng ta
.”
một lần
trả lời
phỏng vấn
, Trịnh Công Sơn nói rằng, “Những lúc mình buồn không hiểu vì sao mình buồn, có lẽ là nhớ
quê nhà
và
quê nhà
gần gũi nhất của mình là
bào thai
mẹ.”
bài hát
của ông. Trịnh Công Sơn
giải thích
“nhẹ nhàng” ở đây có nghĩa là “như ca dao hoặc những lời ru con của mẹ.
Triết học
Việt Nam
có ở đó nhưng không được
hệ thống
hoá vì nó bàng bạc
trong đời
sống dân gian.”
Triết học
nhẹ nhàng của Trịnh Công Sơn là
triết học
của
quê nhà
, đó là
lý do
tại sao
quê nhà
và quê hương được nhắc đến nhiều lần như vậy trong các
bài hát
của ông, trong những lời ca như:
Với ngườilà nơi mỗi người được sinh ra và là nơi chôn nhau cắt rốn. Đó là nơi yên nghỉ của ông bà, nơi mỗi người mong mình được chôn cất khi qua đời (điều nàytại sao Trịnh Công Sơn có thể nóilà “một cõi đi về”, mộtdài). Trong trí tưởng của người Việt,gợi đếnđã mất của thờilàcủa người mẹ.Thích, một, cũngtừ Huế như Trịnh Công Sơn, đã chỉ ra rằng: “Trong tiếng Việt, lòng mẹ là ‘cung điện của trẻ thơ [].’nằm trong lòng người mẹ của.” [34] Trong, Trịnh Công Sơn nói rằng, “Những lúc mình buồn không hiểu vì sao mình buồn, có lẽ là nhớvàgần gũi nhất của mình làmẹ.” [35] Ngay từ đầu bài viết này, tôi đã dẫn một câu nói của Trịnh Công Sơn, rằng ông muốn đặt một “triết học nhẹ nhàng” vào nhữngcủa ông. Trịnh Công Sơn“nhẹ nhàng” ở đây có nghĩa là “như ca dao hoặc những lời ru con của mẹ.có ở đó nhưng không đượchoá vì nó bàng bạcsống dân gian.” [36] nhẹ nhàng của Trịnh Công Sơn làcủa, đó làtại saovà quê hương được nhắc đến nhiều lần như vậy trong cáccủa ông, trong những lời ca như:
“Tình yêu tìm thấy”
“Bên đời hiu quạnh”
“Chiều trên quê hương tôi”
Trịnh Công Sơn không bao giờ
chấp nhận
thái độ
luôn phản kháng lại
thế giới
, điều mà Camus đã cổ vũ trong Bài “Dã tràng ca” không
kết thúc
trong sự bất chấp, thách thức, mà là lời
thỉnh cầu
thiên thần
tình yêu cứu rỗi ông khỏi sự
cô đơn
.
Xem xét
ngữ cảnh trong các
bài hát
của ông, sự
lưu đày
Trịnh Công Sơn nói đến không phải là sự phản kháng
hiện sinh
, mà là sự
chấp nhận
của
Phật giáo
–
đời sống
là khổ đau, tạm bợ, và những
quy luật
của nghiệp và sự
tái sinh
. Rằng tất cả
chúng ta
đều đang tạm dung ở cõi này, và tất cả là “những kẻ lưu đày” đang sống xa rời quê hương thật:
“Phúc âm buồn”
nổi loạn
. Kiếp
lưu đày
của Trịnh Công Sơn ở cõi này giống như kiếp không nhà của một
Tỳ kheo
, người
xuất gia
khất thực
đi
tìm kiếm
quê hương đích thực, tức là
chánh đạo
của nhà Phật. Như một
Tỳ kheo
, ông phải học cách không vướng bận quá nhiều đến thân xác, không quá
quan tâm
đến những
vấn đề
của sự sống và cái chết, những bài học mà người nhạc sĩ phải
vật lộn
trong lời ca của bài “Phúc âm buồn” ở đoạn trên. Trong kinh Phật, việc
giác ngộ
và lĩnh hội được
chân lý
cao nhất được
so sánh
với việc rở về chốn
quê nhà
. Trong kinh
Kim cương
và
kinh Lăng già
,
mục đích
của
Phật tử
là tìm đến “vô trụ xứ”, một cõi
tinh thần
nằm “ngoài
biên giới
của sự
lập luận
phán xét”, và
cư ngụ
ở nơi đó.
quê nhà
hay quê hương gồm cả
hai nghĩa
– để nói đến quê hương và cũng để nói đến sự đến và sự
trở về
của
Phật tính
. Như trong bài viết cho Trịnh Công Sơn viết,“Tôi không
quan niệm
tìm đến với Phật mà là
trở về
với
Phật tính
trong cõi riêng mình. Đó là quê hương, là chiếc ngai Phật.”
Trịnh Công Sơn là một người đi tìm thì đúng hơn là một người. Kiếpcủa Trịnh Công Sơn ở cõi này giống như kiếp không nhà của một, ngườiđiquê hương đích thực, tức làcủa nhà Phật. Như một, ông phải học cách không vướng bận quá nhiều đến thân xác, không quáđến nhữngcủa sự sống và cái chết, những bài học mà người nhạc sĩ phảitrong lời ca của bài “Phúc âm buồn” ở đoạn trên. Trong kinh Phật, việcvà lĩnh hội đượccao nhất đượcvới việc rở về chốn. Trong kinhvàcủalà tìm đến “vô trụ xứ”, một cõinằm “ngoàicủa sựphán xét”, vàở nơi đó. [37] Tôi tin là trong một số bài, ví dụ như bài “Một cõi đi về”, nhạc sĩ nói đếnhay quê hương gồm cả– để nói đến quê hương và cũng để nói đến sự đến và sựcủa. Như trong bài viết choTrịnh Công Sơn viết,“Tôi khôngtìm đến với Phật mà làvớitrong cõi riêng mình. Đó là quê hương, là chiếc ngai Phật.” [38]
tìm kiếm
chân lý
hơn là một người
nổi loạn
;
tuy nhiên
, điều đó không có nghĩa là Trịnh Công Sơn đã không
thừa hưởng
được gì từ
tác phẩm
của Camus. Chính những
tác phẩm
này đã giúp ông
đối lập
kiếp
lưu đày
với
quê nhà
và quê hương, và khiến cho những
sáng tác
của ông
thích hợp
với những
tranh luận
triết học
tại
Việt Nam
trong những năm cuối 1950 đầu 1960. Trong những bản nhạc tiền chiến
xuất hiện
nhiều những
hình ảnh
của kẻ lang thang sống kiếp
giang hồ
nhưng nhớ tha thiết quê hương;
tuy nhiên
,
so sánh
với những
tác phẩm
đó, sự
lưu đày
cô đơn
trong các
sáng tác
của Trịnh Công Sơn mang
tính cách
siêu hình hơn. Với Trịnh Công Sơn,
lưu đày
là
thân phận
của
kiếp người
chứ không phải là một
lựa chọn
lãng mạn
.
Quê nhà
và quê hương trong những
bài hát
của ông là điều luôn được nhắc đến trong ca dao và trong dòng nhạc tiền chiến, nhưng chính Trịnh Công Sơn đã thổi một nguồn sống mới vào những
hình ảnh
truyền thống
của
quê nhà
, bằng cách đối nghịch chúng với
hình ảnh
của
một thế
giới đầy dẫy
cô đơn
, thiếu vắng cả niềm
hy vọng
lẫn nguồn
an ủi
– những
hình ảnh
mà người cùng
thế hệ
của ông bắt gặp qua những
tác phẩm
của và về những
tác giả
hiện sinh
.
Trịnh Công Sơn có thể là một người đihơn là một người, điều đó không có nghĩa là Trịnh Công Sơn đã khôngđược gì từcủa Camus. Chính nhữngnày đã giúp ôngkiếpvớivà quê hương, và khiến cho nhữngcủa ôngvới nhữngtạitrong những năm cuối 1950 đầu 1960. Trong những bản nhạc tiền chiến [39] và những tiểu thuyết trước thời Trịnh Công Sơn, đãnhiều nhữngcủa kẻ lang thang sống kiếpnhưng nhớ tha thiết quê hương; [40] với nhữngđó, sựtrong cáccủa Trịnh Công Sơn mangsiêu hình hơn. Với Trịnh Công Sơn,làcủachứ không phải là mộtvà quê hương trong nhữngcủa ông là điều luôn được nhắc đến trong ca dao và trong dòng nhạc tiền chiến, nhưng chính Trịnh Công Sơn đã thổi một nguồn sống mới vào nhữngcủa, bằng cách đối nghịch chúng vớicủagiới đầy dẫy, thiếu vắng cả niềmlẫn nguồn– nhữngmà người cùngcủa ông bắt gặp qua nhữngcủa và về những
Trong bài “Dã tràng ca” và nhiều
bài hát
khác, dù Trịnh Công Sơn không thách thức, nhưng
rõ ràng
ông rất băn khoăn về những
đau khổ
của
kiếp người
và cõi tạm bợ này. Trong những bài ca phản chiến của mình, ông đã
chống lại
cuộc nội chiến đang biến đất mẹ thành “một rừng xương khô” và “một núi đầy mồ” (“Gia tài của mẹ”). Sau Tết Mậu Thân 1968, ông
sáng tác
“Hát trên những xác người” và “Bài ca dành cho những xác người”; hai
bài hát
, như tên gọi của nó, rất gợi hình và
diễn tả
một cách rất
xúc động
tình cảm của ông trước nỗi
kinh hoàng
của cuộc chiến. Theo
giáo lý
Phật,
con người
không buộc phải gánh chịu
đau khổ
;
thực tế
, mỗi người được khuyến khích làm tất cả những gì có thể để
xoa dịu
khổ đau – của chính mình và của
đồng loại
. Nhưng để làm được điều đó,
con người
phải
nhận thức
được sư
hiện hữu
của
đau khổ
. Khi lòng khát khao
vật chất
gây nên những khổ đau cho
con người
, thì để
xoa dịu
,
chúng ta
phải
loại bỏ
những khát khao:
Chúng ta
phải
từ bỏ
những
quyến luyến
(attachments).
Từ bỏ
những
quyến luyến
là điều không dễ dàng. Khi Trịnh Công Sơn nói về những
lạc thú
của
đời sống
,
đặc biệt
là tình yêu, và khi ông
thôi thúc
mọi người
hãy vui đi, đôi khi ông thêm một mệnh đề bắt đầu bằng chữ “dù.” Trong bài “Hãy yêu nhau đi” ông thúc giục
mọi người
Và trong bài “Để gió cuốn đi” ông hát:
bài hát
có những mệnh đề “dù” này,
đời sống
được
chấp nhận
, nhưng
miễn cưỡng
. Tôi nói “miễn cưỡng” bởi vì trong những mệnh đề chính
gắn liền với
những mệnh đề “dù” này, sức hút của tình yêu trong
cuộc đời
này được
diễn tả
hết sức
nồng nàn đến mức chúng có
xu hướng
áp đảo
nhận thức
của Trịnh Công Sơn về sự tạm bợ của
đời sống
trong những câu mệnh đề phụ “dù” của ông. Ví dụ, ở đây, là cách bài “Tạ ơn” kết:
Trong nhữngcó những mệnh đề “dù” này, [41] sự tạm bợ củađược, nhưng. Tôi nói “miễn cưỡng” bởi vì trong những mệnh đề chínhnhững mệnh đề “dù” này, sức hút của tình yêu trongnày đượcnồng nàn đến mức chúng cócủa Trịnh Công Sơn về sự tạm bợ củatrong những câu mệnh đề phụ “dù” của ông. Ví dụ, ở đây, là cách bài “Tạ ơn” kết:
Thời chiến tranh, trong khi
Việt Nam
quả là
một thế
giới
phi lý
, thì Trịnh Công Sơn mãi
lưu tâm
đến những
hấp dẫn
của
cuộc đời
,
đặc biệt
là tình yêu, và
vì vậy
ông
bác bỏ
thái độ
bất chấp kiểu Camus và
vật lộn
để
chấp nhận
từ bỏ
những
quyến luyến
như
giáo lý
Phật dạy.
triết gia
hiện sinh
duy nhất
. Ta cũng có thể
liên tưởng
việc Trịnh Công Sơn bị thu hút mạnh mẽ bởi những
tư tưởng
hiện sinh
khác về “sự kinh hãi” (dread) và “sự sống đích thực” (authentic living), những
quan niệm
gắn với Kark Jaspers và Martin Heidegger. Trong phần
giới thiệu
một tập nhạc xuất bản năm 1972, ông nói, “Tôi đang
yêu thương
cuộc đời
bằng
nỗi lòng
của tên
tuyệt vọng
.”
Tuyệt vọng
ở đây mà Trịnh Công Sơn nói đến trong những
tác phẩm
,
sáng tác
của ông cũng giống với “sự kinh hãi”
hiện sinh
; đây là một tâm trạng, theo Martin Heidegger và những
triết gia
hiện sinh
khác, làm
con người
mất hết
tinh thần
khi phải
đối diện
với điều không
tránh khỏi
là cái chết của chính mình. Với Heidegger, và cũng như với Trịnh Công Sơn, sự
sợ hãi
này,
trực giác
về cái chết của chính mình, chính là nền tảng của cuộc sống thật sự; đó là điều mang lại
ý nghĩa
và
giá trị
cho
đời sống
. Bị cuốn theo
đời sống
“thường nhật,” Heidegger nói,
đa số
không thấy cái chết theo cách này, trừ khi
đối diện
với bệnh
hiểm nghèo
. Đây là điều
bất hạnh
vì khi sống
một đời
sống với
ý niệm
gần kề với cái chết,
con người
sẽ sống tha thiết và nồng nàn hơn.
Nhưng Camus không phải là. Ta cũng có thểviệc Trịnh Công Sơn bị thu hút mạnh mẽ bởi nhữngkhác về “sự kinh hãi” (dread) và “sự sống đích thực” (authentic living), nhữnggắn với Kark Jaspers và Martin Heidegger. Trong phầnmột tập nhạc xuất bản năm 1972, ông nói, “Tôi đangbằngcủa tên.” [42] ở đây mà Trịnh Công Sơn nói đến trong nhữngcủa ông cũng giống với “sự kinh hãi”; đây là một tâm trạng, theo Martin Heidegger và nhữngkhác, làmmất hếtkhi phảivới điều khônglà cái chết của chính mình. Với Heidegger, và cũng như với Trịnh Công Sơn, sựnày,về cái chết của chính mình, chính là nền tảng của cuộc sống thật sự; đó là điều mang lạivàcho. Bị cuốn theo“thường nhật,” Heidegger nói,không thấy cái chết theo cách này, trừ khivới bệnh. Đây là điềuvì khi sốngsống vớigần kề với cái chết,sẽ sống tha thiết và nồng nàn hơn. [43]
bài hát
của Trịnh Công Sơn, như
chúng ta
đã thấy, cái chết luôn
thâm nhập
vào
đời sống
và ngược lại, thường trong cùng chỉ một câu hát: “Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ”, “Trong xuân thì thấy bóng trăm năm”, và “Từng lời tà dương là lời mộ địa.”
đen tối
có thể chính là
sự cố
gắng của ông trong việc nắm bắt cái
nghịch lý
hiện sinh
: Để sống
một đời
sống
trọn vẹn
,
con người
phải sống với cái chết trong
tâm trí
mình. Muller, người
so sánh
chủ nghĩa
hiện sinh
với
Phật giáo
, cho rằng đây là một
nghịch lý
“rất Thiền” bởi vì trong Thiền, “sự thật của kiếp người… chỉ ngộ được khi đã
đạt đến
hư không
.”
Phật giáo
và
chủ nghĩa
hiện sinh
, mỗi người phải
đối diện
với
tình trạng
hư không
hoặc
hư vô
để có thể
nhận thức
được những khả năng của
đời sống
. Khái niệm về
kinh hãi
,
vì vậy
, có lẽ đã
lôi cuốn
Trịnh Công Sơn vì nó đã chứng thực được
niềm tin
Phật giáo
của chính ông.
Trong rất nhiềucủa Trịnh Công Sơn, nhưđã thấy, cái chết luônvàovà ngược lại, thường trong cùng chỉ một câu hát: “Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ”, “Trong xuân thì thấy bóng trăm năm”, và “Từng lời tà dương là lời mộ địa.” [44] Điều làm cho nhiều người nghĩ nhạc Trịnh Công Sơn có vẻ quácó thể chính làgắng của ông trong việc nắm bắt cái: Để sốngsốngphải sống với cái chết trongmình. Muller, ngườivới, cho rằng đây là một“rất Thiền” bởi vì trong Thiền, “sự thật của kiếp người… chỉ ngộ được khi đã.” [45] Trong cảvà, mỗi người phảivớihoặcđể có thểđược những khả năng của. Khái niệm về, có lẽ đãTrịnh Công Sơn vì nó đã chứng thực đượccủa chính ông.
Tuy nhiên
, khái
niệm kinh
hãi
hiện sinh
không thật
sự
thích hợp
với
Phật giáo
.
Phật giáo
dạy rằng
con người
không nên đón cõi chết bằng sự
kinh hãi
, mà với “tuyệt đối
hết lòng
.” Suzuki cho rằng, với những người theo Thiền, cái chết không phải là điều
kinh hoàng
: “Con người với cái chết là một cũng như
con người
với sự sống là một, và trong một cách không thể
giải thích
được,
con người
vượt ngoài
biên giới
của sự sống và cái chết ngay vào khi được sinh ra hay chết đi. Sự vĩnh hằng, với Thiền, không phải là
tình trạng
sau khi chết
. Để sống vĩnh hằng là chạm vào những
vô cùng
của
hiện tại
.”
tuyệt vọng
trong một số
bài hát
, tôi tin rằng ông đã cố “chạm vào sự
vô cùng
của hiện tại” và xem cái chết không với nỗi
sợ hãi
mà với sự
điềm tĩnh
và
an bình
. Những
sáng tác
sau này như “Tôi ơi đừng tuyệt vọng” và “Như một lời chia tay” được viết vào những năm đầu 1990, đều mang
âm hưởng
của sự
chấp nhận
lặng lẽ
. Ví dụ, trong bài “Tôi ơi đừng
tuyệt vọng
,” Trịnh Công Sơn
quở trách
chính mình và người yêu của ông vì những
quyến luyến
với cõi đời.
Trước tiên
, để nói về chính mình, ông hỏi:
, kháihãisựvớidạy rằngkhông nên đón cõi chết bằng sự, mà với “tuyệt đối.” Suzuki cho rằng, với những người theo Thiền, cái chết không phải là điều: “Con người với cái chết là một cũng nhưvới sự sống là một, và trong một cách không thểđược,vượt ngoàicủa sự sống và cái chết ngay vào khi được sinh ra hay chết đi. Sự vĩnh hằng, với Thiền, không phải là. Để sống vĩnh hằng là chạm vào nhữngcủa.” [46] Dù Trịnh Công Sơn đã nói đến sựtrong một số, tôi tin rằng ông đã cố “chạm vào sựcủa hiện tại” và xem cái chết không với nỗimà với sựvà. Nhữngsau này như “Tôi ơi đừng tuyệt vọng” và “Như một lời chia tay” được viết vào những năm đầu 1990, đều mangcủa sự. Ví dụ, trong bài “Tôi ơi đừng,” Trịnh Công Sơnchính mình và người yêu của ông vì nhữngvới cõi đời., để nói về chính mình, ông hỏi:
Bài hát
này có
hình ảnh
của những chiếc lá
mùa thu
rơi rụng giữa
mùa đông
và
ánh nắng
vàng đang phai nhạt “như
một đời
riêng,” nhưng
viễn tượng
của bình minh cũng được nhắc đến. Trịnh Công Sơn dường như đang nhắc nhở chính mình và người yêu của ông rằng
cuộc đời
riêng của họ chỉ là một
phần tử
nhỏ trong quá trình rộng lớn hơn của
suy tàn
, chết chóc và
tái sinh
. Trong “Như một lời chia tay,” những kỷ niệm của tình yêu – từng bước chân, đoá
hoa hồng
, lời
thì thầm
trong đêm – làm cho sự chia lìa với
kiếp người
khó khăn một cách đớn đau, nhưng cũng chính trong bài này, ông
tỏ ra
sẵn sàng để hát lên lời chia tay.
giới hạn
nào đó,
Phật giáo
và
chủ nghĩa
hiện sinh
có phần tương đồng, nhưng những tương đồng này có thể làm mờ đi những khác biệt
bản chất
. Ví dụ, sự tương đồng mà Trịnh Công Sơn nói đến trong một cuộc
trả lời
phỏng vấn
và trong những bài viết cho . Khi người
phỏng vấn
nói rằng anh ta đã thấy được dòng chảy mạnh mẽ của
chủ nghĩa
hiện sinh
trong sáng
tác của ông, Trịnh Công Sơn
trả lời
: “Mình cho rằng bậc
thượng thừa
của
hiện sinh
chính là ông Phật.
Tại vì
Phật dạy ta phải
thức tỉnh
trong từng
sát na
của cuộc sống.” , ông nói rằng trong “những năm
gần đây
, tôi thường nghĩ về
Phật giáo
như một
tôn giáo
mang nhiều tính
hiện sinh
nhất. Bắt đầu bằng chữ ‘sát na’, một
đơn vị
thời gian
siêu nhỏ. Phải biết
cách sống
hết mình trong mỗi
sát na
của
thực tại
. Từ mỗi cái ăn, cái uống, cái đi đứng nằm ngồi. Không làm công việc này mà nghĩ đến công việc khác. Với tôi, đó cũng là thiền,
cách sống
đích thực. Tôi vẫn
tiếp tục
thực tập
cách sống
như thế hàng ngày.”
Trong mộtnào đó,vàcó phần tương đồng, nhưng những tương đồng này có thể làm mờ đi những khác biệt. Ví dụ, sự tương đồng mà Trịnh Công Sơn nói đến trong một cuộcvà trong những bài viết cho. Khi ngườinói rằng anh ta đã thấy được dòng chảy mạnh mẽ củatác của ông, Trịnh Công Sơn: “Mình cho rằng bậccủachính là ông Phật.Phật dạy ta phảitrong từngcủa cuộc sống.” [47] Và trong, ông nói rằng trong “những năm, tôi thường nghĩ vềnhư mộtmang nhiều tínhnhất. Bắt đầu bằng chữ ‘sát na’, mộtsiêu nhỏ. Phải biếthết mình trong mỗicủa. Từ mỗi cái ăn, cái uống, cái đi đứng nằm ngồi. Không làm công việc này mà nghĩ đến công việc khác. Với tôi, đó cũng là thiền, [48] là mộtđích thực. Tôi vẫnnhư thế hàng ngày.” [49]
chú tâm
vào sự
hiện hữu
của kiếp sống này mà không phải sự sống
đời sau
, và trong cách nó
nhấn mạnh
đến khả năng của
ý nghĩ
–
chú tâm
và
nhập định
–
Phật giáo
mang “đặc điểm hiện sinh”. “Chúng ta là kết quả của tất cả những gì
chúng ta
nghĩ đến” là một trong những câu nói
nổi tiếng
của
đức Phật
; đó là một
châm ngôn
mà Walter Kaufmann cho rằng “không khác gì sự tinh tuý trong
tư tưởng
của Sartre.”
nhấn mạnh
rằng “hiện hữu đứng trước
bản chất
,” và rằng những điều
chúng ta
làm, những
lựa chọn
chúng ta
thực hiện
trong đời
sống,
quyết định
bản tính
của
chúng ta
.
Phật giáo
, những điều luật mà Trịnh Công Sơn nói đến là để cho
con người
nhận thức
được
Luân hồi
,
cõi trần
thế đầy
đau khổ
và tạm bợ,
hoàn toàn
giống với
Niết bàn
, là
thực tại
cùng đích. “Niết bàn là
Luân hồi
;
Luân hồi
là Niết bàn” là một câu rất
nổi tiếng
của
Phật tử
. Trong
giáo lý
nhà Phật,
Luân hồi
, tức là
cõi trần
này, không phải là
thua kém
gì so với
thực tại
đích thực; điều này chỉ có vẻ như vậy với những ai chưa
giác ngộ
. Nếu một người tin vào điều này, thì không cần thách
thực hiện
sinh – không cần
nổi loạn
siêu hình
chống lại
thế giới
phi lý
mà những
triết gia
hiện sinh
như Camus đã khuyên bảo.
Bằng việcvào sựcủa kiếp sống này mà không phải sự sống, và trong cách nóđến khả năng củavàmang “đặc điểm hiện sinh”. “Chúng ta là kết quả của tất cả những gìnghĩ đến” là một trong những câu nóicủa; đó là mộtmà Walter Kaufmann cho rằng “không khác gì sự tinh tuý trongcủa Sartre.” [50] Kaufmann luôn ghi nhớ việc Sartrerằng “hiện hữu đứng trước,” và rằng những điềulàm, nhữngsống,của [51] Nhưng trong, những điều luật mà Trịnh Công Sơn nói đến là để chođượcthế đầyvà tạm bợ,giống với, làcùng đích. “Niết bàn làlà Niết bàn” là một câu rấtcủa. Trongnhà Phật,, tức lànày, không phải làgì so vớiđích thực; điều này chỉ có vẻ như vậy với những ai chưa. Nếu một người tin vào điều này, thì không cần tháchsinh – không cầnsiêu hìnhmà nhữngnhư Camus đã khuyên bảo. [52]
chủ nghĩa
hiện sinh
quá chú trọng
con người
cá nhân
cũng làm nó không
thích hợp
với
tư tưởng
Phật giáo
.
Chủ nghĩa
hiện sinh
khuyến khích mỗi
cá nhân
đứng lên
chống lại
xã hội
và văn
hoá hiện
hữu. Ngược lại,
Phật giáo
, dạy “vô ngã”, rằng “không có một
bản ngã
hay một
linh hồn
nào ở đằng sau dòng chảy của
tinh thần
và
vật chất
thể hiện
sự
hiện hữu
của
chúng ta
.”
cá nhân
rốt cuộc
không phải là một
thực thể
độc lập
. Tất cả những
thực tế
từng
cá nhân
có đều bắt nguồn từ tập hợp của tổng thể.”
Thiền sư
Thích
Nhất Hạnh
nói rằng
bản thân
đích thực là
vô ngã
– “sự
nhận biết
rằng mỗi
cá nhân
được dựng nên chỉ bởi những
yếu tố
vô ngã
,” rằng “không có sự chia rẽ giữa
cá thể
và những người khác, và tất cả đều nối liền
với nhau
.”
Vô ngã
, Thích
Nhất Hạnh
cho rằng, có thể được trau dồi: “Khi bạn
yêu thương
, nếu là lòng
yêu thương
thật sự, bạn sẽ bắt đầu
nhận ra
rằng những người khác là một phần của bạn và bạn là một phần của họ. Khi
nhận thức
được điều đó, đã là vô ngã… Khi
con người
yêu mến nhau, sự khác biệt, những
giới hạn
,
biên giới
ngăn cách giữa họ sẽ bắt đầu tan biến đi, và họ
trở thành
một với người họ
thương yêu
. Sẽ không còn những
ghen ghét
và sân giận, vì nếu sân giận người khác, là họ đang giận chính họ.”
Việcquá chú trọngcũng làm nó khôngvớikhuyến khích mỗiđứng lênvà vănhữu. Ngược lại,, dạy “vô ngã”, rằng “không có mộthay mộtnào ở đằng sau dòng chảy củavàsựcủa.” [53] George Rupp cho rằng, “với Thiền,không phải là một. Tất cả nhữngtừngcó đều bắt nguồn từ tập hợp của tổng thể.” [54] Thíchnói rằngđích thực là– “sựrằng mỗiđược dựng nên chỉ bởi những,” rằng “không có sự chia rẽ giữavà những người khác, và tất cả đều nối liền.” [55] , Thíchcho rằng, có thể được trau dồi: “Khi bạn, nếu là lòngthật sự, bạn sẽ bắt đầurằng những người khác là một phần của bạn và bạn là một phần của họ. Khiđược điều đó, đã là vô ngã… Khiyêu mến nhau, sự khác biệt, nhữngngăn cách giữa họ sẽ bắt đầu tan biến đi, và họmột với người họ. Sẽ không còn nhữngvà sân giận, vì nếu sân giận người khác, là họ đang giận chính họ.” [56]
Tôi tin
chúng ta
thấy Trịnh Công Sơn trau dồi tính
vô ngã
trong rất nhiều
bài hát
của ông. Ông và những người bạn của ông nói rằng nhiều bài
tình ca
của ông bắt nguồn từ một người
phụ nữ
nào đó. Có khi những người này đã phụ ông, và thường thì cuộc tình của họ
kết thúc
trong chia ly, buồn bã. Nhưng trong những bài
tình ca
của mình, Trịnh Công Sơn thường đi từ cái khổ đau trong tình yêu
cá nhân
đến một điều chung hơn, là xót xa cho
thân phận
con người
. Nói cách khác, nhiều “bài hát tình yêu” cũng chính là “bài ca về
thân phận
con người
.” Ví dụ, trong bài “Nhìn những
mùa thu
đi”,
bài hát
mà tôi đã dẫn ở trên, nói về một tình yêu phai nhoà, thì sự “buồn bã
của riêng
ông” hoà chung với “cảm xúc của
con người
.” Và trong bài “Ru em”, cũng là bài nói về tình yêu tan vỡ, tình phụ, ông hát:
, từ mà Trịnh Công Sơn dùng trong câu thứ hai trên đây, nói đến và , là hai đức tính mà
Phật tử
tin rằng quan trọng để “từ bỏ
quyến luyến
của ‘cái tôi’.”
vô ngã
trong bài “Tôi ơi đừng tuyệt vọng”, trong
trường hợp
này, bằng cách nhắc nhở người yêu rằng không có ngăn cách nào giữa họ; họ, như lời Thích
Nhất Hạnh
, đã kết nối
với nhau
:
, từ mà Trịnh Công Sơn dùng trong câu thứ hai trên đây, nói đếnvà, là hai đức tính màtin rằng quan trọng để “từ bỏcủa ‘cái tôi’.” [57] Trịnh Công Sơn cũng trau dồi tínhtrong bài “Tôi ơi đừng tuyệt vọng”, trongnày, bằng cách nhắc nhở người yêu rằng không có ngăn cách nào giữa họ; họ, như lời Thích, đã kết nối
rõ ràng
có
quan tâm
đến
chủ nghĩa
hiện sinh
, tôi nghĩ rằng nó chỉ
ảnh hưởng
đến những
sáng tác
của ông một cách chung chung. Sự
phổ biến
của nó giữa những người bạn và những người quen đã
thôi thúc
ông đưa
triết học
vào trong những
bài hát
của mình –
theo như
lời của Thái Kim Lan là “hát triết học”. Những người bạn say mê
triết học
Tây phương
của ông hiểu những
bài hát
này là về những
tư tưởng
hiện sinh
. Và bởi vì ông trình bày những
tư tưởng
này bằng
ngôn từ
đơn giản
– theo lời Thái Kim Lan, như người mẹ Huế kể chuyện
cổ tích
– những
bài hát
của ông giúp họ hiểu những
lý thuyết
siêu hình khó hiểu này.
Tuy nhiên
, nhiều năm sau đó, Thái Kim Lan đi đến một
kết luận
bất ngờ. Bà viết năm 2001: “Bây giờ nhìn lại thì thấy mình dại khờ, bởi chính những
tư tưởng
mới này chẳng có chi là mới so với triết
lý Phật
giáo cả.”
Dù Trịnh Công Sơncóđến, tôi nghĩ rằng nó chỉđến nhữngcủa ông một cách chung chung. Sựcủa nó giữa những người bạn và những người quen đãông đưavào trong nhữngcủa mình –lời của Thái Kim Lan là “hát triết học”. Những người bạn say mêcủa ông hiểu nhữngnày là về những. Và bởi vì ông trình bày nhữngnày bằng– theo lời Thái Kim Lan, như người mẹ Huế kể chuyện– nhữngcủa ông giúp họ hiểu nhữngsiêu hình khó hiểu này., nhiều năm sau đó, Thái Kim Lan đi đến mộtbất ngờ. Bà viết năm 2001: “Bây giờ nhìn lại thì thấy mình dại khờ, bởi chính nhữngmới này chẳng có chi là mới so với triếtgiáo cả.” [58]
Phật giáo
và
chủ nghĩa
hiện sinh
, như
chúng ta
đã thấy. Ví dụ, cả Heidegger và những
Phật tử
, tin rằng
con người
phải đối mặt với cái chết và
hư vô
trước khi thấy được
sự thật
của
thế gian
và có được
một đời
sống đích thực. Cho nên cũng không bất ngờ khi Thái Kim Lan và những người bạn của bà, những người say mê
chủ nghĩa
hiện sinh
Tây phương
, nghĩ rằng Trịnh Công Sơn đang nói lên những
vấn đề
hiện sinh
. Tuy vậy, có lẽ ông đang
diễn đạt
những
chủ đề
của
Phật giáo
hoặc những
chủ đề
chung của
Phật giáo
và
chủ nghĩa
hiện sinh
thì đúng hơn. Trịnh Công
Sơn đầu
tiên trở nên
nổi tiếng
một phần vì ông
đáp lại
điều được gọi là ,
triết học
Âu châu, và cũng
đáp lại
điều đã có từ
lâu đời
, là
giáo lý
của
Phật giáo
. Thái Kim Lan nói rằng “Trịnh Công Sơn hiểu
Phật giáo
thấu đáo hơn
triết học
Tây phương
, vì anh rất gần gũi với các chùa và các Thầy. Nhưng anh đã
sáng tạo
ra một triết lý hát
hòa hợp
giữa đông và tây.
Tư tưởng
tây phương
ở các
bài hát
Trịnh Công Sơn nằm ở
hình thức
bên ngoài, nhưng cốt tuỷ là đông phưong. Đó là điểm
sáng tạo
độc đáo của Trịnh Công Sơn, đã bắt được nhịp
suy nghĩ
của
thời đại
và của
thế hệ
thanh niên
Việt Nam
.”
Có rất nhiều những điểm tương đồng giữavà, nhưđã thấy. Ví dụ, cả Heidegger và những, tin rằngphải đối mặt với cái chết vàtrước khi thấy đượccủavà có đượcsống đích thực. Cho nên cũng không bất ngờ khi Thái Kim Lan và những người bạn của bà, những người say mê, nghĩ rằng Trịnh Công Sơn đang nói lên những. Tuy vậy, có lẽ ông đangnhữngcủahoặc nhữngchung củavàthì đúng hơn. Trịnh Côngtiên trở nênmột phần vì ôngđiều được gọi làÂu châu, và cũngđiều đã có từ, làcủa. Thái Kim Lan nói rằng “Trịnh Công Sơn hiểuthấu đáo hơn, vì anh rất gần gũi với các chùa và các Thầy. Nhưng anh đãra một triết lý hátgiữa đông và tây.ở cácTrịnh Công Sơn nằm ởbên ngoài, nhưng cốt tuỷ là đông phưong. Đó là điểmđộc đáo của Trịnh Công Sơn, đã bắt được nhịpcủavà củathanh niên.” [59]
lý do
lớn lao khác khiến những
bài hát
của Trịnh Công Sơn
tiếp tục
được yêu thích là vì chúng chuyên chở những
thông điệp
Phật giáo
. Khi Trịnh Công Sơn mới
giới thiệu
những
bài hát
của ông vào cuối những năm 1950, ca từ và
hình ảnh
độc đáo làm chúng
trở thành
một điều mới lạ – khác với những bài nhạc tiền chiến
nhàm chán
.
Tuy nhiên
, những
ý niệm
cổ xưa của
Phật giáo
do Trịnh Công Sơn làm
sống lại
đã được đón nhận như một
biểu lộ
niềm tin
truyền thống
của người Việt. Theo lời Thích
Thiên Ân
, “Ảnh hưởng của
Phật giáo
trong đời
sống của người
Việt Nam
đã
hết sức
sâu xa
nên nhiều khi không được
bộc lộ
.”
diễn đạt
nội tâm
của chính mình. Nghe nhạc Trịnh đối với người Việt cũng giống như đi viếng chùa chiền và nghe các vị sư
tụng kinh
. Các
bài hát
của Trịnh Công Sơn, cũng như những lời kinh nguyện, tuy khó hiểu nhưng chúng có mãnh lực
xoa dịu
những
tâm hồn
phiền muộn
. Và những
bài hát
, như
giáo lý
của Phật dạy, chỉ là “một ngón tay chỉ về cung trăng”, mà như Kinh
Thức tỉnh
đã răn,
con người
không bao giờ nên nhầm lẫn với chính cung trăng.
Giờ đây, “thế hệ trẻ” mà Thái Kim Lan nói đến, không còn trẻ nữa. Nhưng có mộtlớn lao khác khiến nhữngcủa Trịnh Công Sơnđược yêu thích là vì chúng chuyên chở những. Khi Trịnh Công Sơn mớinhữngcủa ông vào cuối những năm 1950, ca từ vàđộc đáo làm chúngmột điều mới lạ – khác với những bài nhạc tiền chiến [60] mà giới trẻ thành thị miền Nam thấy, nhữngcổ xưa củado Trịnh Công Sơn làmđã được đón nhận như mộtcủa người Việt. Theo lời Thích, “Ảnh hưởng củasống của ngườiđãnên nhiều khi không được.” [61] Có lẽ đóng góp lớn nhất của Trịnh Công Sơn là việc ông đã cho người Việt cách để họcủa chính mình. Nghe nhạc Trịnh đối với người Việt cũng giống như đi viếng chùa chiền và nghe các vị sư. Cáccủa Trịnh Công Sơn, cũng như những lời kinh nguyện, tuy khó hiểu nhưng chúng có mãnh lựcnhững. Và những, nhưcủa Phật dạy, chỉ là “một ngón tay chỉ về cung trăng”, mà như Kinhđã răn,không bao giờ nên nhầm lẫn với chính cung trăng.
Phụ lục
A: Danh sách những
bài hát
với ngày tháng được
sáng tác
“Bài ca dành cho những xác người”, 1968
“Bay đi thầm lặng”, 1973
“Bên đời hiu quạnh”, 1970-1971
“Biển nhớ”, 1962
“Cát bụi”, 1965
“Chiều trên quê hương tôi”, 1980
“Có một ngày như thế”, 1995
“Có nghe đời nghiêng”, 1973-1974
“Cỏ xót xa đưa”, 1969
“Còn có bao ngày”, 1969
“Dã tràng ca”, 1962
“Đại bác ru đêm”, 1967
“Để gió cuốn đi”, 1971
“Đêm thấy ta là thác đổ”, 1968
“Đóa hoa vô thường”, 1972
“Đời cho ta thế”, 1973
“Gần như niềm tuyệt vọng”, 1973
“Gia tài của mẹ”, 1965
“Gọi tên bốn mùa”, 1963-1964
“Hát trên những xác người”, 1968
“Hãy cứ vui như mọi ngày”, 1969
“Hãy yêu nhau đi”, 1970
“Lặng lẽ nơi này”, 1987
“Lời buồn thánh”, 1959
“Lời
thiên thu
gọi”, 1972
“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”, 1977
“Một cõi đi về”, 1974
“Ngẫu nhiên”, 1972
“Nhìn những
mùa thu
đi”, 1961
“Như một lời chia tay”, 1991
“Ở trọ”, 1973
“Phôi pha”, 1960
“Phúc âm buồn”, 1965
“Ru em”, 1965
“Rừng xưa đã khép”, 1972
“Tạ ơn”, 1964
“Tiến thoái lưỡng nan”, 2000
“Tình ca người mất trí”, 1967
“Tình nhớ”, 1966
“Tình xót xa vừa”, 1970
“Tình yêu tìm thấy”, 1982
“Tôi ơi đừng tuyệt vọng”, 1992
“Vẫn nhớ cuộc đời”, 1972
“Về nơi cuối trời”
“Vết lăn trầm”, 1963
Phụ lục
B: “Một cõi đi về”
Phụ lục
C: “Như một lời chia tay”
Bản tiếng Việt © 2007 talawas
ưu tư
thành tiếng du ca”, trong cuốn do Trịnh Cung và Nguyễn Quốc Thái
biên tập
(TPHCM:
Văn Nghệ
, 2006), trang 84.[1] Xem “Trịnh Công Sơn, Nơi vùngthành tiếng du ca”, trong cuốndo Trịnh Cung và Nguyễn Quốc Thái(TPHCM:, 2006), trang 84.
[2] Ibid., 85.
Sâm Thương
gởi cho
tác giả
, 26 tháng 12, 2005.[3] Từ email củagởi cho, 26 tháng 12, 2005.
của Bửu Ý, trang 19. Để biết thêm về
vai trò
của Nguyễn Văn Trung trong
thời gian
này, xem bài “Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung” của Nguyễn Trọng Văn trong số 264 (1 tháng 1 năm 1968), 51-61; và bài “20 năm
triết học
Tây phương
ở miền Nam
Việt Nam
1955-1975” của Nguyễn Văn Lục, số 89 (tháng 6 – tháng 7, 2006), 90-119.[4] Xemcủa Bửu Ý, trang 19. Để biết thêm vềcủa Nguyễn Văn Trung trongnày, xem bài “Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung” của Nguyễn Trọng Văn trongsố 264 (1 tháng 1 năm 1968), 51-61; và bài “20 nămở miền Nam1955-1975” của Nguyễn Văn Lục,số 89 (tháng 6 – tháng 7, 2006), 90-119.
giải thoát
con người
trong
Phật Giáo
và
tư tưởng
J.P.Sartre” của Nguyễn Văn Trung, trong (tháng 5, 1958): 35-61.[5] Xem bài “Vấn đềtrongvàJ.P.Sartre” của Nguyễn Văn Trung, trong(tháng 5, 1958): 35-61.
tình cảnh
phi lý
của kẻ lưu đày” của Nguyễn Văn Trung trong tờ 14 (tháng 3, 1960): 7-23.[6] Xem bài “Vài cảm nghĩ vềcủa kẻ lưu đày” của Nguyễn Văn Trung trong tờ14 (tháng 3, 1960): 7-23.
[7] 18 (1960).
18 (1960).
hồi sinh
cơn hôn mê” của Đinh Cường trong cuốn (xem chú thích 42), trang 57-58.[8] Xem bài “Tình bạn,cơn hôn mê” của Đinh Cường trong cuốn(xem chú thích 42), trang 57-58.
của Bửu Ý; trang 25, của Hoàng Phủ Ngọc Tường; trang 32, 45, của Nguyễn Đắc Xuân.[9] Xem trang 19,của Bửu Ý; trang 25,của Hoàng Phủ Ngọc Tường; trang 32, 45,của Nguyễn Đắc Xuân.
của Nguyễn Đắc Xuân, trang 32.[10] Xemcủa Nguyễn Đắc Xuân, trang 32.
[11], Justin O’Brien dịch. (New York: Vintage International, 1955), 55.
, Justin O’Brien dịch. (New York: Vintage International, 1955), 55.
của Nguyễn Đắc Xuân, trang 45-51.[12] Xemcủa Nguyễn Đắc Xuân, trang 45-51.
Sâm Thương
gởi đến cho
tác giả
, ngày 6 tháng 8, 2006.[13] Theo email củagởi đến cho, ngày 6 tháng 8, 2006.
do Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Trọng Tạo và Đoàn Tử Huyến
biên tập
; xem trang 21 trong cuốn của Bửu Ý bài “Tình bạn” của Đinh Cường, trang 54-55, trong cuốndo Trịnh Cung và Nguyễn Quốc Thái (xem chú thích 42)
biên tập
; trang 45 trong cuốn của Nguyễn Đắc Xuân.[14] Xem bài “Nhật ký ở tuổi 30” của Trịnh Công Sơn, trang 164-165, trong cuốndo Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Trọng Tạo và Đoàn Tử Huyến; xem trang 21 trong cuốncủa Bửu Ý bài “Tình bạn” của Đinh Cường, trang 54-55, trong cuốndo Trịnh Cung và Nguyễn Quốc Thái (xem chú thích 42); trang 45 trong cuốncủa Nguyễn Đắc Xuân.
do Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Trọng Tạo và Đoàn Tử Huyến
biên tập
.[15] Xem bài “Nhật ký”, trang 164-165, trong cuốndo Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Trọng Tạo và Đoàn Tử Huyến
(xem chú thích 19).[16] Nguyễn Thanh Ty, một người bạn học với Trịnh Công Sơn ở Qui Nhơn, cũng nói về “Dã tràng ca”, trang 16-17, trong cuốn(xem chú thích 19).
của Nguyễn Đắc Xuân.[17] Xem trang 45 trong cuốncủa Nguyễn Đắc Xuân.
[18] Ibid., 51.
[19] Ibid., 41.
Sâm Thương
gởi cho
tác giả
, ngày 6 tháng 8, 2006.[20] Theo email củagởi cho, ngày 6 tháng 8, 2006.
Sâm Thương
gởi cho
tác giả
, ngày 3 tháng 8, 2006.[21] Theo email củagởi cho, ngày 3 tháng 8, 2006.
của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Trong email gởi cho
tác giả
(ngày 12 tháng 3, 2005), Cao Huy Thuần cũng đã
nhận xét
tương tự
như vậy, ông chỉ ra rằng những
ngôn từ
và
chủ đề
trong bài “Dã tràng ca”
xuất hiện
thường xuyên
trong các
bài hát
sau này.[22] Từ “kho lưu trữ” là của Phan Văn Bình. Ông là nhạc sĩ học cùng với Trịnh Công Sơn tại Trường Sư phạm Qui Nhơn. Xem trang 74,của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Trong email gởi cho(ngày 12 tháng 3, 2005), Cao Huy Thuần cũng đãnhư vậy, ông chỉ ra rằng nhữngvàtrong bài “Dã tràng ca”trong cácsau này.
tình cảnh
phi lý
của kẻ lưu đày”, số 14, trang 7-23.[23] Xem bài “Vài cảm nghĩ vềcủa kẻ lưu đày”,số 14, trang 7-23.
nhấn mạnh
điểm này.[24] Ibid., 20. Trong nguyên tác, câu “Tù đầy chính là Quê nhà” viết bằng chữ nghiêng vì Nguyễn Văn Trung muốnđiểm này.
khi nói đến
biến đổi
trong
niềm tin
của Camus. Trong một
trường hợp
khác, ông dùng lại cấu trúc này cho “le Royaume” [Vương quốc] khi ông dịch tựa đề của tập truyện ngắn của Camus là . Nguyễn Văn Trung là một
trí thức
Công giáo, theo dạy học ở Huế, một thành phố với
đa số
là người
Phật giáo
; có lẽ ông đã tránh dùng những cụm từ mang đậm
ý nghĩa
Thiên Chúa giáo
để
mở rộng
tầm thu hút của những
tư tưởng
Tây phương
mà ông đang
đề xướng
.[25] Không rõ vì sao Nguyễn Văn Trung dùng từkhi nói đếntrongcủa Camus. Trong mộtkhác, ông dùng lại cấu trúc này cho “le Royaume” [Vương quốc] khi ông dịch tựa đề của tập truyện ngắncủa Camus là. Nguyễn Văn Trung là mộtCông giáo, theo dạy học ở Huế, một thành phố vớilà người; có lẽ ông đã tránh dùng những cụm từ mang đậmđểtầm thu hút của nhữngmà ông đang
[26] Xem bài “Vài cảm nghĩ” của Nguyễn Văn Trung, trang 20.
của Hoàng Phủ Ngọc Tường, trang 24.[27] Xemcủa Hoàng Phủ Ngọc Tường, trang 24.
của Bửu Ý, trang 17.[28] Xemcủa Bửu Ý, trang 17.
của Hoàng Phủ Ngọc Tường, trang 24.[29] Xemcủa Hoàng Phủ Ngọc Tường, trang 24.
của Bửu Ý, trang 17.[30] Xemcủa Bửu Ý, trang 17.
của Hoàng Phủ Ngọc Tường, trang 24.[31] Xemcủa Hoàng Phủ Ngọc Tường, trang 24.
xuất hiện
trong tờ số 14 (tháng 3, 1960): trang 41-56.[32] Bản dịch của truyện nàytrong tờsố 14 (tháng 3, 1960): trang 41-56.
[33] Một câu trong bài “Có nghe đời nghiêng.”
Nhất Hạnh
, “Returning Home,” (tháng 3, 2006): trang 59.[34] Thích, “Returning Home,”(tháng 3, 2006): trang 59.
trả lời
phỏng vấn
với Văn Cầm Hải, in lại trong cuốn do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến
biên tập
, trang 210.[35] Bàivới Văn Cầm Hải, in lại trong cuốndo Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến, trang 210.
do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến
biên tập
, trang 202. [36] Xem bài “Để bắt đầu một hồi ức” của Trịnh Công Sơn, trong cuốndo Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến, trang 202.
diễn giải
ở trang 17 trong cuốn của
thiền sư
Thích
Thiên Ân
. Xem thêm phần
giới thiệu
của D.T. Suzuki trong bản
dịch Kinh
Lăng già
, (London” Routledge and Kegan Paul, 1932), xxvii.[37] Đây là lờiở trang 17 trong cuốncủaThích. Xem thêm phầncủa D.T. Suzuki trong bản(London” Routledge and Kegan Paul, 1932), xxvii.
do Lê Minh Quốc
biên tập
.[38] Xem bài “Phải biết sống hết mình” của Trịnh Công Sơn, trang 203,do Lê Minh Quốc
[39] Những bài nhạc tiền chiến, xem thêm chú thích 101.
[40]
Hình ảnh
của kẻ sống đời lang thang,
phiêu bạt
có thể
tìm thấy
trong bài “Bánh xe lãng tử” của Trọng Khương và “Dừng bước giang hồ” của Hoàng Trọng. Xem thêm của Lê Quốc Thắng (TPHCM: Mũi Cà Mau, 2004), 12-13, 82-83. Người đọc cũng
tìm thấy
hình ảnh
này trong các tiểu thuyết. Ví dụ, nhân vật Dũng trong (1935) và (1936) của Nhất Linh.
Tuy nhiên
, những nhân vật này thường
lãng mạn
và
liên quan đến
chính trị nhiều hơn
hình ảnh
kẻ
lưu đày
trong nhạc Trịnh Công Sơn.
của kẻ sống đời lang thang,có thểtrong bài “Bánh xe lãng tử” của Trọng Khương và “Dừng bước giang hồ” của Hoàng Trọng. Xem thêmcủa Lê Quốc Thắng (TPHCM: Mũi Cà Mau, 2004), 12-13, 82-83. Người đọc cũngnày trong các tiểu thuyết. Ví dụ, nhân vật Dũng trong(1935) và(1936) của Nhất Linh., những nhân vật này thườngvàchính trị nhiều hơnkẻtrong nhạc Trịnh Công Sơn.
bài hát
được nhắc đến ở đây, còn có những
bài hát
khác có những mệnh đề “dù”: “Còn có bao ngày,” “Hãy cứ vui như mọi ngày,” và “Vẫn nhớ
cuộc đời
.”[41] Ngoài nhữngđược nhắc đến ở đây, còn có nhữngkhác có những mệnh đề “dù”: “Còn có bao ngày,” “Hãy cứ vui như mọi ngày,” và “Vẫn nhớ.”
(Sài Gòn:
Nhân Bản
, 1972).[42] Xem bài “Thay lời tựa” của Trịnh Công Sơn trong tập(Sài Gòn:, 1972).
[43]
Kiệt tác
của Heiddeger là xuất bản năm 1927. Xem của Joan Stambaugh (Albany: State University of New York Press, 1996).
của Heiddeger làxuất bản năm 1927. Xemcủa Joan Stambaugh (Albany: State University of New York Press, 1996).
tuyệt vọng
,” và “Một cõi đi về.”[44] Theo thứ tự trong bài “Cỏ xót xa đưa,” “Gần như niềm,” và “Một cõi đi về.”
, 33.[45] René Muller,, 33.
của D.T. Suzuki do Bernard Phillips
biên tập
(New York: Dutton, 1962, xvi.[46] Xemcủa D.T. Suzuki do Bernard Phillips(New York: Dutton, 1962, xvi.
do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến
biên tập
.[47] Xem bài “Kiếp sau tôi vẫn là người nghệ sĩ” của Văn Cầm Hải, trang 211,do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến
thiền định
ngay trong những
hoạt động
hằng ngày
, thay vì
ngồi thiền
tịnh, là một phần của
Thiền môn
, và
xuất hiện
từ thế kỷ thứ 8.
Huệ Năng
(638-713), chưởng môn thứ sáu của
Thiền tông
ở
Trung Quốc
, được xem là người
sáng lập
ra
phương pháp
này. Xem của Thích
Thiên Ân
, trang 33-35.[48] Việcngay trong những, thay vìtịnh, là một phần của, vàtừ thế kỷ thứ 8.(638-713), chưởng môn thứ sáu của, được xem là ngườiranày. Xemcủa Thích, trang 33-35.
(xem chú thích 24) do Lê Minh Quốc
biên tập
, trang 203.[49] Xem bài “Phải biết sống” của Trịnh Công Sơn trong cuốn(xem chú thích 24) do Lê Minh Quốc, trang 203.
(New York: New American Library, 1975) của Walter Kaufmann, trang 46.[50] Xem(New York: New American Library, 1975) của Walter Kaufmann, trang 46.
(New York: New American Library, 1975) của Walter Kaufmann, trang 349.[51] Xem(New York: New American Library, 1975) của Walter Kaufmann, trang 349.
của George Rupp (New York: Oxford University Press, 1979), trang 38-39.[52] Xemcủa George Rupp (New York: Oxford University Press, 1979), trang 38-39.
của Thích
Thiên Ân
, trang 84.[53] Xemcủa Thích, trang 84.
của Rupp, trang 39.[54] Xemcủa Rupp, trang 39.
Thiền sư
Thích
Nhất Hạnh
trong cuốn (tháng 3, 2006): trang 52. Ở những bài khác, Thích
Nhất Hạnh
giải thích
rằng
Phật tử
Đại thừa
tin rằng
chúng ta
liên đới
với
vạn vật
. Thích
Nhất Hạnh
cho rằng, không có sự khác biệt giữa
vạn vật
hữu thức
và
vô thức
, như trong câu nhạc
nổi tiếng
trong bài “Diễm xưa” của Trịnh Công Sơn mà
Thiền sư
này đã trích dẫn: “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.” Xem của Thích
Nhất Hạnh
(Berkeley, CA: Parallax Press, 1996), trang 40.[55] Xem bài “This is the Buddhla’s Love,” củaThíchtrong cuốn(tháng 3, 2006): trang 52. Ở những bài khác, Thíchrằngtin rằngvới. Thíchcho rằng, không có sự khác biệt giữavà, như trong câu nhạctrong bài “Diễm xưa” của Trịnh Công Sơn mànày đã trích dẫn: “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.” Xemcủa Thích(Berkeley, CA: Parallax Press, 1996), trang 40.
[56] Ibid., 53.
của Harvey, trang 208.[57] Xemcủa Harvey, trang 208.
ưu tư
thành tiếng du ca,” của Thái Kim Lan trong cuốn do Trịnh Cung và Nguyễn Quốc Thái (xem chú thích 42)
biên tập
, trang 84.[58] Xem bài “Nơi vùngthành tiếng du ca,” của Thái Kim Lan trong cuốndo Trịnh Cung và Nguyễn Quốc Thái (xem chú thích 42), trang 84.
do Thái
Kim Lan gởi cho
tác giả
, ngày 15 tháng 12, 2005.[59] Theo emailKim Lan gởi cho, ngày 15 tháng 12, 2005.
là
thời gian
trước cuộc chiến thứ nhất ở Đông Dương, chống Pháp, nhưng khi nói đến thì khác. Đó là những bài nhạc được
sáng tác
trước hoặc ngay sau cuộc chiến thứ nhất ở Đông Dương.[60] Theo định nghĩa,làtrước cuộc chiến thứ nhất ở Đông Dương, chống Pháp, nhưng khi nói đếnthì khác. Đó là những bài nhạc đượctrước hoặc ngay sau cuộc chiến thứ nhất ở Đông Dương.
của Thích
Thiên Ân
, trang 185.[61] Xemcủa Thích, trang 185.
Nguồn: (Tạp chí Việt Học), số 1, tập 2,
mùa đông
2007, published by The University of California Press
Radio ❋ Yêu là chết trong lòng một chút
Người ta thường nói yêu là chết trong lòng một chút
Mà em lại thấy yêu là trái tim này vỡ vụn ..
Video Editor: Jen Hoang
Program: Photoshop, Sony Vegas
Link ảnh: https://drive.google.com/drive/folders/0B2yILHlg2ssKX2hEX1ZZSWljRzA?usp=sharing
Link dowload Mp3: https://drive.google.com/drive/folders/0B2yILHlg2ssKMjZjWTViU2NIZVU?usp=sharing
Radio ❋ Yêu là chết trong lòng một chút
1. Nếu mai này (Acoustic version)
Sáng tác: Khắc Hưng
Trình bày: Dương Hoàng Yến
Link mp3: http://mp3.zing.vn/baihat/NeuMaiNayAcousticVersionDuongHoangYen/ZW7B9CDO.html
2. Vì em nhớ anh
Sáng tác: Phạm Hải Âu
Trình bày: Nguyễn Ngọc Anh
Link mp3: http://mp3.zing.vn/baihat/ViEmNhoAnhNguyenNgocAnh/ZW6AWO89.html
3. Lời chưa nói (Acoustic)
Sáng tác: Xuân Phương
Trình bày: Nguyễn Ngọc
Link SC: https://soundcloud.com/ngocpencil/loichuanoidemonguyenngoc
4. Cô đơn
Sáng tác: Ái Phương
Trình bày: Kha ft. Hy.
Link SC: https://soundcloud.com/chokopie/codonkhafthy
5. Nghe này ai ơi
Sáng tác \u0026 trình bày: Bùi Công Nam
Link mp3: http://mp3.zing.vn/baihat/NgheNayAiOiBuiCongNam/ZW7FC9OO.html
6. Dù chỉ là
Sáng tác: Khắc Hưng
Trình bày: Dương Hoàng Yến
Link mp3: http://mp3.zing.vn/baihat/DuChiLaDuongHoangYen/ZW78CWB0.html
7. Dù chẳng phải anh
Sáng tác \u0026 Trình bày: Đinh Mạnh Ninh
Link SC: https://soundcloud.com/ninhdinhmanh/duchangphaianh
8. Mình yêu nhau yêu nhau bình yên thôi
Sáng tác: Đinh Hương
Trình bày: Đinh Hương ft. Hà Anh Tuấn
Link mp3: http://mp3.zing.vn/baihat/MinhYeuNhauYeuNhauBinhYenThoiDinhHuongHaAnhTuan/ZW7F6COC.html