Kỹ Năng Sống

Tin nhắn sms tình yêu lãng mạn, ngọt ngào hơn cả sôcôla và hoa hồng

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Is. 5, 1-7; Pl. 4, 6-9; Mt. 21, 33-43
SUY NIỆM LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Lời Chúa: Cv. 1, 12-14; Gl. 4, 4-7; Lc. 1, 26-38
MỤC LỤC
* CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN 5
1. Tá điền chiếm vườn nho – ViKiNi 5
2. Đừng trở thành sát nhân – Huệ Minh 8
3. Hoa trái 14
4. Vườn nho 16
5. Đấng Vô Cùng Tốt Lành 18
6. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 22
7. Sinh hoa lợi – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ. 31
8. Bội thu hay là mất trắng – Thiên Phúc 35
9. Thợ vườn nho 38
10. Đá góc tường – Lm. Trầm Phúc 40
11. Đừng bưng tai bịt mắt – Lm. Inhaxiô Trần Ngà 43
12. Những tá điền khác 46
13. Tá điền và vườn nho 49
14. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 51
15. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang 55
16. Sống bằng tình yêu 59
17. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 62
18. Suy niệm của An Phong 70
19. Tìm kiếm sự khôn ngoan – Lm. Anmai. 72
20. Suy Niệm của Lm. Anthony Trung Thành 77
21. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 81
22. Người thợ làm vườn nho 85
23. Từ vườn nho đến các tá điền: Hãy là chính mình 87
24. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 90
25. Vườn nho của Chúa 96
26. Tôi tớ hay kẻ tiếm quyền? – Achille Degeest. 99
27. Chúa Giêsu vẫn còn hiện diện với chúng ta 101
28. Chăm sóc vườn nho – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 104
29. Có một chủ vườn kia 108
30. Hành động và phản ứng. 111
31. Chăm sóc vườn nho của Chúa 114
32. Chủ vườn nho 120
33. Vườn nho của Chúa 123
34. Làm việc 133
35. Loại bỏ 137
36. Loại bỏ 141
37. Hãy trả tiền thuê của bạn 144
38. Hãy trả tiền thuê của bạn 146
39. Tá điền và vườn nho 148
40. Thất trung – Lm. Giuse Trần Việt Hùng 151
41. Được và mất 156
42. Công trình cứu độ kỳ diệu 158
43. Tá điền vườn nho 161
44. Siêng năng làm việc 164
45. Chúa Giêsu đứng trên mọi quyền lực 168
46. Dụ ngôn những tá điền sát nhân – JKN 173
47. Những sợi dây và những chiếc cầu – Mark Link 179
48. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 184
49. Đón nhận Đức Giêsu: Viên đá góc ban ơn cứu độ 190
50. Suy niệm của Lm Ansgar Phạm Tĩnh 200
51. Sinh lợi cho Chúa – Lm. Luy Phạm Hữu Độ, CRM 204
* LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI 206
1. Sống lời kinh Mân Côi – Huệ Minh 206
2. Nhiệm mầu của lời kinh Mân Côi – Huệ Minh 210
3. Kinh Mân Côi – Lm. JB. Lê Ngọc Dũng 218
4. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang 221
5. Kinh Mân Côi 226
6. Lễ Mẹ Mân Côi (Lc 1,26-38) 228
7. Niềm vui cứu rỗi 231
8. Cùng Mẹ xin vâng – Lm. Anmai 233
9. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc 237
10. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 242
11. Bài ca chiến thắng của người nghèo khó 247
12. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc 252
13. Lễ Đức Mẹ Mân Côi. 257
14. Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Độ 260
15. Suy niệm của Lm. Đaminh Hương Quất 264
16. Xin Vâng 268
17. Suy niệm của Đức Cha GB. Bùi Tuần 271
18. Kinh Mân Côi 275
19. Mẹ Mân Côi – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 278
20. Lá sầu riêng – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền 283
21. Nhớ lời Đức Mẹ nhắn nhủ 286
22. Nhớ Lời Mẹ Dặn – Lm Jos Tạ Duy Tuyền 290
23. Kinh Mân Côi 293
24. Năm đóa hồng xanh dâng Mẹ – AM Trần Bình An 295
25. Năm đóa hồng đỏ dâng Mẹ – AM Trần Bình An 300
26. Năm đóa hồng vàng dâng Mẹ – AM Trần Bình An 304
27. Năm đóa hồng trắng dâng Mẹ – AM Trần Bình An 309
28. Trên con đường về quê – AM Trần Bình An 314
29. Lời kinh gần gũi cuộc sống 316
30. Kinh Mân Côi 325
31. Hiệu quả của Kinh Mân Côi 327
32. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt. 329
33. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 333
34. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng 337
35. Tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời 342
36. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu 345
37. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc 1,26-38) 349
38. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng 353
39. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa 357
40. Mẹ Đầy Ơn Phước – R. Veritas 361
41. Phương thuốc thần diệu 364
42. Kinh Mân Côi và Phúc Âm 368
43. Tôi là nữ tỳ của Chúa 370
44. Chuỗi Mân Côi 373
45. Kính Đức Mẹ Môi Khôi 377
46. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào? 380
47. Suy niệm của Lm. FX. Đào Trung Hiệu 383
48. Cầu nguyện và cải thiện đời sống 388
49. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống 392
50. Kinh Mân Côi và Giáo Hội 399
51. Đức Chúa Ở Cùng Bà 402
52. Tháng Mân Côi: nhớ lời Đức Mẹ nhắn nhủ 405
53. Suy niệm của Trọng Hương 409
54. Thánh Mẫu Mân Côi 413
55. Lễ Mẹ Mân Côi 415
56. Mân Côi: Khỉ cứu mặt trăng 418
57. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 420
58. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 423
59. Mai Khôi: bông hồng đẹp, viên ngọc quí 426
60. Canh tân đời sống, lần chuỗi Mân Côi 430
61. Mưa nắng đời thường 434
62. Kinh mân côi, lời kinh kỳ diệu 438
63. Suy niệm của ĐGM. Bùi Tuần. 443
64. Kinh Mân Côi 448
65. Một phép lạ vĩ đại chưa từng xảy ra! 451

* CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN
1. Tá điền chiếm vườn nho – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Sách các vua Israel kể rằng: Vua Akhab muốn có vườn nho của ông Nabot mà không được vì đó là cơ nghiệp tổ tiên để lại làm gia bảo. Vua hằm hằm, giận dữ, buồn bực bỏ ăn. Vợ vua lập mưu ra lệnh mở lễ đại hội cầu an, mời Nabot chủ sự và đặt hai tên vô loài đối diện Nabot để chúng làm chứng tố cáo Nabot đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua; rồi điệu Nabot ra ném đá cho chết đi. Thế là Akhab đã tịch thu vườn nho Nabot. Nhưng tội giết người cướp của không che được mắt thánh. Tiên tri Elia được Thiên Chúa sai đến báo cho Akhab biết: “Chó sẽ ăn thịt các ngươi bên tường Nabot”. Lòng tham của Akhab không đáy, được voi đòi tiên, Akhab lại đem quân xâm chiếm đất nước Aram. Akhab bị bắn chết, đàn chó đã liếm máu ông, y như Chúa đã phán (1V. 21,1 – 22,38). Tham thực cực thân, ác giả ác báo.
Akhab là một trong muôn ngàn tá điền ở thế gian, mà dụ ngôn tá điền chiếm vườn nho trong Tin mừng hôm nay kể tới.
Chắc hẳn, lúc đầu chủ chưa cho canh tác, các tá điền này rất tử tế, rất khéo nói và hứa hẹn nhiều điều khiến ông chủ tín nhiệm đã trao vườn nho đặc biệt này cho họ canh tác, rồi ông trẩy đi xa. Một vườn nho đã được ông gieo trồng giống tốt, trang bị đủ mọi phương tiện bảo vệ và sản xuất, như tường rào, tháp canh, hầm đạp nho ép rượu. Các tá điền thấy khu vườn tốt quá, lòng tham nổi dậy mạnh mẽ, mắt họ tối lại, âm mưu tìm đủ cách chiếm đoạt vườn nho. Khi thấy chân tay của chủ đến: “Họ đã đánh đứa này, giết đứa kia, ném đá đứa khác”. Chỉ còn đứa con trai duy nhất đến, họ cũng giết luôn để chiếm đoạt gia tài dễ dàng, gọn nhẹ.
Kể câu chuyện này, Đức Giêsu ám chỉ người Do thái, nhất là các kẻ lãnh đạo đã phản phúc. Họ đã được Thiên Chúa chọn làm dân riêng duy trì và canh tác vườn nho đặc sản tươi tốt của Thiên Chúa, như vườn địa đường Chúa ban cho Adam Evà xưa. Isaia đã mô tả vườn nho đó bằng một bài ca về ngọn đồi màu mỡ: “Vườn nho ấy là nhà Israel của Thiên Chúa các đạo binh. Đó là cảnh điền viên vui thú của Người. Người trông nó được minh chính, nhưng nó lại manh tâm; được hưởng nhiều ân sâu, nó lại ai oán” (Is. 5, 1-7). Làm ơn nên oán, cưng chiều quá hóa hư. Tham vọng chiếm công vi tư. Họ chiếm đoạt của Thiên Chúa để một mình làm chủ. Loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài, họ tự do hoành hành, giết các sứ ngôn Thiên Chúa, và một cú chót nữa: giết luôn Con Một duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô. Họ tưởng thế là êm xuôi. Nhưng như Adam Evà thoát khỏi tay toàn năng nhân ái của Thiên Chúa, họ rơi vào cảnh lầm than, tiêu diệt, như Akhab, như Hitler hay cựu Tổng thống Đại Hàn (Chun Doo Hwan, đã bị tòa án xử tử hình ngày 26/08/1996).
Những kẻ cướp sát nhân đã bị tiêu diệt. Thiên Chúa đã lấy lại vườn nho và xây dựng một vườn nho mới xinh đẹp vững mạnh là Hội Thánh trên đá tảng hằng sống là Đức Giêsu Kitô, để sinh hoa kết quả tốt đẹp làm vinh danh Thiên Chúa muôn đời.
Hội Thánh xinh đẹp đầy hoa trái này đang thể hiện sức sống phong phú của mình nơi giáo đoàn Philiphê mà thánh Phaolô hết sức vui mừng cảm tạ: “Tôi cảm tạ Thiên Chúa của tôi, mỗi lần nhớ đến anh em. Tôi luôn vui sướng, mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, vì từ buổi đầu cho đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin mừng” (Phil. 1, 3-5). Họ đã cố gắng sống Tin mừng và rao giảng Tin mừng giữa những người dân ngoại, nên thánh Phaolô có cảm tình đặc biệt và bày tỏ cảm nghĩ của ngài bằng những lời tuyệt vời này: “Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ lời ban sự sống, để tôi được hiên ngang hãnh diện trong ngày Đức Kitô quang lâm” (Phil. 2, 15b-16a). Và trong Bài đọc II, ngài đã chúc Hội thánh Philiphê: “Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở cùng anh chị em” (Phil. 4, 9).
Lạy Chúa, mỗi người chúng con đều là những tá điền canh tác vườn nho của Thiên Chúa; vườn nho đó là thân xác, linh hồn và những tài năng Chúa ban, vườn nho đó là lời Chúa, Thánh lễ và các phép Bí tích ban nguồn ơn cứu độ của Chúa, vườn nho đó là ông bà. cha mẹ, con cháu, vợ chồng, là gia đình, xóm làng, xứ đạo, đất nước và Hội thánh. Xin cho mỗi người chúng con biết cố gắng làm nảy sinh hoa trái tươi sáng như những vì sao chiếu sáng vinh danh Chúa, cho mọi người được hưởng sự vui mừng ơn cứu độ như Hội thánh Philiphê xưa.
Xin cho trần gian không còn hạng tá điền gian tham, sát nhân nữa, để mọi người được sống trong nguồn bình an của Chúa. Amen.

2. Đừng trở thành sát nhân – Huệ Minh
Kính thưa anh chị em
Chúng ta thấy trong cái hành trình đi rao giảng Tin Mừng của mình, Chúa Giêsu rất thích dùng cái dụ ngôn. Chúng ta thấy các ngôn ngữ của dụ ngôn rất là đơn sơ.
Chúa muốn dùng dụ ngôn để cho người nghe dễ hiểu. Có những cái dụ ngôn rất là xúc tích và phong phú cho mọi không gian và thời gian. Và có những cái dụ ngôn Chúa Giêsu đưa ra, chúng ta có nhiều cái suy nghĩ. Bởi vì, nó có nhiều cái góc cạnh và nhiều góc độ khác nhau.
Cái Dụ Ngôn “người tá điền làm vườn nho” hôm nay, nó làm cho con liên tưởng đến cái câu nói mà chúng ta vẫn thường hay nghe:
“Nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý.”, nếu mà dựa vào cái câu nói này mà áp dụng cho cái dụ ngôn này! Thì thực sự ra mà nói, có rất nhiều chuyện để nói trong cái nhìn của người Việt Nam, nhưng mà rồi, nếu mà xét về khía cạnh của linh mục thì như Thánh Phaolô nói: “Chúng tôi là những người quản lý mầu nhiệm thánh”, và rồi Linh mục quản lý cái mầu nhiệm thánh đó như thế nào?
Mới là hợp lòng Chúa, như ý Chúa muốn. Chứ không phải linh mục quản lý mầu nhiệm thánh theo cái kiểu: Buôn thần, bán thánh, hay là thích ai thì cho, hay không thích thì cất lại mầu nhiệm thánh. Cuộc đời của linh mục, chứa đựng, chất chứa mầu nhiệm thánh. Và trao ban cho mỗi người cái mầu nhiệm thánh mà mình được Thiên Chúa ký gửi. Nhưng nếu mà xét như thế cũng chỉ là xét về khía cạnh của linh mục thôi.
Ngày hôm nay, ta không có nhìn Dụ ngôn này dưới góc độ theo kiểu của con người, theo cái kiểu nhìn là: “nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý hay là không có xét theo cái khía cạnh là: “linh mục là người quản lý mầu nhiệm thánh”, nhưng mà ngày hôm nay, chúng ta tập trung và nhìn vào cái khía cạnh quan hệ của tất cả mọi người, với cái dụ ngôn “Người làm vườn nho” này!
Vườn nho này, chính là cuộc đời của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa trao ban cho mỗi người chúng ta mỗi vườn nho. Chúng ta không phải là chủ vườn nho, nhưng chúng ta quản lý cuộc đời của chúng ta cho ông chủ đó chính là Chúa.
Và mỗi người chúng ta phải trả lẽ trước mặt Chúa rằng: “mình sử dụng cái vườn nho này có ích lợi như thế nào? Mang hoa quả về cho chủ mình như thế nào?”. Chứ không phải mình sử dụng vườn nho theo sở thích cá nhân của mình. Hay là chỉ làm thỏa mãn cái tôi của mình, cái dục vọng của mình, cái lòng muốn của mình. Nhưng chúng ta phải vận dụng cuộc đời của chúng ta trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Chúng ta thấy, có vài tôn giáo đi theo chủ nghĩa khủng bố. Gọi là mà nếu: tự thiêu để mà cho người khác chết, lúc đó mình thành hiển thánh.
Có một cái cô hướng dẫn viên du lịch, cô kể về một cái chuyện rằng là ngày thứ Sáu, ngày Sa bát ở bên Itraen, thì dân Hồi giáo sau cái giờ cầu nguyện, cầu nguyện xong thì cứ ra lấy lựu đạn ném, ném chơi vậy thôi! Gọi là thánh chiến, thực hành theo ý của Đấng Ala. Nhưng mà người Kitô hữu chúng ta không được làm những chuyện như vậy. Làm như thế, chúng ta nhớ ở trong Kinh Thánh Cựu Ước vẫn thường nói về chúng ta, về sự sống của con người, về quyền sống của con người.
Mỗi người chúng ta không phải là chủ tể tuyệt đối của sự sống mà Chúa là Chúa Tể. Nếu mà chúng ta làm cho người khác đổ máu, có nghĩa là chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa. Và như thế người Công giáo của chúng ta không có cái chuyện là tự hủy, tự thiêu hay là thậm chí cái chuyện chết êm dịu! Bởi vì Thiên Chúa, mới là Chủ đích thực cuộc đời của mỗi người. Đâu có ai làm chủ đâu, để mình tự quyết định cuộc đời của mình!
Chúng ta, dẫu rằng có khả năng về trí thức, có về sức khỏe, có quyền lực, nhưng mà tất cả đều do bàn tay của Thiên Chúa.
Chúng ta nhớ đến hình ảnh của Philatô, khi mà đối diện với Philatô, Chúa Giêsu nghe Philatô nói nghe ghê quá! Tôi có quyền giết ông, hợm hỉnh, Chúa Giêsu nói: Nếu từ TRÊN không ban ơn cho ông, thì ông không có quyền trên tôi.
Quyền tổng trấn là cái ơn ở trên ban xuống cho ông. Ông chỉ là cái người nắm giữ cái quyền đó thôi. Nhưng ông đã “bé cái lầm”, ông cứ nghĩ rằng mình là cái người có quyền trên Chúa Giêsu. Nhưng mà đích thực Chúa Giêsu mới là người có quyền trên cuộc đời của ông.
Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, có một cái tâm tình rất là dễ thương: “tất cả là hồng ân.” để rồi ngày mỗi ngày trong cuộc đời của thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu diễn tả cái Hồng ân đó qua cái đời sống của mình.
Chắc có lẽ, chúng ta còn nhớ đến một cái cô ca sĩ tài danh Celine Dion, ca sĩ người Canada. Mẹ của cô đã từng tâm sự rằng: Đã hơn một lần cũng đã có ý định phá thai, tức là hủy bỏ đứa con đó trong bụng của bà.
Nhưng rồi, cái quyết định đó không được đưa ra. Chắc có lẽ, từ tiếng nói của lương tâm, và chính vì không có sát hại giọt máu trong lòng mình, để rồi, Dion đã xuất hiện và cô đã hát thật hay, không những hát thật hay mà cô còn làm từ thiện. Cô đã giúp đỡ, chia sẻ cuộc đời của mình cho rất nhiều người. Ngoài giọng ca tiếng hát của cô, một cuộc đời của Celine Dion rất là tuyệt vời, và rất nhiều người nhớ đến cô. Đặc biệt trong cái bài Titanic, trong cái bài hát My heart will go on rất là tuyệt vời! Nếu mà giả sử như cô đã bị hủy hoại, cô không có cống hiến tài năng của mình cho nhân loại.
Không phải một mình cô, mà rất nhiều người chỉ vì một cái sự ích kỷ nhỏ nhoi mà nhiều lần đã can tâm giết đi giọt máu của mình. Mà họ sai lầm, họ không nghĩ rằng: họ chỉ là cái người quản lý, mà chính Chúa mới là có quyền.
Ngày hôm nay, giữa một cái xã hội ích kỷ người ta vẫn sát hại nhau, không chỉ là sát hại nhau bằng súng ống, đạn dược, bằng phá thai nữa! Mà người ta sát hại nhau bằng lời ăn tiếng nói bằng những cái hành động để làm cho người khác chết dần chết mòn và đau khổ.
Và người ta vô cảm, người ta không còn một cái cảm thức về người đồng loại. Người ta bằng mọi giá để giết người đồng loại, và hạ nhục người đồng loại chờ đến mức có thể được.
Nhưng mà họ quên rằng họ mới chỉ là những người quản lý những ơn lành của Chúa ngay cả sức khỏe, ngay cả tài năng chúng ta thấy: nếu như Chúa lấy đi, thì không còn ai có thể làm được gì cả!
Khi nằm xuống buông xuôi bàn tay. Dù rằng, chúng ta có tính toán cỡ nào, chúng ta cũng không thể nào làm được gì khi Chúa đã khép thời gian cuộc đời của chúng ta lại cuộc đời người rất là ngắn ngủi rất là vắng gọi mạnh giỏi chăn là được 80 mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ
Lạy Chúa xin cho chúng con biết đếm tháng ngày cuộc sống, để ngỏ hầu tâm trí được khôn ngoan.
Xin cho mỗi người chúng ta, sau mỗi ngày chúng ta thức giấc, là chúng ta thấy ngày mà chúng ta gần Chúa hơn. Bởi vì, Chúa như cuốn thời gian cuộc đời chúng ta lại. Dù muốn dù không chúng ta cũng không thể nào níu kéo được cuộc sống của chúng ta. Bởi vì, cuộc sống của chúng ta Thiên Chúa đã định đoạt, Thiên Chúa đã định cho mỗi người chúng ta bao nhiêu năm.
Chuyện quan trọng là sống không phải là bao nhiêu năm, mà bao nhiêu năm sống đó! Chúng ta sống như thế nào cho Chúa, chúng ta là người quản lý cái mảnh đất mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta như thế nào?
Chúng ta trao cho Chúa như thế nào chúng ta cũng sẽ được hưởng như thế nếu chúng ta canh tác cái mảnh đất gần nhau của chúng ta tốt thì Thiên Chúa lại yêu thương là Thiên Chúa lại trao cho chúng ta nhiều hơn chúng ta tưởng. Còn nếu như chúng ta phá hủy cái mảnh đất tâm hồn của chúng ta, thì chúng ta phải đón nhận sự trừng phạt của Thiên Chúa.
Lời nguyện của Chúa Nhật 17 Thường Niên rất hay: Lạy Chúa xin ban ơn giúp chúng con, để dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm mà lòng luôn tha thiết tìm kiếm những điều cao quý trên trời. Nhiều lần, nhiều lúc, mải mê với thế sự thăng trầm này! Chúng ta đã quên đi quê hương của chúng ta ở “Trên Trời.” Đích thực, cuộc đời của chúng ta là ở Trên Trời, để chúng ta vun vén cuộc đời của chúng ta.
Điều đáng tiếc là hôm nay, không chỉ chúng ta phá hoại cuộc đời của mỗi người chúng ta, chúng ta còn muốn phá hoại thêm cuộc đời của người khác nữa! bằng: cách ăn, nết ở, của chúng ta.
Nói tới đây, con cảm thấy, ngày hôm nay cái sợ nhất là: người ta đi nói xấu, người ta chà đạp nhau, người ta không dám nhìn nhận cái sự thật của chính đời mình. Và người ta tìm cách đi nói xấu người khác.
Có một cái câu ca dao tục ngữ của người Việt Nam rất hay: Chuồn chuồn chê khỉ rằng hôi! Khỉ nói lại: cả họ mày thơm!
Nhiều khi mình chỉ biết nói xấu người khác, mà thực sự ra mình có tốt hơn ai? Nhiều khi mình muốn hãm hại người khác, để đạt được quyền lợi mình đạt được điều này điều kia!
Nhưng mà soi gương đi! trước mặt Chúa, mình có là gì đâu! để mà rồi mình cứ loại trừ anh chị em đồng loại.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta. Để ngày mỗi ngày, chúng ta biết, canh tác cái mảnh đất mà Chúa ban cho chúng ta thật tốt. Và nên nhớ: sau khi nhắm mắt lìa đời, Chúa sẽ không hỏi: mảnh đất người A, người B người C, nhưng, Chúa hỏi chính cuộc đời của chúng ta.
Thế nhưng, nhiều lần nhiều lúc, chúng ta cứ lăng xăng, lích xích, chúng ta cứ dòm bên này, dòm bên kia, để chúng ta xét đoán mảnh đất của người này, người kia. Trong khi đó mảnh đất của chúng ta ngày một khô cằn, ngày một bị bỏ hoang, bởi chúng ta thờ ơ, chúng ta vô cảm với ngay chính bản thân của chúng ta, chứ đừng nói gì vô cảm với người khác.
Xin cho chúng ta, nhân cơ hội này, nhìn lại cuộc đời của chúng ta. Để chúng ta cân chỉnh cái mặt đất mà Chúa ban cho chúng ta. Để chúng ta sinh nhiều hoa trái, nhiều bông hạt như lòng Chúa mong muốn. Amen.

3. Hoa trái
Câu chuyện những người tá điền nổi loạn chính là diễn tiến của lịch sử cứu độ.
Thực vậy, vườn nho tượng trưng cho Nước Thiên Chúa. Nước ấy khởi đầu được trao cho một số người, nhưng vì sự tráo trở và tàn ác của họ, nên nước ấy đã được cất khỏi họ để trao cho dân tộc khác, biết làm trổ sinh hoa trái.
Trong dòng lịch sử, Thiên Chúa đã chọn cho Ngài một dân riêng, đã giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, dẫn đưa họ vượt qua biển Đỏ ráo chân, nuôi sống họ bằng manna từ trời xuống và sau cùng ký kết với họ một giao ước của tình thương và trung thành, cũng như cho họ được định cư nơi miền đất hứa. Thế nhưng, họ lại luôn bất trung và thất tín, để rồi Thiên Chúa đã phải gởi đến với họ các tiên tri hầu cảnh tỉnh họ. Tuy nhiên các tiên tri này đều bị họ bạc đãi và giết đi. Cuối cùng, Thiên Chúa đã phải gởi chính Con của mình, nhưng Người Con duy nhất ấy cũng đã bị họ giết chết như một tên tội phạm. Bởi đó, Thiên Chúa đã phải loại bỏ dân riêng của Ngài để thiết lập một dân mới, đó là Hội Thánh.
Dụ ngôn của Chúa Giêsu dĩ nhiên là một lời cảnh cáo đối với những người Do Thái đương thời. Đồng thời cũng là một lời cảnh cáo đối với chính người Kitô hữu chúng ta.
Thực vậy, chúng ta đã lãnh nhận Nước Thiên Chúa, chúng ta đã lãnh nhận ơn cứu độ. Thế nhưng, ơn cứu độ ấy đã đem lại những hoa trái nào cho cuộc đời chúng ta? Nho thật hay nho dại? Điều chính trực hay chỉ toàn những sự gian ác?
Điều đã xảy ra với dân Do Thái cũng có thể xảy ra với chúng ta, nếu như chúng ta lặp lại thái độ và nếp sống của họ ngày xưa. Ơn cứu độ được ban nhưng không. Tuy nhiên, nó cũng có thể trở thành hòn đá làm cho chúng ta vấp ngã, trở thành bản án cho chính bản thân chúng ta, khi nó không sinh hoa kết qua theo như lòng mong ước của Thiên Chúa.
Nếu chúng ta không thay đổi nếp sống của chúng ta, thì trong ngày sau hết, chúng ta cũng sẽ bị loại bỏ như dân Do Thái thuở trước, để rồi Nước Thiên Chúa sẽ được ban cho những người khác biết đâm bông và kết trái.

4. Vườn nho
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Qua dụ ngôn những người tá điền nổi loạn chúng ta thấy ông chủ tượng trưng cho Thiên Chúa đã rào giậu và chăm sóc cho vườn nho của mình. Còn những tá điền nổi loạn chính là dân Do Thái, dân tộc đã được Thiên Chúa chọn lựa và trao ban cho muôn vàn hồng ân. Còn các đầy tớ được sai đến là các tiên tri. Nhờ các tiên tri mà Thiên Chúa biểu lộ thánh ý của Ngài cho họ, thế nhưng họ đã đối xử dã man và tàn bạo đối với những người được Thiên Chúa sai đến. Nào là đánh đập, nào là giết đi.
Sau cùng ông chủ đã phải sai phái chính người con trai duy nhất của mình đến với họ, để tỏ cho họ thấy lòng nhân từ thương xót vô biên của Ngài, nhất là sau những biến cố đáng buồn đã xảy ra. Người con duy nhất này là hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô, Đấng đã bị họ giết chết trên thập giá. Cái chết khổ đau này làm cho Ngài liên tưởng tới lời thánh vịnh 118: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường, đó là việc Thiên Chúa đã làm và thực lạ lùng dưới mắt chúng ta. Tảng đá góc tường là nơi câu móc những bức tường của toà nhà, nó nắm giữ một vai trò, một vị trí rất quan trọng.
Cuối cùng Thiên Chúa đã phải bỏ rơi dân Do Thái, để chọn cho mình một dân riêng mới, đó là Giáo Hội, để đem lại cho Ngài nhiều hoa trái.
Câu chuyện trên cũng làm cho chúng ta nhớ tới hinh ảnh vườn nho của tiên tri Isaia. Vườn nho này được chủ hết sức chăm sóc với hy vọng sẽ có được những trái nho đặc biệt, thế nhưng kết quả lại hoàn toàn trái ngược, khiến cho chủ phải nổi giận: Còn việc gì nữa mà Ta đã không làm cho vườn nho của Ta. Ta mong ước có được những trái ngon trái ngọt, vậy tại sao nó chỉ cho toàn những trái chua trái dại?
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng tâm hồn chúng ta chỉ là một cây nho cằn cỗi? Thiên Chúa cũng đã đổ xuống cho chúng ta biết bao nhiêu ơn lành hồn xác, thế mà con người chúng ta vẫn không thể đâm bông kết trái. Có lẽ chúng ta cần phải dừng lại, để hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống, trước khi nó đã quá muộn.
Nếu như chúng ta trung thành phụng sự Chúa, thì chúng ta không có chi phải lo buồn sầu khổ. Trái lại, nếu chúng ta đã có những thái độ và một nếp sống như dân Do Thái ngày xưa, thì chắc hẳn, trong giờ phút sau hết, Thiên Chúa cũng sẽ loại bỏ chúng ta và trao ban Nước Trời cho những người khác là những người biết đâm bông và kết trái.

5. Đấng Vô Cùng Tốt Lành
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Cách hành xử của dân Do Thái cũng phản ánh cách hành xử của mỗi người đối với Thiên Chúa. Biết cách hành xử của dân Do Thái cũng là biết phần nào sự thật về chính con người của mình; biết cách đối xử của Thiên Chúa với dân Do Thái cũng biết Thiên Chúa là ai.
1. Con người bội nghĩa vong ân
Người chủ vườn nho trong sách tiên tri Isaya đã chăm sóc vườn nho chu đáo: làm đất, rào dậu, chọn giống nho quý để trồng. Người chủ hy vọng và chờ đợi rất nhiều nơi vườn nho này, nhưng cây nho được chọn lựa và chăm bón kỹ lưỡng lại cho những quả nho chua. Thiên Chúa đã chờ đợi nhiều nơi dân Do Thái, nhưng dân Do Thái luôn là dân cứng cổ cứng đầu không vâng lời Thiên Chúa; Thiên Chúa cũng chờ đợi nhiều nơi mỗi người, thế nhưng con người lại đã làm những điều xấu xa không như Thiên Chúa kỳ vọng.
Người chủ vườn nho trong dụ ngôn Đức Yêsu kể cho các kỳ lão và tư tế cũng đã chờ đợi nơi vườn nho và những người tá điền rất nhiều. Ông đã làm tường rào bảo vệ vườn nho, đã làm bồn ép nho, và sẵn sàng để thu hoa lợi. Ông trao vườn nho cho những tá điền, và hy vọng những tá điền này sẽ giúp ông thu hoa lợi. Thế nhưng khi mùa đến, ông sai đầy tớ tới để nhận hoa lợi, thì những đầy tớ này lại bị những tá điền hành hạ và làm hại; cuối cùng ông chủ đã sai người con một của ông tới, nhưng những người tá điền thay vì kính trọng con ông chủ, lại giết người con một của ông chủ. Đáng lẽ những người tá điền phải biết ơn ông chủ đã tạo công ăn việc làm cho họ và giúp họ có cơ nghiệp, nhưng thực tế họ lại đối xử tệ bạc và bất công với ông chủ. Những người tá điền được ký thác chăm lo vườn nho dân Do Thái là các tư tế và kỳ lão, nhưng những người này đã dùng vườn nho như sở hữu riêng của họ. Không chỉ dân Do Thái mà cả những người lãnh đạo dân cũng đã bất tuân và chống cưỡng Thiên Chúa.
Con người đã không đáp ứng kỳ vọng của Thiên Chúa về mình, như cây nho được tuyển chọn lại đã sinh nho chua. Những người đại diện Chúa đã không phục vụ Chúa nhưng đã trục lợi nơi những gì Chúa trao cho họ, hơn nữa họ còn giết cả những tôi tớ của Thiên Chúa được sai tới, và ngay cả người Con Một của Ngài. Con người, cả dân chúng lẫn người lãnh đạo, đã không coi trọng Thiên Chúa, tuy dù Thiên Chúa luôn kỳ vọng nơi con người và luôn tin tưởng những người Ngài tuyển chọn.
2. Thiên Chúa kiên nhẫn và tha thứ
Đức Yêsu là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa. Ngài được sai tới với con người để trở thành dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa cho con người, nhưng con người đã đối xử với Ngài như đã từng đối xử với đồng loại. Họ đã ganh ghét khi thấy Ngài trổi trang, đã muốn diệt Ngài khi thấy dân chúng theo Ngài. Tuy con người đối xử với Thiên Chúa như vậy, nhưng Thiên Chúa đã không cư xử với con người theo cách của con người: mắt đền mắt, răng thế răng; trái lại, Ngài luôn lấy tình yêu đối lại với thù hận, lấy tha thứ đối lại với xúc phạm.
Đức Yêsu vẫn yêu thương con người. Khi ở trên thập giá, Ngài vẫn một mực xin Cha “tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết.” Đức Yêsu không thù hận, vẫn yêu thương cho dù người ta không đáp trả tình yêu của Ngài. Biết rằng sẽ bị giết, Ngài vẫn yêu thương và trao ban chính Ngài đặc biệt nơi bí tích Thánh Thể. Ngài hy vọng con người sẽ nhận biết tình yêu của Ngài, và nhận biết tình yêu Thiên Chúa đối với họ. Đức Yêsu là biểu hiện tình yêu của Thiên Chúa cho con người cách tuyệt vời.
Thiên Chúa vẫn yêu thương con người. Trên thập giá, như thể Thiên Chúa Cha chấp nhận để con người hành hạ con mình, như thể Thiên Chúa yêu thương con người hơn yêu thương Con Một Ngài. Thực sự Thiên Chúa Cha yêu thương Con Ngài vô cùng, tuy nhiên qua việc chấp nhận để Con của Ngài bị con người hành hạ đến phải chết trên thập giá cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào. Ngài yêu thương con người như yêu thương Con Duy Nhất của Ngài (Ga.17, 23).
3. Xác tín được yêu
Thiên Chúa là Đấng tuyệt vời, cho dù con người tệ bạc nhưng Ngài vẫn yêu thương, Ngài vẫn làm mọi cách để được lại con người. Ngài không chỉ muốn con người được hạnh phúc ở đời sau, nhưng Ngài muốn con người được bình an hạnh phúc ngay cả ở đời này. Thiên Chúa muốn con người, và đặc biệt là tôi, được an bình và hạnh phúc ngay tự giây phút này.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu ở Philip, khuyên họ đừng lo lắng gì. Nếu cần gì hãy cầu xin Thiên Chúa, và sự bình an của Thiên Chúa sẽ ở cùng họ. Thánh Phaolô là người cảm nghiệm đặc biệt tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Không có gì có thể tách con người khỏi tình yêu Thiên Chúa, cho dù sự sống hay sự chết, hiện tại hay tương lai. Chính Thiên Chúa yêu thương con người, và làm tất cả cho con người; chính vì vậy, con người có thể sống bình an hạnh phúc không phải vì sức riêng của con người nhưng vì Thiên Chúa muốn và Ngài giúp con người được như vậy.
Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương và Thành Tín. Ngài muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. Con người có thể được tất cả trong Ngài. Những điều vượt khả năng con người, những điều con người không đáng được, thì Thiên Chúa vẫn ban cho con người. Con người được bình an và hạnh phúc thật sự khi nhận biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương mình vô cùng. Chính nhờ nhận biết Thiên Chúa, con người không còn lo lắng bất an, vì Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Nếu ai đó được bạn thật yêu mến và giúp đỡ nhưng lại không làm theo điều bạn kỳ vọng, bạn sẽ đối xử thế nào với họ?
2. Theo bạn, tại sao Thiên Chúa lại luôn nhân từ tha thứ cho con người khi họ không làm theo ý của Ngài?
3. Bạn có kinh nghiệm về bị xúc phạm không? Bạn có dễ dàng tha thứ cho người xúc phạm đến bạn không? Xin chia sẻ.
4. Hiện tại bạn có hạnh phúc không? Nếu không, tại sao vậy?

6. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Vườn nho của Chúa (Mt 21,38)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ngày xưa Thiên Chúa đã đặt nguyên tổ chúng ta trong vườn địa đàng, để các ngài “canh tác và giữ vườn”. Ngày nay Thiên Chúa cũng đặt chúng ta trong vườn nho Hội Thánh để chúng ta canh tác và nộp hoa lợi.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa chỉ cho chúng ta biết phải làm gì trong Hội Thánh của Ngài.
II. Gợi ý sám hối
Mặc dù là thành phần của Hội Thánh, nhưng rất ít khi chúng ta góp phần xây dựng Hội Thánh.
Chúng ta lãnh nhận ơn Chúa rất nhiều, nhưng rất ít khi chúng ta làm gì để đáp lại những ơn ấy.
Do tội lỗi đã phạm, chúng ta đã góp phần giết chết Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 5,1-7)
Trong dụ ngôn này, “vườn nho” tượng trưng cho dân Israel.
Thiên Chúa đã yêu thương, chăm sóc dân này rất ân cần chu đáo. Ngài chỉ mong nó sinh ra những trái nho ngon ngọt.
Nhưng trước bao nhiêu tình thương và chăm sóc của Thiên Chúa, dân Israel vẫn bạc tình bạc nghĩa, như một vườn nho chỉ sinh trái dại.
Do đó, cuối cùng Thiên Chúa quyết định bỏ mặc họ cho quân thù dày xéo.
Tất cả những điều được nói bằng lời lẽ dụ ngôn trên đều được thực hiện trong lịch sử Israel.
2. Ðáp ca (Tv 79)
Tv này là một lời nguyện sám hối. Tác giả coi mình là một người dân Israel, biết tội mình là một vườn nho không sinh trái tốt, đáng bị quân thù dày xéo. Nhưng tác giả kêu xin lòng thương xót Chúa, xin Ngài bảo vệ vườn nho yêu quý của Ngài.
Lời cầu xin ấy đã được nhậm lời: Thiên Chúa sẽ sai Con Ngài là Ðức Giêsu đến để phục hồi vườn nho ấy.
3. Tin Mừng (Mt 21,33-34)
Vườn nho mà Ðức Giêsu tái lập là Nước Trời. Những thợ làm vườn nho ban đầu là dân Do Thái, cách riêng là các lãnh tụ tôn giáo Do Thái.
Lẽ ra dân Do Thái phải biết ơn Chúa khi gọi họ vào Nước Trời, và đáp lại họ phải có một cuộc sống tốt, như một phần hoa lợi nộp cho Thiên Chúa là chủ vườn nho. Nhưng chẳng những họ không làm thế, mà còn giết các sự giả của Thiên Chúa, cuối cùng giết luôn Ðức Giêsu Con duy nhất của Thiên Chúa.
Vì thế, Thiên Chúa quyết định trao Nước Trời cho một dân mới là Hội Thánh.
4. Bài đọc II (Pl 4,6-9) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô dạy tín hữu Philipphê bí quyết để được bình an:
Ðừng lo lắng gì hết. Nếu có gì lo lắng thì khi cầu nguyện hãy trình bày hết cho Chúa.
Cứ theo lương tâm mà sống những gì mà mình nghĩ là tốt (chân thật, trong sạch, công chính, thánh thiện, tiếng tốt v.v.)
Thêm vào đó là thực hành những gì họ đã nghe Phaolô dạy và thấy Phaolô làm gương.
IV. Gợi ý giảng
1. Những ngôn sứ của Người Con thừa Tự
Chúa ơi
Lịch sử phải chăng chỉ là một sự tái diễn khôn ngoan
Là tấn thảm kịch được diễn tả lại mãi mãi muôn đời?
Ðây vườn nho của Chúa,
Mảnh đất này Chúa đã trao cho con.
Ðây vườn nho của Chúa,
Lòng, trí con và tự do này
Tất cả đều do Người ban tặng.
Con lại chiếm cho mình mà không biết thẹn;
Và để chiếm trọn gia tài,
Con lại quyết không nhìn Người Con thừa tự,
Dồn Người vào ngục tối sử xanh.
Thế là Chúa đã chết rồi!
Hoan hô con người!
Một mình sở hữu mọi của cải trần gian!
Vạn tuế con người,
Chỉ mình làm chủ kiếp người và lịch sử!
Chúa liền sai bao sứ giả đến
Ðể thu phần hoa lợi của tình yêu,
Ðem chia sẻ, an bình và công lý.
Thế mà tất cả lại bị đánh đập tơi bời,
Hoặc bị tống giam vào nơi ngục thất,
Hoặc bị tù đày hay là bị giết.
Giêrêmia bị ném đá, Isaia bị xé xác tan tành,
Roméro Giám mục bị bắn gục trước bàn thờ,
Cha Popieluko bị đánh nhừ tử và trấn sâu dưới nước,
Thân thể Cha Jarland đạn ghim lỗ chỗ như tổ ong bầu.
Ôi lạy Ðức Kitô!
Sao Người luôn bị ghét bỏ khinh khi,
Bị miệt thị và đóng đinh vào thập giá!
Xin ban cho con tâm hồn hiểu biết
Gương mù này của thập giá tình yêu.
Hiểu biết hơn sự ngoan cố của con người
Không cộng tác làm vườn nho của Chúa;
Xin cho con luôn nghiệm ra rằng:
Mọi viên đá nào bị loại bỏ
Ðều trở nên viên đá góc tường,
Cho thế nhân hưởng nguồn ơn cứu độ.
Ôi lạy Ðức Kitô phục sinh!
Ngài là Con Thừa Tự của Trời, Ðất mới
Xin mở mắt con để con thấy rõ
Qua gian lao của những bậc tôi trung,
Qua cái chết của các ngôn sứ,
Chúa đang thực hiện công trình của Chúa,
Công trình kỳ diệu còn khuất mắt chúng con.
(M. Hubaut, trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 313-315)
2. “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?”
Trong thư gởi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã đặt một câu hỏi rất cơ bản khiến mọi người chúng ta phải suy nghĩ: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” (1 Cr 4,7)
Sự sống: do Chúa trực tiếp ban
Sức khoẻ: cũng thế
trí khôn, một số khả năng: cũng thế
tiền bạc, tài sản: do Chúa ban qua trung gian cha mẹ, thân nhân.

Tóm lại, tất cả đều do Chúa ban. Ta đúng là một vườn nho được Chúa chăm sóc chu đáo ân cần.
Chúa chờ gì nơi ta?
– Chúa muốn ta nhận biết tất cả là bởi Ngài – Thế mà rất thường xuyên chúng ta coi những thứ đó là của riêng của chúng ta. Như thế, chúng ta cũng giống như những tá điền kia muốn chiếm đoạt vườn nho của chủ.
– Chúa cho chúng ta hưởng dùng tất cả những thứ đó, miễn là ta góp lại một phần nhỏ cho Chúa như là phần hoa lợi – Nhưng chúng ta chỉ biết xử dụng tất cả những thứ đó cho riêng mình. Không có phần nào cho tha nhân, không có phần nào cho Hội Thánh, không có phần nào cho xã hội.
3. “Xin cho con biết nhận mà cũng biết cho”
“Xin cho con biết nhận mà cũng biết cho”, một câu hát rất hay. Nó vừa là một lời cầu nguyện mà cũng vừa là một lời nhắc nhở.
“Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” (1 Cr 4,7). Phải, tất cả những gì ta đang có đều là do ta lãnh nhận từ tay Chúa, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhưng không chỉ nhận, ta còn phải biết cho, bởi vì, trên căn bản, ta nhận không phải chỉ cho riêng mình mà còn cho người khác nữa.
Thảm cảnh ngày nay là có nhiều người túng thiếu bên cạnh những người dư thừa, nhiều người kém cỏi bên cạnh những người giỏi giang.
Phải chi những người thừa thải và những người giỏi giang đó ý thức rằng những gì họ nhận lãnh cũng là nhận lãnh cho những người khác, và từ đó họ biết chia sẻ cho những người khác, thì thảm cảnh kia đâu còn.
Nhận lãnh cho nhiều người mà chỉ xử dụng cho riêng mình, đó là gian lận, là trộm cắp, là biển thủ, là tội!
4. Cảm thụ của người bị vô ơn
Bài đọc I hôm nay có một câu than rất chua xót của Chúa: “Nào còn việc gì phải làm cho vườn nho của Ta mà Ta đã không làm!”
Câu chuyện có thực sau đây giúp ta phần nào hiểu được cảm thụ của Chúa:
Hai vợ chồng kia có 4 đứa con và hết mực yêu thương chăm sóc chúng. Dù không giàu có, nhưng vì muốn con cái mình có được tất cả những gì tốt nhất, họ đã làm tất cả những gì họ làm được: ngoài giờ làm việc chính thức ở sở làm, họ còn đi làm thêm vào ngày Chúa nhật và các buổi tối; vay tiền để mua một ngôi nhà rộng rãi để mỗi đứa có một phòng riêng tiện cho việc học; không ngại gởi con vào những trường tốt nhất mặc dù học phí rất cao; không bao giờ dám bỏ tiền đi du lịch, thậm chí không dám đi ăn cơm tiệm và đến các rạp hát để giải trí…
Thế rồi các đứa con dần dần lớn lên, đỗ đạt, lập gia đình, có việc làm tốt. Nhưng cũng dần dần từng đứa từng đứa ra riêng. Ðứa nào cũng chỉ lo cho cuộc sống riêng của gia đình chúng, không hề nhớ đến mẹ cha. Bây giờ hai vợ chồng già sống hiu quạnh trong căn nhà cũ. Họ đã than thở với một người đến thăm:
– Chẳng có việc gì có thể làm cho chúng nó mà chúng tôi đã không làm. Thế mà bây giờ chẳng có việc gì chúng nó phải làm cho chúng tôi mà chúng nó chịu làm!
5. Chuyện minh họa
Ngày xưa có một cô gái bị nhốt trong một cái chai, rất khổ sở. Một hôm có một vị thần tình cờ đi ngang qua, nghe tiếng than của cô: “Thật là khổ sở và nhục nhã phải sống trong cái chai này. Ước gì mình được sống trong một túp lều”. Vị thần động lòng, hóa phép cho cô ra khỏi cái chai và được sống trong một túp lều. Rồi vị thần ra đi. Cô gái mừng quá quên cám ơn vị thần.
Năm sau, vị thần trở lại để xem cô sống ra sao. Cô than: “Thật là khổ sở và nhục nhã phải sống trong cái túp lều này. Ước gì mình được sống trong một biệt thự rộng rãi”. Vị thần động lòng, hóa phép cho cô sống trong một biệt thự. Rồi vị thần ra đi. Cô gái mừng quá quên cám ơn vị thần.
Năm sau nữa, vị thần trở lại để xem cô sống ra sao. Cô than: “Thật là khổ sở và nhục nhã phải sống trong cái biệt thự này. Ước gì mình được làm một công nương có kẻ hầu người hạ”. Vị thần động lòng, hóa phép biến cô thành một công nương. Rồi vị thần ra đi. Cô gái mừng quá quên cám ơn vị thần.
Năm sau nữa, vị thần trở lại để xem cô sống ra sao. Cô than: “Thật là khổ sở và nhục nhã vì chỉ là một công nương. Ước gì mình được trở thành hoàng hậu được thần dân cả nước tôn thờ”. Vị thần bảo cô cứ yên tâm đi ngủ, sáng hôm sau sẽ được như ý. Sáng hôm sau, khi thức dậy, cô gái thấy mình bị nhốt ở trong cái chai như trước!
Chúng ta cũng giống như cô gái này. Nhưng rất may là Thiên Chúa không giống như vị Thần trong câu chuyện.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa đã lấy vườn nho yêu quý của Ngài từ tay dân Do Thái bất trung để trao lại cho Hội Thánh, với hy vọng Hội Thánh sẽ làm cho nó sinh nhiều hoa trái. Trong tâm tình biết ơn Chúa, chúng ta hãy dâng lên Ngài những lời nguyện tha thiết.
1. Hội Thánh là người quản lý Nước Trời / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Ðức Giáo Hoàng, các Ðức Giám mục và các Linh mục / siêng năng trong nhiệm vụ cao cả của mình, để Nước Trời ngày càng mở rộng khắp nơi.
2. Trái đất này cũng là một vườn nho tươi tốt Chúa trao cho loài người khai thác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo các nước / biết khôn ngoan quản lý đất nước mình / hầu cho mọi người dân được an cư lạc nghiệp.
3. Sở dĩ ngày nay còn nhiều người đói nghèo túng thiếu / là vì con người không biết chia sẻ cho nhau / như một hình thức nộp hoa lợi cho Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người dư ăn dư mặc / biết quảng đại chia sớt cho những người túng thiếu.
4. Giáo xứ là một vườn nho nhỏ / trong đó mọi thành phần là những thợ vườn nho / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / tích cực làm cho vườn nho Chúa sinh nhiều trái tốt / và biết nộp hoa lợi cho Chúa bằng những việc lành.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã khiển trách dân Do Thái đã lãnh nhận vườn nho của Chúa nhưng không chịu nộp phần hoa lợi. Hội Thánh chúng con ngày nay cũng đang quản lý vườn nho Chúa và cũng chưa nộp hoa lợi cho đúng mức. Xin Chúa đừng trừng phạt Hội Thánh, nhưng xin giúp mọi thành phần Hội Thánh ý thức thiếu sót của mình để từ nay tích cực hơn trong bổn phận của mình. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
VI. Trong Thánh Lễ
– Kinh Tiền Tụng: nên dùng Kinh Tiền tụng Chúa nhật thường niên VIII, trình bày Hội Thánh là Vườn nho của Chúa.
– Trước kinh Lạy Cha: Kết hợp tâm tình với Ðức Giêsu, Người Con Thừa Tự duy nhất của Chúa Cha, chúng ta hãy dâng lên Chúa Cha lời kinh chính Chúa Giêsu đã dạy.
VII. Giải tán
Công việc hằng ngày của chúng ta chính là làm vườn nho cho Chúa. Chúng ta hãy nhớ nộp hoa lợi cho Ngài bằng những đóng góp cho Hội Thánh và xã hội, cũng như bằng những chia xẻ cho những anh chị em còn túng thiếu.

7. Sinh hoa lợi – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy Niệm
Hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe dụ ngôn những tá điền.
Những tá điền này được chủ nhà cho canh tác vườn nho của mình,
để đến mùa hái nho họ giao lại cho ông hoa lợi.
Đây là một vườn nho được ông chủ quan tâm săn sóc.
Ông đã trồng, đã rào giậu, khoét bồn đạp nho và xây tháp canh.
Tiếc thay, khi ông chủ sai các đầy tớ đến để thu hoa lợi
các tá điền chẳng những không nộp, mà còn hành hạ họ và giết đi (c. 35).
Nhóm đầy tớ thứ hai cũng chịu chung số phận (c. 36).
Nhưng ông chủ vẫn không thất vọng trước sự độc ác của các tá điền.
Sau cùng, ông đã sai chính con trai mình đến với họ.
Đứa con thừa tự cũng chẳng được nể vì, bị lôi ra khỏi vườn nho và giết đi.
Khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu muốn nói mình chính là người con ấy,
người Con của ông chủ vườn nho là Thiên Chúa.
Ngài tiên báo về cái chết sắp đến của mình
bởi tay những tá điền sát nhân là các nhà lãnh đạo Do thái giáo đương thời.
Cái chết của Đức Giêsu nằm trong chuỗi những cái chết của các ngôn sứ
là các đầy tớ đã được Thiên Chúa sai đến với dân Israel trong dòng lịch sử.
Tuy nhiên, cái chết ấy đặc biệt cao quý vì là cái chết của chính Người Con.
Hơn thế nữa, cái chết ấy không phải là một dấu chấm hết.
Nó là cánh cửa mở ra một trang mới của lịch sử,
không phải chỉ là lịch sử của dân tộc Israel, mà còn của cả nhân loại.
“Viên đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên viên đá đầu góc.
Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (c. 42).
Giáo Hội sơ khai thích dùng trích dẫn trên đây của thánh vịnh 118, 22
để nói về việc Đức Giêsu bị loại trừ và được tôn vinh (x. Cv 4,11; 1Pr 2,7).
Bị loại bỏ là việc độc ác của con người,
còn trở nên viên đá góc là việc làm kỳ diệu của Thiên Chúa.
“Thu hoa lợi”, “nộp hoa lợi”, “sinh hoa lợi” (cc. 34, 41, 43).
Hoa lợi là điều mà ông chủ nhắm tới khi ông đầu tư cho vườn nho.
Ông đã không thu được hoa lợi gì từ những tá điền độc ác,
bởi đó ông đã lấy vườn nho lại, cho người khác làm để lấy hoa lợi.
Vườn nho bây giờ được hiểu là Nước Thiên Chúa.
Nước này không còn nằm trong tay giới lãnh đạo dân Do Thái nữa,
nhưng được trao cho một dân biết sinh hoa lợi (c. 43).
Dân mới ấy chính là Giáo Hội phổ quát,
trong đó gồm cả dân ngoại và những người Do Thái tin Đức Giêsu.
Chúng ta thuộc về Giáo Hội, thuộc về đoàn dân mới.
Chúng ta hãnh diện vì được trao phó vườn nho là Nước Thiên Chúa,
và lo lắng trước trách nhiệm phải sinh hoa lợi cho xứng ở đời này.
Làm thế nào để Giáo Hội nộp hoa lợi đúng mùa cho Chủ?
Làm thế nào để chúng ta không rơi vào tội của các tá điền đi trước?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
con thường thấy mình không có thì giờ,
nhưng đồng thời cũng thấy mình
lãng phí bao thời gian quý báu.
Nhiều khi con tự hỏi
mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.
Xin cho con biết quý trọng từng giây phút
đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.
Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian,
để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa.
Xin cho con luôn làm việc như Chúa:
hăng say, tận tụy và vui tươi,
vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.
Vì quá khứ thì đã qua,
và tương lai thì chưa đến,
nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại.
Xin cho con thấy Chúa
lúc này đang ở đây bên con,
và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài
bằng những hành động cụ thể.
Con xin hiến dâng Chúa giây phút này
như một hy lễ,
với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.
Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại
để hiện tại đưa con vào vinh cửu của Chúa. Amen.

8. Bội thu hay là mất trắng – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Chuyện ngụ ngôn “Lừa và Sói” kể rằng: Một hôm, lừa đang gặm cỏ, bỗng thấy sói phi nước đại phóng tới. Lừa giả bộ đi khập khiễng. Khi sói đến gần, hỏi nó vì sao bị thọt chân, thì lừa trả lời:
– Vừa nãy tôi nhảy qua hàng rào bị xóc gai.
Rồi lừa đề nghị sói trước khi ăn thịt mình hãy nhổ gai ra đã, để khỏi bị gai đâm.
Sói tin lời, lừa giơ cao chân để sối soi mói kỹ lưỡng các móng chân lừa. Lừa thừa cơ đạp mạnh vào mõm sói rồi bỏ chạy.
Sói bị gẫy hết răng ôm đầu kêu la.
– Đáng đời ta! Cha mẹ nuôi ta thành kẻ chuyên ăn thịt, chứ đâu dạy ta làm thầy lang!
***
Nếu chuyện ngụ ngôn nào cũng cho chúng ta một bài học, thì chuyện ngụ ngôn “lừa và sói” muốn nói với chúng ta: kẻ nào không làm đúng công việc của mình sẽ lãnh hậu quả bi thảm.
Tin mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn “Những người thợ làm vườn nho”. Mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa giao phó cho một vườn nho, là những tài năng tinh thần, của cải vật chất, để chúng ta đem hoa lưọi về cho Người. Thiên Chúa còn tôn trọng chúng ta, Người để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc, theo sáng kiến riêng của mỗi người. Thánh Matheu viết: “Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa” (Mt 21,33). Người không ở đó để kiểm soát, canh chừng.
Khốn thay, có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông. Những tá điền ấy đã ngược đãi và sát hại các đầy tớ mà chủ sai đến. Thậm chí, đến lần thứ ba chúng giết luôn cả con trai ông. Họ làm như thế là để chiếm lấy gia tài của chủ. Hậu quả là: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông” (Mt 21,41).
Thiên Chúa ban muôn hồng ân, là để chúng ta phục vụ Chúa và an hem, chứ không phải để chúng ta tìm tư lợi, danh vọng, và khoái lạc cho bản thân.
Thiên Chúa kiên nhẫn trước những xúc phạm, lầm lỗi của chúng ta, là để chúng ta có cơ hội hoán cải, chứ không phải để chúng ta ngày càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên Chúa trao phó cho chúng ta các tài năng là để chúng ta sinh lợi cho phần rỗi mình. Nếu chúng ta không biết sử dụng ơn lành Chúa ban, thì người sẽ cất đi và tao cho kẻ khác. Nỗi bất hạnh ấy chỉ mình ta gánh chịu mà thôi!
Sẽ đến ngày chúng ta phải tường trình về công việc “vườn nho” mà Chúa đã trao phó. Sẽ đến ngày chúng ta phải dâng lên Chúa những thu hoạch “hoa lợi” mà Người trông đợi. Bội thu hay mất trắng là hoàn toàn do công việc chúng ta đang làm hôm nay. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “chúng ta chịu trách nhiệm về những điều chúng ta đã làm, đã không làm, hay đã cản trở không cho người khác làm”.
***
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã trao cho chúng con làm công việc của Chúa, xin cho chúng con luôn biết mau mắn chu toàn.
Nếu Chúa gởi đến cho chúng con những ơn lành hồn xác, xin Chúa dạy chúng con biết sử dụng trong tinh thần biết ơn, và liên đới với an hem trong tinh thần chia sẻ, vì đó là con đang làm theo ý Chúa. Amen.

9. Thợ vườn nho
Dụ ngôn những thợ vườn nho phản loạn thuộc vào loại các dụ ngôn Chúa dùng để tỏ lộ thân thế của Ngài là Đấng Thiên Sai. Dụ ngôn này cũng cho thấy sự cô đơn bi thảm của Chúa Giêsu, khi bị dân Ngài loại bỏ.
Như thường lệ Chúa Giêsu cấu tạo dụ ngôn từ các thực tại mà Ngài nghe thấy trước mắt. Trong xứ Galilêa thời ấy, những điền chủ bỏ tiền vào việc trồng nho. Họ giao cho thợ làm vườn nho trông coi rồi trả lương. Đôi khi họ đi vắng xa, chẳng hạn như ra nước ngoài, và để quan lý mùa màng, họ sai những đầy tớ đến với những người thợ làm vườn. Theo luật Do Thái, nếu chủ một thửa đất chết đi mà không có người thừa kế, thì thửa đất ấy sẽ thuộc về người nào chiếm ngụ đầu tiên. Điều này làm cho chúng ta hiểu được lý luận của các thợ làm vườn nho: Đứa con thừa tự đây rồi, nào hãy giết nó đi và chúng ta sẽ chiếm được gia tài của nó. Quả thực, người con thừa tự mà chết, đất sẽ thành vô chủ và thuộc quyền những kẻ cư ngụ.
Qua dụ ngôn này và qua đoạn kế tiếp với hình ảnh viên đá góc bị thợ xây loại bỏ, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng: Chính Ngài là người con bị bọn thợ làm vườn nho giết đi, chính Ngài là viên đá góc bị thợ xây loại bỏ.
Một cách quyết liệt, dụ ngôn đã đưa ra câu hỏi sau đây: Làm sao giới hữu trách của dân Do Thái lại đi tới chỗ loại bỏ Đấng thiên sai? Tôi xin thưa vì họ đã buông thả theo bản năng chiếm hữu của họ. Chủ vườn nho là Thiên Chúa, thủ lãnh duy nhất của họ. Thế nhưng tinh thần chiếm hữu của họ hệ tại việc áp đặt quan niệm riêng của họ về lề luật. Họ dùng lề luật để thống trị dân, họ còn có cao vọng dùng dân tộc của họ để lên ngôi thống trị thế giới. Các vị tiên tri đã đến để nhắn nhủ họ, nhưng tất cả đều bị họ giết chết, và sau cùng họ đã đi tới chỗ loại bỏ Đấng Thiên Sai, Con Một của Thiên Chúa. Thay vì phục vụ cho lề luật và dân chúng thì họ đã chiếm hữu, coi mình là chủ của lề luật và của dân chúng.
Còn chúng ta thì sao, liệu chúng ta có thoát khỏi thái độ tự coi là người làm chủ của Tin Mừng, của chân lý hay không? Làm thế nào để phục vụ Phúc Âm mà không chiếm hữu? Tôi xin thưa bằng cách để cho tinh thần Phúc Âm thấm nhập vài cải tạo chúng ta, chứ chúng ta không đọc Phúc Âm, rồi sau đó ngồi sắp xếp Phúc Âm theo ý riêng của chúng ta. Ngày xưa các thầy thông luật đã lèo lái niềm trông đợi của dân chúng tới những ước vọng thống trị trần gian. Ngày nay cũng không thiếu gì những người muốn lợi dụng Phúc Âm để quảng cáo cho một hệ thống chính trị hay một quan niệm xã hội. Chúng ta không có quyền sử dụng và dùng Phúc Âm vào một mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu đi đến Đức Kitô. Nhiều người muốn chiếm hữu Phúc Âm để mưu cầu lợi ích riêng tư, để rồi cuối cùng đã đi đến chỗ phủ nhận con người Đức Kitô. Tin Mừng mời gọi chúng ta xây dựng cuộc sống trên viên đá góc là Đức Kitô, Đấng chúng ta tìm kiếm và yêu mến, chứ không nên lèo lái Ngài và Tin Mừng của Ngài vào những ý đồ riêng tư của mình.

10. Đá góc tường – Lm. Trầm Phúc
Dụ ngôn “Vườn Nho Bị Chiếm Đoạt” chúng ta vừa nghe chứng tỏ cường độ chống đối Chúa Giêsu của nhóm Pha-ri-sêu đã lên đến cao trào, và Chúa Giêsu tỏ ra hết sức khẳng khái. Ngài không né tránh, ngược lại, Ngài đương đầu.
Ngài kể dụ ngôn này cho nhóm Pha-ri-sêu và Ngài hỏi: “Anh em nghĩ Đức Vua sẽ làm gì với những người tá điền sát nhân đó?” Họ trả lời: “Đức Vua sẽ tiêu diệt họ và cho người khác canh tác vườn nho”.
Họ rơi vào bẫy của Chúa Giêsu. Ngài thẳng thắn nói ngay vào mặt họ, những khuôn mặt đã chai lì trong sự chối từ của họ: “Tôi nói cho mấy ông biết, Nước Thiên Chúa, Thiên chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa mà trao cho một dân khác biết làm cho Nước ấy trổ sinh hoa lợi”. Chúng ta có thể hiểu rằng, chính nhóm Pha-ri-sêu là những kẻ sát nhân đó. Họ tưởng rằng giết người con của ông chủ, thì họ sẽ chiếm đoạt được vườn nho. Nhưng không dễ dàng như thế đâu! Vua sẽ lấy lại vườn nho và cho những người khác biết khai thác để sinh hoa lợi.
Với dụ ngôn này, Chúa Giêsu nhắc đến những tiên tri đã bị dân Do Thái giết hại, đồng thời cũng tiên báo về cái chết của Ngài. Ngài sẽ bị giết, vì chính Ngài là Người Con của Chúa Cha sai đến để thu hoa lợi.
Ai là những kẻ được canh tác vườn nho, nếu chẳng phải là chúng ta? Chúng ta là “dân mới” của Chúa, đã được chọn “trong Đức Ki-tô và đã được tiền định làm nghĩa tử, tiền định làm cơ nghiệp riêng, theo kế hoạch của Người” (Ê-phê-sô 1,1…). Chúng ta hãy vui mừng cảm tạ Chúa, vì chúng ta được thừa kế gia nghiệp mà Chúa Cha đã định từ trước, đã ban cho chúng ta.
Đón nhận gia sản của Chúa, chúng ta có nhiệm vụ làm trổ sinh hoa trái cho Cha trên trời. Chúng ta đã làm gì? Và chúng ta đã làm được gì?
Chúa trao cho nhân loại vườn nho của Ngài, vườn nho đã được Ngài chu đáo tạo mọi điều kiện để trổ sinh hoa lợi: Ngài đã rào giậu, xây bồn đạp nho, xây cả tháp canh… Ngài cho nhân loại canh tác, nhưng thay vì nộp hoa lợi cho chủ, chúng ta lại muốn chiếm đoạt cả vườn nho. Tất cả phải quy về Chúa, là nguồn gốc và là chủ mọi sự, chúng ta lại tự tiện sử dụng cho riêng mình, không nghĩ đến Chúa.
Chúng ta tưởng rằng chỉ có dân Do thái mới giết Chúa, còn chúng ta thì tốt. Nhưng không, chúng ta cũng phản bội, tiếp sức cho những người vô đạo, ủng hộ những hành động bạo lực, vô luân của thế gian. Nhiều người trong chúng ta đã sống như thánh Phao-lô đã nói: “như kẻ thù của thập giá”; chúng ta tôn thờ thân xác và nhục dục, chạy theo tiền của, chà đạp lương tâm. Phải chăng chúng ta cũng là những tá điền sát nhân?
Chúng ta đang ở vào một thời điểm quan trọng của một thời mới. Thời con người tiến bộ về khoa học, và muốn chiếm đoạt vương quyền của Thiên Chúa. Con người của thế kỷ hai mươi mốt này, đa số muốn loại trừ Thiên Chúa, làm như Thiên Chúa cản bước tiến của họ. Họ muốn trở thành “siêu nhân” và muốn giết chết Thiên Chúa. Người chủ trương mạnh mẽ nhất là một triết gia người Đức, Ông Frederic Nietzsche. Ông đã tuyên bố: “Thiên Chúa đã chết rồi!” Lạ thay! Thiên chúa vẫn sống, còn ông đã gởi thân vào ba tấc đất và chỉ còn là một bộ xương. Ảnh hưởng của phong trào này vẫn còn là một thách thức đối với chúng ta là những người tin Chúa.
Nói thế không phải để chúng ta bi quan, ngược lại chúng ta phải dấn thân hơn, làm sao cho vườn nho của Chúa sinh hoa kết quả dồi dào hơn. Đây chính là một thách thức. Thời nào Giáo Hội cũng gặp những thách thức tương tự. Sau cùng, Giáo Hội vẫn sống, vì tin vào “tảng đá thợ xây loại bỏ, đã trở nên tảng đá góc tường”.
Chúng ta vẫn tin, mặc dù phải chạm trán với mọi trở lực.
“Anh em đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”.
Ngài vẫn là Con Đường duy nhất dẫn chúng ta xuyên qua mọi thử thách, đưa chúng ta vào một dấn thân mới, thích hợp với hoàn cảnh xã hội hôm nay.
Ngài là Sự Thật, soi sáng bước đi yếu ớt của chúng ta.
Ngài là Sự Sống, chúng ta sống trong Ngài ngay trong hiện tại đầy bóng tối này. Niềm vui của Ngài sẽ tràn ngập tâm hồn những ai dám tin vào Ngài. Khuôn mặt bầm giập của Ngài trên thập giá sẽ trở nên khuôn mặt đáng yêu nhất trong trần gian này.
Đứa Con duy nhất của chủ vườn nho đã bị giết, nhưng nhờ đó, vườn nho được trao vào tay chúng ta. Và Đứa Con bị giết đó đã sống lại và vẫn sống. Ngài sống lại để nhập cuộc với chúng ta trong cuộc chiến cam go này cho sự thật, cho tình thương và cho hạnh phúc bất diệt.
Ngài nhập cuộc bằng một tấm bánh ban sự sống. Ngài sẽ vào trong mỗi người chúng ta, giúp chúng ta không nản chí khi thấy những cố gắng của chúng ta chỉ như giọt nước rơi vào đại dương của thế gian. Ngài mãi mãi là niềm hy vọng không bao giờ tàn lụi cho nhân loại, và chính chúng ta là hoa quả của vườn nho mênh mông của Chúa.

11. Đừng bưng tai bịt mắt – Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Để cảnh giác nhiều người Do-thái xưa nay không muốn nghe lời Thiên Chúa, cũng chẳng tiếp nhận và thậm chí còn bách hại các ngôn sứ Chúa gửi đến rao giảng cho họ, Chúa Giê-su kể dụ ngôn sau đây:
“Có gia chủ kia trồng được một vườn nho… Ông trao cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi.”
Gia chủ trong câu chuyện này ám chỉ Thiên Chúa; vườn nho tượng trưng cho dân Do-thái là dân được Chúa chọn; bọn tá điền là các cấp lãnh đạo Do-thái; còn các tôi tớ tượng trưng cho các ngôn sứ Chúa sai đến để chỉ dạy cho dân trung thành với Thiên Chúa, đừng chạy theo tà thần.
Thế rồi các thủ lãnh của người Do-thái đã đối xử thế nào với các vị ngôn sứ này?
Không những họ bác bỏ lời dạy của các ngài, mà còn ra tay bách hại các ngài.
Chúa Giê-su nói về họ như sau: “Bọn tá điền bắt các đầy tớ của ông chủ: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy.”
Trước sự việc đó, chủ vườn là Thiên Chúa đã sai chính người Con yêu quý của mình đến với họ, may ra họ sẽ kiêng nể Ngài mà đón nhận và vâng nghe. Thế nhưng số phận người Con này lại càng bi đát hơn. Chúa Giê-su nói về họ như sau:
“Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó! ” Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi.”
Qua dụ ngôn này, Chúa Giê-su lên án 2 thế hệ:
– Một là lên án nhiều người Do-thái thời cựu ước đã không đón nhận lời các ngôn sứ là những sứ giả Chúa gửi đến để chỉ dạy cho họ biết làm lành, lánh ác; đã thế, họ còn bách hại các vị ngôn sứ này.
– Hai là lên án những người Do-thái thời Chúa Giê-su đã gác bỏ ngoài tai lời Ngài rao giảng, lại còn ra tay giết hại Ngài.
Hôm nay, kịch bản đau lòng đó vẫn đang tiếp diễn giữa chúng ta.
Cũng như người Do-thái xưa, hiện nay vẫn còn rất nhiều người bịt tai lại trước lời Chúa, nhắm mắt không nhìn nhận những kỳ công Chúa làm trong vũ trụ.
Vì thế, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đừng bịt mắt trước ánh sáng của Chúa, đừng bưng tai để gạt bỏ lời Chúa ra ngoài như những người Do-thái xưa.
1. Đừng bịt mắt để khỏi thấy ánh sáng Chúa
Một thuyền trưởng đang lái tàu giữa đại dương mênh mông trong đêm tối mịt mù, không còn nhìn ra phương hướng, lại gặp cơn bão lớn đang ào ào xông tới, mà cứ chủ quan xem thường, không thèm hướng nhìn về ánh sáng của ngọn hải đăng từ xa để đưa thuyền vào bến cách an toàn, nên thuyền của ông đã bị nhận chìm dưới đáy biển.
Tương tự như thế, Lời Chúa cũng như ngọn hải đăng soi đường, dẫn lối cho chúng ta đi đúng đường đúng hướng, giúp vượt qua biển đời tăm tối đầy sóng gió gian nguy.
Nếu chúng ta nhắm mắt làm ngơ trước những tia sáng do Chúa Thánh Thần chiếu dọi vào tâm hồn qua những trang Tin mừng, qua lời các ngôn sứ, thì chúng ta cũng sẽ lâm nạn như viên thuyền trưởng ngoan cố trên đây.
2. Đừng bịt tai để khỏi nghe lời Chúa
Nhiều tài xế lái xe băng qua điểm giao cắt giữa đường bộ và đường sắt không rào chắn, đang khi hai tai họ bị bít kín vì đang sử dụng tai nghe nhạc (phone) nên không nghe tiếng còi cảnh báo của đoàn tàu đang lao tới. Thế là các anh đã lao vào cái chết thảm khốc.
Tương tự như thế, nếu đôi tai của ta bị bít kín trước những lời giáo huấn của Tin mừng, của các ngôn sứ Chúa gửi đến, hoặc để cho những lời đường mật chứa đầy nọc độc của thế gian ru ngủ tâm hồn và lấn át tiếng lương tâm, thì thảm hoạ tinh thần sẽ chụp xuống bất cứ lúc nào.
Lạy Chúa Giê-su,
Thật là điên rồ khi lái tàu giữa biển khơi trong đêm tối, gặp bão tố cuồng phong ào ào xông tới mà không hướng nhìn về ngọn hải đăng chiếu dọi để đưa con tàu về bến an toàn.
Thật là dại khờ khi lái xe qua những điểm giao cắt với đường sắt mà đôi tai còn bị bít kín bởi tai nghe nhạc (phone).
Và cũng thật là rồ dại nếu chúng con bưng tai trước những lời vàng của Chúa và bịt mắt lại trước ánh sáng của Tin mừng.
Xin cho chúng con luôn mở mắt đón nhận ánh sáng của Chúa Thánh Thần soi dẫn và mở tai để lắng nghe lời hằng sống Chúa truyền dạy chúng con, nhờ đó, chúng con sẽ luôn được an toàn và hạnh phúc trong Chúa.

12. Những tá điền khác
(Suy niệm của Barbara E. Reid – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Ông chủ sẽ trao vườn nho cho những tá điền khác.” (Mt 21,41)
Những tá điền khác: Họ là ai?
Năm năm trước đây, tại một số quốc gia vùng Ả rập, nhiều cuộc bạo loạn xảy ra, để biểu thị quyền lực hoặc để lật đổ chế độ. Một vài nơi đã thành công trong việc xóa bỏ chính quyền cũ và thành lập chính phủ mới. Một số cuộc cách mạng kết thúc khá ôn hòa, nhưng nhiều nơi những cuộc lật đổ gây nhiều đổ máu và tang tóc. Các biến cố này có nhiều nét tương đồng so với bối cảnh của dụ ngôn được Tin Mừng hôm nay thuật lại. Dụ ngôn đề cập đến cuộc lật đổ của các tá điền đối với ông chủ vườn nho.
Quá bức xúc vì mình không có đất đai để canh tác cũng chẳng có quyền hành gì, những tá điền đã nổi loạn chống lại những sứ giả ông chủ sai tới. Họ còn giết cả đứa con của ông chủ, người có quyền thừa tự, để mong tiếm quyền sở hữu vườn nho về cho mình. Câu 40 trong dụ ngôn đưa ra một câu hỏi khá hóc búa “Trước tình thế đó, ông chủ sẽ xử trí ra sao?”. Câu trả lời, là ông sẽ ra lệnh trừng phạt họ một cách nghiêm khắc. Bạo lực sẽ phải trả giá bằng bạo lực, có khi còn dữ dội hơn. Các tá điền chắc chắn sẽ bị tru diệt một cách không thương tiếc. Chúng ta có thể đọc dụ ngôn này theo một góc nhìn khác, nếu nhìn vào sự vô vọng nơi các tá điền khi họ muốn lật đổ ông chủ, và đòi quyền sở hữu vườn nho dành cho mình.
Theo cái nhìn truyền thống khi đọc dụ ngôn này, chúng ta có những hình ảnh và tình tiết mang tính biểu trưng để so chiếu. Vườn nho biểu thị cho dân Israel, các tá điền là những lãnh đạo tôn giáo thời Chúa Giêsu, ông chủ vườn là chính Thiên Chúa, các sứ giả mà ông chủ sai tới là các ngôn sứ trong cựu ước, và người con của ông chủ chính là Đức Giêsu. Dụ ngôn mà ngôn sứ Isaia nói tới, như được trình thuật trong bài đọc thứ nhất cũng có nhiều nét ẩn dụ tương đồng như vậy. Tuy nhiên, phần kết nơi hai dụ ngôn thì hoàn toàn khác nhau. Trong trình thuật của Isaia, ông chủ vườn nho thất vọng vì vườn nho không sinh hoa trái, và ông đã ra lệnh hủy diệt vườn nho.
Nơi dụ ngôn của Đức Giêsu, vườn nho không bị tiêu hủy, nhưng được trao phó cho những người quản lý mới. Trong cả hai dụ ngôn, điểm quy chiếu là vườn nho cần phải được chăm sóc để cho trái trăng, và những tá điền đương thời đã không làm được điều này. Một điểm nhấn khác, là nếu dụ ngôn phác vẽ một hình ảnh biểu trưng về lịch sử cứu độ, thì “Người Con” được ông chủ gửi tới, là chính Đức Giêsu đấng Messia. Đây là quà tặng lớn nhất mà Thiên Chúa tặng ban, là chính Đấng mà nhân loại vẫn luôn ngong ngóng đợi chờ. Món quà đó không thể bị tước mất khỏi tay ông chủ. Nếu chủ vườn nho là chính Thiên Chúa, và ngay cả cái chết xảy ra nơi người Con là điều không thể tránh khỏi khi con người nhẫn tâm chống lại Ngài, thì lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn luôn dàn trải và đổ xuống trên ta đến vô tận, đem lại cho chúng ta những cơ hội để thống hối, hơn là đưa ra một phán quyết hủy diệt cuối cùng.
Trong mạch văn của Tin Mừng Mathêu, dụ ngôn nhắm đến các đầu mục Do thái giáo, những con người đang kình chống Đức Giêsu. Dụ ngôn cũng chỉ dẫn ra điều cần thiết, là phải có những vị lãnh đạo mới. Thế nhưng, những tá điền khác, hay các vị lãnh đạo tôn giáo khác là ai? Một số cắt nghĩa rằng, họ là những người mà ông chủ sẽ tín nhiệm để thay thế các tá điền cũ, tức là Thiên Chúa sẽ thiết lập “một Hội Thánh mới, thay thế cho Israel cũ, trải rộng đến các dân ngoại”. Cách cắt nghĩa này rất dễ bị chống đối. Mathêu viết cho các Kitô hữu gốc Do Thái và theo họ, các đầu mục của Israel cũ sẽ được thay thế bằng các lãnh đạo mới, cũng gốc Do thái. Những người theo Đức Giêsu thời đó, vẫn nghĩ rằng các môn đệ của Đức Giêsu, chủ yếu là những Kitô hữu gốc Do thái, sẽ là những “tá điền khác”. Họ cố đấu tranh để chứng tỏ điều đó, dù họ có liên hệ gốc gác với dân vùng Judea hoặc gốc Pharisiêu chăng nữa.
Dụ ngôn cũng đặt ra một câu hỏi nhức nhối đối với những ai đang nắm quyền lãnh đạo thuộc bất cứ một tổ chức nào, một định chế nào, hay một quốc gia nào. Nếu những người lãnh đạo không giúp đem lại thiện ích cho các thành viên thuộc quyền, họ phải được thay thế bằng những người khác, những người có khả năng làm nảy sinh hoa trái cho những ai dưới quyền mình. Theo mạch văn của đoạn Tin Mừng, chẳng còn kỳ vọng gì nơi những người lãnh đạo hiện tại. Cũng chẳng mong họ hối hận, và làm cho vườn nho sinh trái. Dụ ngôn cũng ghi nhận rằng mùa hái nho đã đến gần – tức là thời điểm cánh chúng đang đến. Đó là thời điểm quyết định không còn chờ đợi một sự thay đổi nào nũa, và tất cả đều hướng tới một quyết định chung thẩm cuối cùng. Tin Mừng gọi mời chúng ta, phải chú tâm đến các vị lãnh đạo, làm sao để họ biết cách lo cho thiện ích chung được phát sinh cách dồi dào. Đồng thời chúng ta cũng cố gắng thực hiện những phương cách ôn hòa, không gây bạo lực để thay đổi lãnh đạo, ở bất cứ nơi đâu và vào bất cứ thời điểm nào, khi cần thiết phải thực hiện.

13. Tá điền và vườn nho
Nếu ruộng lúa, nương khoai, khóm trúc và con trâu là những hình ảnh quen thuộc của người Việt Nam, thì người Do Thái cũng có những hình ảnh thân thương đối với họ, đó là đàn chiên và vườn nho.
Thực vậy, Chúa Giêsu sinh ra là người Do Thái, cũng đã thừa hưởng nền văn hóa con chiên và cây nho ấy. Ngài đã dùng những hình ảnh quen thuộc đó để nói lên quan điểm của Ngài đối với mối tương giao giữa Thiên Chúa và Israel, cũng như mối tương giao giữa bản thân Ngài đối với các tín hữu của mình…
Chẳng hạn trong Tin Mừng theo thánh Gioan thì Chúa Cha là người trồng nho, bản thân Ngài là cây nho còn các môn đệ là ngành nho. Điều Ngài muốn truyền dạy là chúng ta phải sống gắn bó mật thiết với Ngài.
Thế nhưng trong Tin Mừng theo thánh Matthêu thì hình ảnh cây nho hay nói đúng hơn hình ảnh vườn nho được khai thác cho một đề tài khác.
Chúa Giêsu đã nói tới lòng tốt của ông chủ vườn nho không những sẵn sàng thuê mướn mọi người, nhất là những kẻ thất nghiệp, kém may mắn, mà còn trả công đồng đều cho cả những kẻ làm việc ít giờ nhất.
Ngài cũng đã nói tới những tá điền, là những người quản lý có trách nhiệm canh tác vườn nho để giao nộp hoa lợi cho chủ. Nhưng họ đã phản bội, đã đánh đập các sứ giả và đã giết chết chính người con của chủ. Để rồi, chủ đã phải lấy lại vườn nho mà trao cho người khác quản lý, tức là Giáo Hội.
Hôm nay, khi đọc lại dụ ngôn này, chúng ta sẽ ung dung tự nhủ: Do Thái là Do Thái và Giáo Hội là Giáo Hội Chúa đã trao đoàn chiên cũng như vườn nho của Ngài cho Giáo Hội, người quản lý cuối cùng mà Chúa đã chọn, vì thế không còn gì phải lo sợ: Làm thế nào mà Giáo Hội lại có thể giết hại các tôi tớ Chúa và cướp đoạt vườn nho Chúa được.
Thế nhưng chúng ta không nên lạc quan với những nhận định trừu tượng và lý thuyết trên đây mà phải nhìn vào thực tại trước mắt: Và thực tại trước mắt cho thấy Giáo Hội chính là chúng ta. Cộng đoàn dân Chúa, gồm những con người bằng xương bằng thịt, mới chỉ được mời gọi và được ban ơn sủng để nên thánh, hay nên hoàn thiện, nhưng thực tế thường chưa thánh, chưa hoàn thiện, do đó vẫn còn có thể có những kẻ lười biếng không chịu làm việc trong vườn nho, tệ hơn nữa vẫn còn có thể có những kẻ hung ác đánh đập, hành hạ và thậm chí giết hại những người tôi trung của Chúa, những người làm vườn tốt, để chiếm lấy vườn nho cho mình. Chính những ngôn ngữ chúng ta thường dùng cũng tố cáo sự chiếm đoạt có khi là vô ý thức đó.
Thực vậy, chúng ta chẳng thường nói: Con chiên của tôi, nhà thờ của tôi, giáo xứ của tôi, Giáo Hội của tôi. Trong khi đúng ra phải nói là con chiên của Chúa, nhà thờ của Chúa, giáo xứ của Chúa, Giáo Hội của Chúa.
Nhìn vào vườn nho Chúa, chúng ta thấy không thiếu những cây nho cành lá xum xuê mà chẳng sinh được một trái. Cũng chẳng thiếu những cành nho khô héo èo uột vì chỉ còn dính hờ vào thân cây.
Điều đáng buồn hơn nữa là cũng chẳng thiếu gì những tá điền, những người quản lý đã chiếm đoạt vườn nho Chúa làm gia nghiệp riêng của mình. Họ mặc sức khai thác tùy theo ý muốn, miễn sao có lợi cho mình. Không thiếu những kẻ chỉ lo rào dậu, xây tường và kiến tạo những bồn đạp nho, nhưng lại chẳng chăm sóc gì đến cây nho, khiến vườn nho Chúa mọc lên những cỏ dại và gai góc.

14. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
CÂU CHUYỆN VƯỜN NHO
CÂU CHUYỆN ĐỜI TA
Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để thính giả dễ hiểu điều Chúa nói về Nước Trời. Ý nghĩa dụ ngôn này như sau. Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương của Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai khiến các tiên tri đến dạy dỗ họ. Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng, chăm sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn nho làm của riêng họ. Nhưng họ có biết đâu rằng nếu để Chúa là chủ thì vườn nho còn được bảo vệ, được chăm sóc và họ còn được hưởng hoa lợi. Nhưng từ chối quyền làm chủ của Chúa, vườn nho rơi vào cảnh hoang tàn, đổ nát, không còn hoa trái. Và vì thế cuộc đời họ cũng bị diệt vong.
Câu chuyện vườn nho không chỉ nói với người Do Thái mà còn nói với tất cả chúng ta, đặc biệt các sinh viên học sinh nhân dịp đầu năm học mới. Sinh viên học sinh là những cây nho được Chúa ưu ái trồng trong vườn nho của Chúa. Vườn nho đó là Nước Chúa, là Giáo Hội, là gia đình, là trường học. Các cháu thiếu nhi, các bạn thanh niên, học sinh, sinh viên trẻ trung là những cây nho non mơn mởn được Chúa chăm sóc tưới bón trong tình thương bao la của cha mẹ, trong sự tận tâm của thày cô giáo, trong sự nhiệt thành quên mình của các linh mục, tu sĩ nam nữ. Chúa đặt lương tâm như tháp canh để cảnh báo những nguy cơ đe dọa tàn phá vườn nho. Để ngăn chặn thú dữ tàn phá, trẻ con nghịch ngơm, kẻ thù quấy phá, Chúa cẩn thận rào dậu vườn nho. Rào dậu là đặt ra những quy tắc luật lệ. Kỷ luật là phên dậu vững chắc bảo vệ những cây nho còn non yếu, bảo vệ hoa lợi khỏi kẻ thù đến phá hoại. Kỷ luật giúp bảo vệ cuộc đời của các con. Không chỉ bảo vệ sự sống mà còn tất cả những hoa trái tốt đẹp của sự sống. Bảo vệ tương lai của các con. Chúa xây bồn ép nho. Bồn ép nho là nơi làm việc. Quả nho phải trải qua quá trình ép, lọc, ủ mới lên men thành thứ rượu nho thơm lừng làm đẹp cho xã hội. Cũng vậy các con phải lao động vất vả qua nhiều công đoạn mới trở nên hữu ích cho Giáo Hội và cho xã hội. Có thể nói cuộc đời của mỗi người các con là một kỳ quan về tình yêu thương của Chúa. Chúa tạo dựng nên các con để các con được hạnh phúc. Chúa đã định sẵn cho các con một định mệnh tốt đẹp cao quý trong thánh ý Chúa.
Tiếc là có nhiều người không hiểu được điều đó, nên đã chối bỏ quyền Chúa làm chủ đời mình. Vì xua đuổi Chúa nên ma quỷ đã xâm nhập cuộc đời họ. Có nhiều người đã bỏ tháp canh lương tâm nên không còn tỉnh thức trước những nguy cơ đe dọa tàn phá sự sống. Có nhiều người đã phá đổ những phên dậu kỷ luật, biến vườn nho tâm hồn thành bãi đất hoang mặc cho mọi người chà đạp, tàn phá. Có nhiều người đã bỏ quên bồn ép nho, không chịu làm việc, chỉ rong chơi ngày tháng nên cả cuộc đời tiêu tốn biết bao sự thương yêu, tiền bạc, công sức của cha mẹ, thày cô giáo, các bề trên trong Giáo Hội mà không sinh được hoa trái gì cho cuộc đời.
Các con, sinh viên học sinh thân mến,
Đầu năm học mới là dịp các con chỉnh đốn lại vườn nho tâm hồn các con. Hãy để Chúa làm chủ cuộc đời các con. Hãy tin tưởng định mệnh Chúa dành cho các con là định mệnh tốt đẹp nhất. Tương lai Chúa dọn sẵn cho các con là tương lai tươi sáng không gì có thể so sánh được. Hãy đón nhận tình yêu thương của cha mẹ, thày cô giáo, và các bề trên trong Giáo Hội. Tình yêu thương chăm sóc của các ngài là nước mát tưới cho cây đời các con xanh tươi. Hãy tuân theo sự hướng dẫn của tháp canh lương tâm để các con biết phân biệt thật giả, trắng đen, thiện ác giữa lúc vàng thau lẫn lộn, biết chọn lựa con đường tốt đẹp cho tương lai. Hãy sống theo sự hướng dẫn của luật lệ, luật xã hội, luật học đường, luật sự sống, luật Giáo Hội. Đó chính là cách tự bảo vệ trước những lực lượng xấu, trước những cơn cám dỗ ngọt ngào đang rình chờ trói chặt những cuộc đời ẻo lả, mềm yếu, buông tuồng. Hãy làm việc trong bồn ép nho. Sự siêng năng chăm chỉ, lòng say mê học tập chính là chìa khóa của sự thành công.
Năm học mới là một ân huệ nhưng cũng là một trách nhiệm. Các con được ban nhiều, các con sẽ bị đòi hỏi nhiều. Năm học mới được ban tặng để các con sinh lợi. Sinh lợi để xứng đáng với tình thương của Chúa. Sinh lợi để xứng đáng với xã hội, quê hương đất nước. Sinh lợi chính là thăng tiến bản thân, làm lợi cho chính các con trước hết.
Xin Chúa ban phúc lành cho năm học mới để các thày cô giáo, các học sinh sinh viên thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, góp phần thăng tiến bản thân, gia đình, Giáo Hội và xã hội. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa đã ban cho bạn sự sống và còn đặt biết bao người, biết bao phương tiện, hoàn cảnh để nuôi dưỡng và phát triển sự sống đó. Bạn có nhận biết điều này không?
2) Bạn có nhìn nhận Chúa làm chủ đời mình và có thái độ xứng hợp không?
3) Phát triển là một trách nhiệm. Bạn có chu toàn trách nhiệm đó không?

15. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
LAO LỘNG THEO Ý CHÚA ĐỂ XÂY DỰNG VÀ GÌN GIỮ GIA ĐÌNH NHÂN LOẠI LUÔN HẠNH PHÚC
Bài Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Vườn nho ám chỉ Nước Chúa, được trao cho dân Do Thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo đứng đầu trong dân Do thái. Các đầy tớ là các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc giết chết. Câu chuyện vườn nho hôm nay không chỉ nói với người Do Thái mà còn nói với tất cả chúng ta. Mỗi người chúng là những cây nho được Chúa ưu ái trồng trong vườn nho của Chúa. Vườn nho đó là Nước Chúa, là Giáo Hội, là giáo xứ, Giáo phận và gia đình của chúng ta. Chúa đặt lương tâm như tháp canh, rào giậu để cảnh báo tội lỗi có nguy cơ đe dọa tàn phá vườn nho, để ngăn chặn tội lỗi tàn phá đời sống thân xác và tâm hồn chúng ta. Rào giậu, tháp canh đó là những điều luật của Chúa và của Hội Thánh. Qủa thế, Lời Chúa và các điều luật của Hội Thánh dạy không chỉ để giúp bảo vệ cuộc đời của chúng ta được bình an, thánh thiện và hạnh phúc mà còn làm phát sinh hoa thơm trái tốt đẹp cho đời và Giáo Hội là các nhân đức và công việc làm ăn chân chính. Vì vậy, các bài Lời Chúa hôm nay tập trung kêu gọi chúng ta hãy ra công lao động theo thánh ý Chúa và Lời Ngài qua nhiều công đoạn, nhiều thời mới trở nên những người hữu ích cho gia đình nhân loại và Nước Chúa. Cho nên, mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho là gia đình, Giáo xứ, Giáo phận hay xã hội, chúng ta có bổn phận phải làm sáng danh Chúa và mưu ích cho tha nhân.
Cụ thể, Lời Chúa trong bài đọc 1, Ngôn sứ Isaia kể về một người bạn thân của Ngài có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ. Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho hầu mong mai sau đem lại một mùa bội thu sinh ích cho anh và mọi người. Rồi, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói: “Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giêsu”. Như vậy, Lời Chúa nói rõ rằng những ơn phúc Chúa ban: tài năng tinh thần, những của cải vật chất, sức khoẻ, lòng đạo đức, các kinh nguyện… chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi vật chất và đức tin trong tinh thần của Chúa Giêsu và Lời Ngài. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau về nơi chốn, thời gian, khả năng, cơ hội, trí thông minh, sức khoẻ… không ai giống ai cả, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng Chúa ban theo ý Chúa và Lời Ngài chỉ bảo chứ không phải theo ý mình đề rồi như các người tá điền kia đã không chịu làm ăn mà còn không có lương tâm, vô đạo đức nên họ đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ… chỉ vì muốn thu lợi cho mình một cách bất chính.
Đời sống và sự phát triển của con người gắn chặt với lao động. Đúng thế, lao động làm cho đời sống có ý nghĩa bởi lẽ lao động vừa giúp người ta được tồn tại, mà còn là sự tiếp nhận thành quả và chuyển đạt hạnh phúc cho đời sau. Cho nên, lao động là để tạo hạnh phúc và giữ gìn hạnh phúc, lao động là để phục vụ và giúp đỡ người khác và lao động là để cộng tác với chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Vì vậy việc lười biếng, thích hưởng thụ, lao động bất chính là việc đi ngược và cản bước tiến của tiến trình phát triển của nhân cách, của xã hội đồng thời không làm theo đúng ý Chúa, gây tội lỗi cho con người.
Lời Chúa trong Sách Sáng Thế kể: “Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Eđen để con người canh tác và coi sóc đất đai” (St 2,5). Vườn Eden, địa đàng, là hình ảnh của hạnh phúc mà Thiên Chúa đã tạo dựng sẵn cho con người. Con người hưởng được hạnh phúc ấy bằng cách phải canh tác, nghĩa là phải làm việc để tạo ra hạnh phúc. Không chỉ vậy, con người phải biết “canh giữ vườn”, đồng nghĩa với việc giữ gìn hạnh phúc bằng việc vâng nghe Lời Chúa thì mới tồn tại và tiếp tục được hưởng phúc. Cho nên, lao động trong tinh thần tuân giữ Lời Chúa thì mới tạo ra hạnh phúc. Vì thế, đại văn hào Voltaire nói: “Lao động xua đuổi ba sự xấu xa kinh khủng nỗi buồn chán, thói trụy lạc và sự nghèo túng”. Còn ông bà ta nói: “nhàn cư vi bất thiện”. Vì thế, người có việc gì đó để làm là người hạnh phúc nhất như ai đó đã nói: “Người hạnh phúc là người có việc gì đó để làm, ai đó để yêu thương và điều gì đó để hy vọng.” Còn đối với người công Giáo chúng ta, trong tinh thần của Chúa Đức Kitô, làm việc để phục vụ và giúp đỡ người khác là bổn phận và trách nhiệm của chúng ta vì chưng Thánh Phaolô dạy: “Phải giúp đỡ người khác bằng cách làm lụng vất vả và phải nhớ lời Chúa Giêsu dạy: cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,33-35). Như vậy chúng ta làm việc không chỉ là bổn phận và trách nhiệm mà còn là mối phúc của chúng ta nữa, đúng như Lời Chúa Giêsu nói: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa (Mt 5,9). Như vậy, dưới ánh sáng đức tin, khi lao động, con người được Thiên Chúa mời gọi cộng tác để kiện toàn công trình tạo dựng; đồng thời thực thi được ý muốn của Thiên Chúa qua lao động. Nói cách khác, con người được dựng nên để đồng sáng tạo với Thiên Chúa. Cho nên, Công đồng Vatican II cũng xác định: “Khi cấy cầy với hai bàn tay hoặc với phương tiện kỹ thuật để trái đất nảy sinh hoa quả và trở thành nơi cư ngụ xứng đáng của toàn thể gia đình nhân loại con người đã tuân theo ý định của Thiên Chúa được tỏ bày ngay từ thủơ ban đầu, là loài người phải chế ngự trái đất và hoàn tất công trình sáng tạo”.
Qua dụ ngôn ông chủ và các tá điền trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu muốn chúng ta cộng tác với Người tuỳ theo những nén bạc Chúa trao vì vậy mỗi người phải ra công làm việc để để sinh lời cho Nước Chúa là Giáo hôi, gia đình hay xã hội chúng ta. Noi gương Chúa Giêsu, Đấng làm việc liên liên lỉ theo thánh ý Chúa Cha (Ga 5,17), đem lại ơn cứu độ cho con người, chúng ta, những người Kitô hữu, cũng ra công làm việc để mưu cầu hạnh phúc, giúp đỡ chia sẻ với người khác và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Mỗi người, tuỳ theo hoàn cảnh, địa vị và ơn ban riêng Chúa ban, phải làm việc và sinh ích lợi cho mọi người. Bậc làm cha mẹ thì lo làm tròn bổn phận của người làm cha làm mẹ, giữ gìn gia đình hạnh phúc. Kẻ làm con cái lo sao chữ đạo hiếu cho tròn. Người sống đời dâng hiến làm việc bằng cách tuân giữ kỷ luật tu trì và rao giảng Tin Mừng cứu độ hầu mưu ích cho các linh hồn và sáng danh Chúa.
Vậy ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa ban cho chúng ta được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng ta trong đời sống thường ngày dù’ nhỏ hay lớn đều nêu cao tinh thần tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết siêng năng làm việc để chu toàn bổn phận sinh lợi cho Nước Chúa là làm sao cho Tin Mừng được mọi người biết đến, yêu thích và sống theo để mọi người cùng nhau xây dựng đức tin và hạnh phúc ngay đời này và đời sau. Amen.

16. Sống bằng tình yêu
Anh chị em thân mến.
Trong câu chuyện lịch sử “Chiếc nỏ thần”, để lại một dấu ấn trong cuộc sống của dân tộc Việt Nam.
Thục Phán An Dương Vương được Thần Kim Quy tặng cho chiếc nỏ có sức công phá cực kỳ, không ai có thể chống lại được. Nhờ chiếc nỏ mà trong nước được an bình.
Ông có cô con gái tên Mỵ Châu, được chàng Trọng Thuỷ con của Triệu Đà thuộc nước lân bang đến cưới. Mọi việc hết sức tốt đẹp, mối duyên của đôi trẻ ngày càng nồng ấm.
Một hôm Trọng Thuỷ xin về thăm cha của mình. Ít ngày sau thì chiến tranh kéo đến. Nhìn thấy đoàn quân đến từ xa, An Dương Vương không lo lắng gì, ông mỉm cười tự tin, vì đã có chiếc nỏ thần trong tay. Giặc càng ngày càng gần, đến lúc cần thiết, ông mới dùng đến nỏ thần. Nhưng bất ngờ thay, chiếc nỏ không còn công hiệu như xưa, đội quân của ông không phòng thủ nỗi với sức tấn công dũng mạnh của quân thù. Oâng cùng với cô con gái thân yêu tìm đường thoát thân. Nhưng càng chạy thì nghe tiếng của địch quân ngày càng gần. Nhìn lại thì ông thấy chính đứa con mà ông yêu thương nhất lại là người làm ông thất vọng nhất. Chính cô đã để lại dấu hiệu trên đường cho giặc đuổi theo. Oâng cũng hiểu ra: chính vì đứa con mà ông yêu thương, nên kẻ thù mới lợi dụng tình yêu thương đó, cưới con ông và tráo đỗi nỏ thần, khiến cho ông phải đi vào chỗ chết. Ông yêu thương con gái mình, nên cũng rất mực yêu thương chàng rể. Nhưng những gì mà ông yêu thương đã phản bội lại ông, làm cho ông phải chết. Nếu như ông có quyền trở lại ông sẽ đối xử với chàng rể như thế nào?
Khi lòng tham đã lên ngôi, thì tình yêu thương không còn hiệu quả nữa mà bị phản bội. Lòng tham làm cho con người trở nên tàn ác, bất chấp mọi thủ đoạn, miễn làm sao lòng tham đạt được như ý muốn.
Đó là những gì của con người. Nhưng Thiên Chúa không để cho sự ác ngự trị mãi được, sự ác không thể tồn tại, ngay cả trong con người đang làm ác cũng không thể chấp nhận được cái ác.
Những người thời đó không thể chấp nhận được việc làm của những người trong dụ ngôn, hành động không có nhân tính.họ đã quên đi những gì người khác làm cho họ, họ cũng quên đi những gì họ đang có là từ đâu mà đến. Họ càng không muốn nhớ đến thời khó khăn trước đó như thế nào và làm sao mà họ thoát khỏi khó khăn như thế. Giờ đây họ chỉ còn nhìn thấy cái lợi vật chất. Họ tìm cách chiếm đoạt mà không cần biết đến cảm nghĩ của người khác như thế nào, cũng không cần biết đến hậu quả ra sao. Họ không nhìn thấy được tình yêu thương chung quanh họ, thì làm sao họ có thể sống trong tình yêu được.
“Nước Thiên Chúa sẽ lấy khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm trổ sinh hoa lợi”.
Một câu nói mạnh mẽ mà Chúa Giêsu thốt lên để cảnh báo cho những người không biết đến tình nghĩa, không nhìn thấy người khác, cũng không nhận ra được chính mình.
Câu cảnh báo cho người xưa cũng là lời cảnh báo cho những người hôm nay, cho chúng ta. Mỗi người được bao bọc trong tình yêu thương, được Thiên Chúa ưu ái, ban cho một hoàn cảnh sống thật tốt đẹp. Nhưng nhìn lại, chúng ta có biết cảm tạ hồng ân Chúa, hay mỗi ngày chúng ta đòi hỏi nhiều hơn, bất mãn nhiều hơn, toan tính để được nhiều hơn cái không phải là của mình. Càng không chấp nhận được khi những gì là của mình mà bị bắt buộc phải chia cho người khác. Nên nhiều lúc trong cuộc sống, chúng ta giống như những người trong dụ ngôn, muốn loại trừ người khác, ngay cả tiêu diệt người khác bằng mọi cách, để có thể hưởng trọn những gì mình muốn. Những lúc đó chúng ta cũng giống như chàng Trọng Thuỷ vô tâm, đứng trước một tình yêu chân thành nhưng không biết tận hưởng, mà chọn lấy nguồn lợi riêng tư để bước vào con đường chết. Nếu chúng ta nhận ra hồng ân Chúa trong đời sống và biết cảm tạ bằng những gì trong cuộc sống đời thường, để biết chu toàn mà đền đáp hồng ân Chúa thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.
Xin Chúa soi sáng cho mỗi người, để biết nhận ra Chúa là nguồn tình yêu, mà biết sống xứng đáng để đền đáp tình yêu thương của Chúa.

17. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông.
Trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 27 này, Bài Đọc I trích từ Is 5-1-7 và Tin Mừng trích từ Mt 21: 33-43 cách nhau khoảng tám trăm năm, tuy nhiên cả hai xướng đáp với nhau qua cùng một dụ ngôn vườn nho với cung điệu bi thương.
Is 5: 1-7
Trong một bài thơ trữ tình theo thể hát đối, ngôn sứ I-sai-a ca ngợi vườn nho được ông chủ hết lòng chăm sóc, nhưng vườn nho lại sinh trái nho dại trái với lòng mong ước của ông. Lúc đó, giọng nói của vị ngôn sứ vang lên: vườn nho vô ơn bội nghĩa “chính là dân Ít-ra-en”.
Pl 4: 6-9
Trái với bầu khí bi thương của Bài Đọc I và Tin Mừng, đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê tràn ngập bình an, chan chứa niềm tin tưởng và đầy lòng yêu thương.
Mt 21: 33-43
Tin Mừng thuật lại dụ ngôn về “các tá điền gian ác”. Sau khi đã đối xử tàn ác với các tôi tớ của ông chủ vườn nho, chúng ra tay sát hại cả người con một của ông để mong chiếm đoạt vườn nho.
BÀI ĐỌC I (Is 5: 1-7)
Bài thơ ca ngợi “vườn nho” của ngôn sứ I-sai-a rất nổi tiếng, vì giá trị văn chương của nó. Đây là một bài thơ được trao chuốc rất công phu nói về dân Ít-ra-en là vườn nho của Đức Chúa. Về hình ảnh “Ít-ra-en là vườn nho của Chúa, ngôn sứ I-sai-a đã đón nhận nguồn cảm hứng từ ngôn sứ Hô-sê:
“Ít-ra-en vốn là một cây nho sum sê,
trái trăng thật dồi dào phong phú.
Nhưng trái trăng càng nhiều,
chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng;
đất nước càng giàu sang,
chúng càng làm thêm những cột thần lộng lẫy” (Hs 10: 1)
Hình ảnh “Ít-ra-en là vườn nho của Chúa” nầy được lập đi lập lại nhiều lần trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 32: 32), trong Thánh Vịnh (Tv 80), qua ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr 2: 21; 5: 10; 6: 9; 12: 10), ngôn sứ Êdê-ki-en (Ed 15: 1-8; 19: 10-14), vân vân. Trên môi miệng của Đức Giê-su, hình ảnh này rõ ràng quy chiếu đến bài thơ của I-sai-a (Mt 21: 33-41).
1. Ngữ cảnh:
Các nhà chú giải có thể ấn định niên biểu của bài thơ về vườn nho nầy vào khoảng năm 737 trước Công Nguyên, nghĩa là vào giai đoạn đầu sứ vụ của ngôn sứ I-sai-a ở Giê-ru-sa-lem trước khi thành thánh bị đạo quân Sy-ri liên minh với đạo quân vương quốc miền Bắc vây hãm.
Những sứ điệp đầu tiên của vị ngôn sứ liên quan đến tội thờ ngẫu tượng của vương quốc miền Bắc, vương quốc Ít-ra-en mà thủ đô là Sa-ma-ri. Khi hướng nhìn về vương quốc miền Nam, vương quốc Giu-đa mà thủ đô là Giê-ru-sa-lem, ngôn sứ I-sai-a thất vọng theo cách khác: bất công, áp bức những kẻ nghèo hèn cô thế, bạo lực, máu và nước mắt, giả nhân giả nghĩa, vân vân. Bài thơ về vườn nho của ông là một lời cảnh báo.
Chúng ta có thể hình dung vị ngôn sứ ngâm hay hát bài thơ của ông trên hành lang đền thờ vào dịp lễ hội thu hoạch nho (sau nầy được gọi lễ Lều). Lễ hội nầy kéo dài một tuần lễ. Vào ngày khai mạc và ngày kết thúc, các nghi lễ diễn ra trong khuôn viên đền thánh. Dù thế nào, xứ Pa-lét-tin là miền đất trồng nho, vì thế, bài thơ của vị ngôn sứ chạm đến độ nhạy cảm của một dân trồng nho.
2. Cấu trúc:
Bài thơ được xây dựng theo cách thức của một bài thi ca trữ tình, nhưng tình phụ bạc. Thiên Chúa là hôn phu và là người trồng nho, còn Ít-ra-en là hôn thê và là cây nho hoặc vườn nho. Trong bài thi ca nầy, hai hình ảnh “người trồng nho và cây nho” và “hôn phu và hôn thê” được đan quyện vào nhau. Đáp lại sự ân cần chăm sóc của người chồng là sự bất trung của người vợ. Người chồng bị tình phụ xin đám đông phân xử. Cũng như trong các bài thi ca trữ tình khác, bài thi ca nầy được sáng tác theo thể hát đối.
Trước hết, vị ngôn sứ, đại diện bạn mình là chủ vườn nho, cất tiếng hát (5: 1-2). Đoạn, đến phiên mình, chủ vườn nho thổ lộ nỗi niềm tâm sự và bừng bừng nổi giận (5: 3-6). Sau cùng, vị ngôn sứ tiếp lời, và chính lúc đó một mặc khải gây choáng váng: ông chủ vườn nho không ai khác chính là Đức Chúa; vườn nho không sinh hoa lợi, chính là Ít-ra-en, dân bất trung sẽ bị trừng phạt vì phụ tình bội nghĩa của nó (5: 7).
A. Bạn của chủ vườn nho cất tiếng (5: 1-2):
Vị ngôn sứ tự xưng mình là “bạn của chủ vườn nho”, chắc chắn tước hiệu nầy được gợi hứng bởi “bạn của chàng rể” trong những bài ca hôn nhân (tước hiệu mà Gioan Tẩy giả sẽ áp dụng cho mình). Bài thơ mô tả người chồng hết mực trìu mến chăm lo cho người vợ của mình như ông chủ vườn nho ân cần chăm sóc vườn nho của mình, rào giậu chung quanh, trồng giống nho tốt “trên sườn đồi màu mỡ”. Ông chủ cất một vọng gác trong vườn nho nói lên một sự ân cần hết mức của ông dành cho vườn nho của mình: canh giữ vườn nho ngày lẫn đêm, trông chừng những tên hái trộm, những con vật phá hoại …Than ôi, mặc cho những ân cần săn sóc giữ gìn của ông chủ, vườn nho chỉ sinh nho dại!
Đức Giê-su sẽ trích dẫn đúng nguyên văn vài chi tiết của bài thơ trong dụ ngôn của mình về “bọn tá điền gian ác”: “Có một gia chủ kia trồng được vườn nho; chung quanh vườn, ông rào dậu; ông khoét bồn đạp nho, và xây một vọng gác” (Mt 21: 33).
B. Ông chủ vườn nho thổ lộ tâm sự (5: 3-6):
Đến phiên mình, ông chủ vườn nho thổ lộ tâm can. Ông xin toàn thể dân chúng làm chứng cho những công sức mà ông đã đổ ra cho vườn nho của ông cách vô ích: “Người Giê-ru-sa-lem, và dân Giu-đa hỡi”. Vườn nho vô ơn bội nghĩa sẽ phải đón nhận sự trừng phạt đích đáng. Ông sẽ không còn quan tâm đến vườn nho của mình để mặc cho nó bị giày xéo và trở nên hoang phế, không người chăm sóc và không cho mưa trời tưới xuống. Lối nói ngoa ngữ: “Sẽ truyền lệnh cho mây, đừng để mưa tưới xuống” ở đây để cho thoáng thấy ông chủ vườn nho là một nhân vật đầy quyền năng.
C. Vị ngôn sứ tiếp lời (5: 7)
Vị ngôn sứ lại cất tiếng hát. Mặc khải của ông được chuẩn bị rất khéo léo. Dân chúng tự kết án mình vì họ không còn cách nào ngoài việc thú nhận mình là vườn nho được Chúa vun trồng chăm sóc hết mực nhưng chỉ sinh những nho dại, vì thế đáng bị trừng phạt.
Phương pháp tâm l‎ý nầy nhắc nhớ phương pháp mà ngôn sứ Na-than đã áp dụng cho vua Đa-vít về tội vua sát hại người tôi trung của mình là ông U-ri và cướp đoạt vợ của ông. Ngôn sứ Na-than cũng xây dựng một dụ ngôn về người giàu có một trăm con chiên mà lại bắt một con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt để đãi khách. Khi vừa nghe xong dụ ngôn, “Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với người ấy”. Ngôn sứ Na-than trả lời: “Kẻ đó chính là ngài” (2Sm 12: 1-7). Cũng vậy, ngôn sứ I-sai-a vạch mặt chỉ tên: “Vườn nho của Chúa Tể càn khôn, chính là nhà Ít-ra-en đó. Cây nho Người mến yêu quí chuộng, ấy là dân nước Giu-đa”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 6-9)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân đề nghị một khuôn mẫu sống, theo đó di sản Do thái giáo, mặc khải Ki-tô giáo và lý tưởng Hy-lạp hòa hợp với nhau.
1. Di sản Do thái giáo:
“Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giải bày trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện”. Đây là lời cầu nguyện mang đậm nét lời cầu nguyện Do thái giáo qua việc lập đi lập lại những lời ngợi khen, cảm tạ và tri ân: “Ngợi khen Thiên Chúa…Chúc tụng Thiên Chúa…”, được xen lẫn với những lời khấn nguyện cầu xin Chúa rủ lòng thương. Thánh Phao-lô, trung thành với truyền thống nầy, dễ dàng thích ứng truyền thống nầy vào trong lời cầu nguyện Ki-tô giáo và khuyên bảo các tín hữu Phi-líp thực hành như thế.
2. Mặc Khải Kitô giáo:
“Bình an của Thiên Chúa, là bình an không ai hiểu thấu, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hiệp với Đức Giê-su Kitô”. Chúc bình an cũng thuộc vào truyền thống Do thái giáo. Ở đây, không chỉ cầu xin “bình an”, nhưng còn những ơn ban khác nữa. Theo gương Đức Giê-su, thánh nhân đem đến cho chữ “bình an” một chiều kích mới. Đối với thánh nhân, bình an của Thiên Chúa, chính là bình an mà hy tế của Đức Giê-su đã mang lại cho chúng ta. Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã hòa giải muôn loài muôn vật với mình. Nhờ Thánh Thần của Ngài, Ngài toả rạng bình an giữa các Ki-tô hữu và giữa các Kitô hữu với muôn dân. Bình an là một khía cạnh của cuộc sống đời đời, được khởi sự từ dưới thế nầy.
3. Lý tưởng Hy lạp:
Thánh Phao-lô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu gốc Hy-lạp. Thánh nhân khuyên họ đừng từ bỏ, nhưng hãy thấm nhập vào trong con người họ những đức hạnh mà truyền thống cha ông của họ đã dạy: “Những gì là đức hạnh đáng khen, thì xin anh em hãy để ý”.
Như vậy, thánh Phao-lô đã không xem thường l‎ý tưởng luân lý của truyền thống văn hóa Hy-lạp. Ki-tô giáo không nhằm loại bỏ “những gì là chân thật, cao quí, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt”. Thánh nhân đã hình thành nên “học thuyết nhân bản Kitô giáo”. Nhưng học thuyết nầy để thực sự là Ki-tô giáo phải dựa vào lời dạy tông đồ để không có bất kỳ khiếm khuyết nào và sai lệch nào: “Những gì anh em đã học hỏi, đã hấp thụ, đã nghe, đã thấy nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành”. Công Đồng Va-tican II cũng đã dạy theo cùng một cách như vậy: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Vui Mừng và Hy Vọng, 1).
TIN MỪNG (Mt 21: 33-43)
Tiếp theo dụ ngôn về “hai người con” mà chúng ta đã suy gẫm vào Chúa Nhật vừa qua, thánh Mát-thêu ghi tiếp dụ ngôn về “những tá điền gian ác” theo cùng một chiều hướng và cùng nhắm đến một đối tượng.
1. Dụ ngôn “Những tá điền gian ác”:
Đức Giê-su mượn ở nơi bài thơ của ngôn sứ I-sai-a hình ảnh về ông chủ vườn nho: “trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; ông khoét một bồn đạp nho, và xây một vọng gác”, nhưng lại triển khai theo một chiều hướng khác với ngôn sứ I-sai-a. Trong sấm ngôn của I-sai-a, đối tượng được nhắm đến là vườn nho. Dù được chăm sóc chu đáo, nhưng vườn nho lại sinh những trái nho dại, vì thế, bị bỏ mặc thành hoang phế. Trái lại, trong dụ ngôn, đối tượng được nêu bật là thái độ gian ác của bọn tá điền.
Ông chủ vườn nho “trẩy đi xa” và để vườn nho cho bọn tá điền thuê. Đến mùa thu hoạch, chủ vườn nho sai gia nhân của mình đến thu hoạch huê lợi. Các tá điền không chỉ không giao nộp huê lợi như giao ước, trái lại “chúng đánh người nầy, giết người kia, ném đá người nọ”. Vẫn một mực nhẫn nại, ông chủ vườn nho cố thử thêm một lần nữa: “sai một số đầy tớ khác đông hơn trước; nhưng bọn tá điền vẫn cư xử với họ y như vậy”. Cuối cùng, ông quyết định liều sai đứa con trai một của mình, vì nghĩa rằng: “Chúng sẽ nể con ta!”. Nhưng ông không ngờ, bọn tá điền muốn cướp đoạt vườn nho, vì thế “chúng bắt lấy cậu, lôi ra ngoài vườn nho và giết chết cậu”.
2. Ý nghĩa của dụ ngôn đối với lịch sử cứu độ:
Dụ ngôn nầy diễn tả một cách ngắn gọn cả một lịch sử cứu độ dài, một thiên tình sử giữa Đức Chúa và dân Ngài. Vườn nho của Đức Chúa chính là dân Ít-ra-en. Ngài đã trao cơ nghiệp của Ngài cho các giai cấp lãnh đạo Do thái để họ chăm lo vun xới và làm trổ sinh hoa trái. Biết bao lần, Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến nhắc nhở họ trung thành tuân giữ giao ước, nhưng họ đã ngược đãi, bách hại và giết chết các ngài. Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn sai lần lượt các ngôn sứ nầy đến các ngôn sứ khác, nhưng họ không hề thay đổi, vẫn thói nào tật nấy hành xử với các ngài theo cùng một cách như thế. Nhưng lòng nhẫn nại của Thiên Chúa vẫn không hề vơi, cuối cùng Ngài sai chính Con Một của Ngài với hy vọng: “Chúng sẽ nể con ta”. Nhưng lòng gian ác của họ đã đạt đến cực điểm. Họ đã tra tay bắt lấy “Người Con Một” của Ngài và lôi ra ngoài thành thánh Giê-ru-sa-lem mà giết đi để mong chiếm đoạt gia sản của Ngài, tức là biến dân của Ngài thành dân của họ.
Qua dụ ngôn nầy, Đức Giê-su quy trách nhiệm cho giai cấp lãnh đạo Do thái còn cứng rắn hơn dụ ngôn hai con trai trước đó. Đồng thời, Ngài cũng kín đáo và thống thiết muốn cho họ hiểu rằng Ngài là Con Thiên Chúa và sắp bị giết chết bởi lòng dạ gian ác của họ.
3. Ý nghĩa dụ ngôn đối với Giáo Hội.
Như vị ngôn sứ trong bài ca vườn nho, Đức Giê-su xin thính giả của Ngài, tức giai cấp lãnh đạo Do thái, phân xử. Những người nầy phẩn nộ về thái độ của bọn tá điền, không ngờ chính mình lại tự kết án mình. Và như dụ ngôn hai người con trước đây, ở đoạn cuối, ý nghĩa của dụ ngôn được Chúa Giê-su giải thích rõ ràng khi trích dẫn Tv 118: ‘Viên đá người thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Ấy là Chúa đã làm nên như vậy, trước mắt chúng ta, thật lạ lùng”. Thánh vịnh nầy ca ngợi việc chấn hưng dân Ít-ra-en tương lai và được giải thích như Thánh vịnh thiên sai. Giáo Hội tiên khởi đã thấy ở đây một lời loan báo về sự Phục Sinh của Đức Kitô (cf. Cv 4: 11 và 1Pr 2: 7).
Con Thiên Chúa bị giết chết xem ra là một sự thất bại rõ ràng. Nhưng nhờ cái chết của Người Con nầy, một dân mới, được biểu thị không còn qua hình ảnh vườn nho nhưng tòa nhà. Toà nhà nầy Đức Giê-su sẽ là viên đá góc tường sẽ được xây dựng trên nền móng vững chắc: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt. 16: 18).

18. Suy niệm của An Phong
CHÚNG TA ĐƯỢC TRAO PHÓ CANH TÁC VƯỜN NHO THIÊN CHÚA
Câu chuyện giữa Thiên Chúa với con người là một câu chuyện tình. Tình yêu thương được trao ban, nhưng không được đón nhận; tình yêu thật quảng đại, nhưng lại bị phản bội cách trắng trợn. Giu-đa lấy cái hôn để nộp Thầy, đó là một sự phản bội lại tình yêu thương làm cho Chúa Giêsu đau lòng biết bao. Tình yêu của Thiên Chúa thật bao la; và sự phản bội tình yêu đó lại là cái gì hết sức phũ phàng. Không có gì đẹp bằng tình yêu, nhưng cũng không có gì ghê gớm hơn tình yêu bị phản bội.
Trong một xã hội “đấu đá nhau”, những trò đời đã nhiều lúc trở nên khủng khiếp lắm rồi; nhưng khi “trò đời” lại diễn ra nơi chính bầu khí của tình yêu, trong gia đình chẳng hạn, thì nó lại trở nên khủng khiếp thế nào: cha mẹ lợi dụng con cái; con cái bất hiếu, bạc đãi cha mẹ, con cái giết cha mẹ cũng có… Quả thật, chính sự phản bội trong tình yêu là một đòn chí mạng khiến con người bị gục ngã. Bao nhiêu bà mẹ đã từng hy sinh mọi sự cho con cái, nhưng rồi cuối đời, những năm tháng về già, đã gục ngã vì sự phản bội, vì sự bất hiếu của đứa con cưng.
Chúng ta được trao phó cho mảnh vườn của Thiên Chúa, cha mẹ được Thiên Chúa trao phó cho một gia đình để chăm sóc; linh mục cũng được Thiên Chúa trao pho cho đoàn chiên; các người có trách nhiệm với dân tộc, với cộng đoàn giáo xứ, với các hội đoàn… đều là những người được Thiên Chúa trao phó vườn nho của Ngài. Cuộc sống này là vườn nho của Thiên Chúa và mỗi người chúng ta là những người làm vườn nho của Thiên Chúa.
Câu chuyện về sự phản bội của tình yêu cho chúng ta thấy rằng Tình yêu cũng chính là cái giá con người phải trả lại cho Thiên Chúa. Ông chủ ban “người con” như một lời mời gọi cuối cùng của tình yêu cho những người tá điền của mình. Không có gì thật sự là tốt đẹp mà không cần trả giá đâu. Sự trả giá ở đây chỉ là lòng trung thành, là mở lòng ra để đón nhận chủ quyền của Thiên Chúa chứ không phải muốn giành lấy gia sản của Người để hưởng thụ cho chính mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã trả giá cho đời sống chúng con,
không phải là trả một món nợ nào khác,
nhưng là món nợ của tình thương,
món nợ nặng nề nhất và cay đắng nhất.
Xin cho chúng con biết nhận ra
chúng con cũng mắc nợ nhau trong tình yêu thương
và cũng biết chấp nhận hy sinh vì tình yêu thương.

19. Tìm kiếm sự khôn ngoan – Lm. Anmai.
Ba bài đọc trong Thánh lễ hôm nay như sợi chỉ đỏ xuyêt suốt nói về sự khôn ngoan, nói về sự lựa chọn của con người trong cuộc đời này về sự khôn ngoan.
Sách các Vua quyển thứ nhất trong chương 3 mà chúng ta nghe đấy nói cho chúng ta nghe về một chuyện thật là buồn cười. Là một vị vua, lẽ ra Salômôn phải xin cho được mình được sống lâu trăm nghìn tuổi để ngồi trên ngai mà trị vì dân chúng, lẽ ra Salômôn xin cho mình được của cải đầy dư để mà lên mày lên mặt với dân chúng, với các dân các nước lân bang, lẽ ra vua Salômôn phải xin cho tất cả những kẻ thù của vua phải chết đi, phải biến mất đi khỏi nhan của vua để mà vua được ngồi trên ghế trị vì đất nước được thoải mái, lẽ ra và lẽ ra Salômôn xin nhiều điều như một số vị vua khác đã làm đó là là cho mình được thê thiếp đầy nhà đầy cửa để phục vụ cho những ham muốn của mình, xin cho mình được quân binh dũng mãnh để đối phó với thù trong giặc ngoài nhưng rồi Salômôn xin với Thiên Chúa cho ông được tài phân biệt để xét xử.
Nếu vội vã, chúng ta sẽ cho rằng Salômôn là một người nông cạn, thiếu suy nghĩ vì xin cái gì không xin, xin tiền tài vật chất không xin mà xin cái gì đó nó chẳng có giá trị gì về vật chất cả, nó là cái chi chi đấy: tài phân xử. Xem ra cái chuyện ông xin là chuyện vô ích, chẳng cần xin thì ai ai cũng có tài phân xử cả. Chẳng cần ơn cũng có thể phân xử vậy mà ông lại xin. Như thế có vô ích không?
Chúng ta nhìn lại đời thường của chúng ta. Chuyện phân xử hình như nó dính liền với cuộc đời của chúng ta, dính liền với thái độ sống của chúng ta.
Sáng sớm, mới mở mắt thức giấc, chúng ta phải đứng trước một chuyện phân xử mà chúng ta không biết đó thôi đó là chúng ta có tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta qua một đêm yên ổn hay không? hay là chúng ta dửng dưng trước cái ơn của Chúa đấy. Cứ tưởng là bình thường nhưng chẳng bình thường chút nào cả vì đã có nhiều và nhiều người sau khi ngủ một đêm thì lại tiếp tục ngủ giấc ngủ ngàn thu chứ không hề thức dậy chi cả. Sau khi tạ ơn ấy, chúng ta có chịu trao phó cuộc đời, có dâng ngày sống trong tay Chúa hay là chúng ta lại dâng ngày sống trong tay chúng ta, trong sự quyết định không đâu vào đâu của chúng ta. Phân xử đấy chứ! Ai bảo là không phân? Hoặc chúng ta đặt để cuộc đời chúng ta trong tay Chúa, trong sự quan phòng theo thánh ý Thiên Chúa, hoặc chúng ta đặt để cuộc đời chúng ta trong tay của chúng ta, trong quyết định của chúng ta?
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, một bông hoa, một tiếng cười hay ngược lại?
Và rồi trải dài suốt cả ngày sống, chúng ta đước trước không biết bao nhiêu là điều phải lựa chọn, bao nhiêu là điều phải phân xử.
Đứng trước một sự cãi vả, một cuộc tranh chấp, chúng ta phải lựa chọn cái gì? Lựa chọn sự thua thiệt hay sự hơn người khác?
Đứng trước một quyết định về một mầm sống, chúng ta quyết định để hay là phá?
Đứng trước một con người thấp cổ bé họng, một con người nghèo khổ túng cực, chúng ta yêu thương họ hay phỉ báng?
Đứng trước một người giàu thái độ chúng ta như thế nào?
Đứng trước một người nghèo thái độ chúng ta như thế nào?
Đứng trước một con người tạm gọi là tội lỗi, khiếm khuyết, yếu đuối thì chúng ta sẽ xử họ như thế nào?
Và rồi, cuối ngày, trước khi đi vào giấc ngủ, chúng ta có kiểm điểm lại qua một ngày sống chúng ta được không biết bao nhiêu là ơn lành của Chúa để chúng ta tạ ơn Chúa hay là chúng ta lại tỏ thái độ dửng dưng trước bao nhiêu ân huệ mà Chúa dành cho ta? Chúng ta lại có khiêm tốn để trao phó cuộc đời chúng ta trong tay Chúa qua giấc ngủ mà chúng ta sắp chìm vào hay không?
Đó là chuyện thường ngày nhất mà chúng ta thường gặp. Chúng ta phải có thái độ để lựa chọn. Nhiều Thánh vịnh cũng đã nhắc nhở chúng ta về sự lựa chọn, đơn cử Thánh vịnh 90 (Tv 90, 5-12) vẫn nhắc nhớ chúng ta:
Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,
như cỏ đồng trổi mọc ban mai,
nở hoa vươn mạnh sớm ngày,
chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.
Ngài thịnh nộ, chúng con phải mạng vong,
nổi trận lôi đình: thấy mà khủng khiếp!
Tội chúng con, Thánh Nhan đều soi tỏ.
Chúa nổi xung, đời chúng con tàn tạ.
kiếp sống thoảng qua: một tiếng thở dài.
Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục
mạnh giỏi chăng là được tám mươi,
mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,
cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.
Cơn giận Ngài, ai lường được sức mạnh,
trận lôi đình, ai hiểu thấu căn nguyên?
Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.
Thế đấy! Con người vẫn bé cái lầm là cứ tưởng rằng mình là chúa, là chủ của cuộc đời nhưng xin thưa rằng mạnh giỏi lắm thì chừng tám chục mà thôi. Tất cả những tài sản, những nổ lực, những cố gắng mà mình bao nhiêu năm đổ mồ hôi sôi con mắt tìm kiếm sẽ giao lại cho người khác. Ngay cái căn nhà, cái biệt thự, cái villa cao cấp mà mình đang trú ngụ đấy sẽ về tay người khác khi mà chúng ta đã khuất rồi.
Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe đấy là đỉnh điểm nhắc nhở chúng ta về sự khôn ngoan, sự lựa chọn khôn ngoan mà Chúa Giêsu đã nói cho dân chúng, Chúa Giêsu cũng đã nói với mỗi người chúng ta: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng bán đi tất cả những gì mình có để mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy”.
Chúa nhắc cho chúng ta căn tính, căn cốt và cùng đích của cuộc đời chúng ta đó là Nước Trời. Cuộc đời này chỉ là đời tạm mau qua chóng tàn, là cuộc lữ hành về quê trời thôi chứ không phải là vĩnh cửu để rồi chúng ta bám, chúng ta víu vào? Bé cái lầm là cái điều cần chúng ta lại không tìm, điều không cần chúng ta lại ấp ủ? Phải chăng là chúng ta thiếu khôn ngoan, chúng ta thiếu cân nhắc, chúng ta thiếu phân xử như Salômôn?
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma Ngài cũng đã nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa đã kêu gọi mỗi người chúng ta theo ý định của Người. Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang”.
Thiên Chúa quan phòng, Thiên Chúa yêu thương và Thiên Chúa đã tuyển chọn, hiến thánh mỗi người chúng ta nhưng chúng ta làm sao đấy? Chúng ta cứ luẩn quẩn trong con người hay hư nát của chúng ta? trong cái con người nay còn mai mất của chúng ta mà chúng ta không tìm kiếm những sự cao siêu trên trời như Thánh Phaolô đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta.
Thấy điều gì hay, điều gì phải, điều gì tốt chúng ta cũng nên bắt chước và hôm nay chúng ta cũng bắt chước vua Salômôn để rồi chúng ta không xin Chúa cho chúng ta giàu sang phú quý, thành công, bằng này cấp nọ hơn người khác nhưng xin cho chúng ta cũng như ông: xin ơn khôn ngoan, xin ơn biện phân để chúng ta biết đếm tháng ngày chúng ta sống để ngõ hầu tâm trí của chúng ta được khôn ngoan. Chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta khôn ngoan lựa chọn thái độ sống của những người tìm kiếm Nước Trời chứ không phải tìm kiếm cái thế gian mau qua chóng tàn và phù vân này.
Nguyện xin Chúa là Chúa của sự khôn ngoan đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta luôn khôn ngoan chọn lựa thái độ sống phù hợp với thánh ý Chúa.

20. Suy Niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Dụ ngôn “Các tá điền sát nhân” mà Tin mừng hôm nay kể lạicho chúng ta thấy sự tương phản giữa Tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa vàsự vô ơn, phản bội của dân Do thái.
Thật vậy, Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Do thái làm dân riêng và coi họ như là “vườn nho” mà Ngài luôn chăm sóc giữ gìn. Qua các thời kỳ, Ngài sai các thủ lĩnh, các tiên tri và chính Con Một của Ngài đến để chăm sóc, dạy dỗ và hướng dẫn họ. Ngài chăm sóc họ giống như ông chủ chăm sóc vườn nho:rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn. Ngài mong muốn họ sinh quả nhothì họ lại sinh nho dại (x. Is 5,2). Ngài mong muốn điều chính trực, thì lại toàn sự gian ác. Ngài mong muốn đức công bình, thì lại toàn là tiếng kêu oan (x. Is 5,7).
Không những thế, họ còn nổi lên chống lại Ngài. Họ bắt các đầy tớ là các tiên tri mà Ngài sai đến: “đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác” (x. Mt 21,35).Cuối cùng, họ giết luôn cả Con Một của Ngài là chính Đức Giêsu. Vì sự vô ơn và phản bội của họ nên Thiên Chúa “cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi” (x. Mt 21,41). Cuối dụ ngôn hôm nay, Đức Giêsu đã khẳng định với người Do thái: “Tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái.”(Mt 21,43).
Người khác hay dân tộc khác ở đây chính là Giáo hội. Thiên Chúa trao vườn nho cho Giáo hội. Giáo hội là vườn nho và cũng là người coi sóc vườn nho.Giáo hộicó sứ mạnglàm cho vườn nho sinh hoa trái. Đó là nhiệm vụ bảo quản và trao ban. Giáo hội bảo quản và trao ban những khotàng thiêng liêng là Lời Chúa và các Bí tíchthông qua sứ mạng ngôn sứ, tư tế và mục tử.
Với sứ mạng ngôn sứ, Giáo hội có trách nhiệm rao giảng Lời Chúa. Đây là lệnh truyền mà Giáo hội lãnh nhận từ Đức Giêsu trước khi Ngài về trời: “Anh em phải đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Lệnh truyền nàyđược áp dụng với hết mọi thành phần trong Giáo hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân. Giáo hội có thể rao giảng Lời Chúa bằng lời nói, bằng chứng tá cuộc sống, trong nhà thờ, nơi các lớp giáo lý, nơi mọi môi trường sống và trong mọi hoàn cảnh. Thánh Phaolô nói: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4, 2).
Với sứ mạng tư tế, Giáo hội có trách nhiệm cử hành phụng vụ nhất là phụng vụ các Bí tích.Bảy Bí tích là máng chuyển thông ơn Thiên Chúa qua Giáo hội để đến với mọi người: Bí tích Rửa tội tha tội nguyên tổ và tội riêng; Bí tích Giao hòa tha các tội ta đã phạm từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội về sau cùng giao hòa tội nhân với Chúa và Giáo hội; Bí tích Thánh Thể là của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn các kitô hữu; Bí tích Thêm Sức ban cho người lãnh nhận bảy ơn cả của Chúa Thánh Thần, tăng cường đời sống siêu nhiên, gắn bó ta cách mật thiết hơn với Giáo hội ; Bí tích Xức dầu ban ơn nâng đỡ bệnh nhân phần hồn, phần xác và chuẩn bị bước vào đời sau; Bí tích Hôn nhân kết hợp hai người nam nữ thành vợ chồng trước mặt Thiên Chúa và mọi người, cùng ban ơn để họ sống xứng đáng ơn gọi của mình ; Bí tích Truyền chức thánh hiến những vị mà Chúa muốn trao ban cho tác vụ thánh trong dân Chúa.
Với sứ mạng mục tử, Giáo hội có sứ mạng chăm sóc Vườn nho.Trách nhiệm chung đối với Giáo hội hoàn cầu là Đức Giáo Hoàng; trách nhiệm đối với các Giáo phận là cácGiám mục; trách nhiệm đối với các giáo xứ là các linh mục quản xứ; mỗi cộng đoàn có các Bề trên…Trong Giáo hội, Giáo phận, Giáo xứ, cộng đoàn còn có nhiều chức vụ khác nhau để ai nấy cũng có thể thông phần sứ mạng mục tử của Giáo hội. Thánh Phaolô khẳng định: “Và chính Người đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ.” (Ep 4,11).
Tất cả mọi thành phần trong Giáo hội, không chỉ coi Giáo hội là vườn nho để hưởng hoa lợi qua Lời Chúa và các Bí tích mà còn được mời gọi để thông phần sứ mạng ngôn sứ, tư tế và mục tử của Giáo hội. Đặc biệt, các thành phần trong Giáo hội phải cóbổn phận đối với vườn nho được giao phó cách riêng cho mình: Giám mục có bổn phận với Giáo phận; cha xứ có bổn phận với giáo xứ; bề trên có bổn phận với cộng đoàn; cha mẹ có bổn phận với con cái… Ngoài ra, mỗi kitô hữu cũng là vườn nho của Chúa nên phải có bổn phận tự chăm sóc giữ gìn để làm cho vườn nho của mình được phát sinh hoa trái. Đểvườn nho của mình được sinh hoa trái, các kitô hữucần phảigắn bó với Chúa qua đời sống cầu nguyện,liên đới với anh chị em qua việc thực thibác ái. Đặc biệt, các kitô hữu cần phải dọn mình lãnh nhận các Bí tích và chu toàn bổn phận mà các Bí tích đòi hỏi: Bí tích Rửa tội mời gọi chúng ta từ bỏ ma quỉ, xa lánh tội lỗi, tin theo Chúa Kitô và tuân giữ lề luật của Người; Bí tích Giao hòa mời gọi chúng ta thực hành 4 việc là xét mình, ăn năn tội, xưng tội, và đền tội; Nơi Bí tích Thánh Thể có Chúa Giêsu hiện diện nên mời gọi mọi người chúng ta hết lòng yêu mến và tôn kính Bí tích cực trọng này; Bí tích Thêm sức mời gọi chúng ta can đảm thực hành Lời Chúa để làm chứng cho Chúa trong cuộc sống thường ngày, góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Tin Mừng và tích cực bênh vực và truyền bá đức tin cho mọi người; Bí tích Truyền chức thánh mời gọi người lãnh nhận phải giữ luật độc thân và khiết tịnh; Bí tích Hôn phối mời gọi hai người phối ngẫu phải giữ luật đơn hôn và vĩnh hôn, đồng thời phải yêu thương nhau, sinh sản và giáo dục con cái.
Từ khi được Đức Giêsu trao phó Vườn nho, Giáo hội đã cố gắng chu toàn bổn phận chăm sóc và giữ gìn qua sứ mạng ngôn sứ, tư tế và mục tử. Nhưng chắc chắn trong lòng Giáo hội vẫn còn có những vị lãnh đạo chưa chu toàn bổn phận của mình, vẫn còn có những con dê đội lốt chiên. Đặc biệt, nhìn vào cuộc sống của mỗi người chúng ta,nhiều khi chúng ta vẫnchưa sử dụng hết khả năng và ơn lành của Chúa để sinh hoa kết trái trong cuộc đời: Đó là những khi chúng ta không chu toàn bổn phận làm linh mục, bổn phận tu sĩ, bổn phận vợ chồng, bổn phận cha mẹ, bổn phận làm con cái, bổn phận ngôn sứ, tư tế và mục tử. Trái lại, nhiều người trong chúng ta vẫn còn sinh ra những thứ hoa dại: Đó là tội lỗi, gương mù gương xấu, làm thiệt hại cho Giáo hội, cho Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi thành phần trong Giáo hội biết chu toàn bổn phận ngôn sứ, tư tế và mục tử. Xin cho mỗi chúng con luôn biết sử dụng những nén bạc Chúa giao để sinh lợi cho Chúa bằng những việc lành phúc đức, góp phần làm cho vườn nho của Giáo hội và của chính mỗi người chúng con được sinh bông hạt. Amen.

21. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
DÙ CON NGƯỜI BẤT TRUNG, THIÊN CHÚA VẪN MỘT LÒNG TRUNG TÍN
Tiếp theo dụ ngôn “Hai người con”: Người cha sai hai đứa con vào làm vườn nho (x. Mt 21, 28-32). Đức Giêsu kể cho thượng tế và kỳ lão nghe dụ ngôn “Những tá điền sát nhân” (x. Mt 21, 33-43). Quả thật, Vườn nho của Chúa là nhà Israel, Thiên Chúa đã tuyển chọn và coi như một vườn nho đặc tuyển được Chúa chăm sóc, bảo vệ, (“Bài ca vườn nho” – Is 5, 1-7) là một bằng chứng: “Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel, và người Giuđa là chồi cây Chúa vui thích” (Is 5, 7). Tình yêu của ông chủ với vườn nho, hay cụ thể là mối tình giữa Thiên Chúa với Dân Ngài thật đậm đà, thắm thiết. Thiên Chúa đã không tiếc gì đối với dân: “Người tôi yêu có một vườn nho trên đồi xinh tươi. Người rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn, và trông mong nó sinh quả nho” nhưng hỡi ôi, “nó lại sinh toàn nho dại” (Is 5, 2).
Điều gì phải đến sẽ đến, ông chủ “sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị giầy đạp. Ta sẽ bỏ nó hoang vu, không cắt tỉa, không vun xới; gai góc sẽ mọc lên, và ta sẽ khiến mây không mưa xuống trên nó” (Is 5, 5-6). Ngụ ý nói: “Thiên Chúa trông mong Israel thực hành đức công bình, nhưng đây toàn là tiếng kêu oan” (Is 5, 7). Theo lẽ thường, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống Israel. Nhưng Thiên Chúa “không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải” (2 Pr 3, 9). Nên, mới giao vườn nho cho những tá điền chăm sóc (x. Mt 21, 33-43).
Gọi vào làm vườn nho và chăm sóc vườn nho là sáng kiến của Thiên Chúa. Ngài đã chọn dân Israel. Ngài tin tưởng và ban cho dân những điều kiện để sống xứng đáng trong Vương Quốc của Ngài. Ngài gọi dân vào làm vườn nho thể thiện tương quan đặc biệt giữa Ngài với dân. Việc trồng nho lấy quả, ép rượu, theo truyền thống Kinh Thánh là dấu hiệu của niềm vui phồn thịnh.
Thiên Chúa lấy tình yêu mà chăm sóc dân Chúa để nó sinh nhiều trái tốt, là sống công chính hoan lạc trong tình yêu. Cây nho sinh trái, thể hiện tình yêu từ Thiên Chúa xuống với con người, trung thành với lề luật Chúa là đáp lại tình yêu ấy. Yêu thương con người là sáng kiến của Thiên Chúa, vì Ngài đã chủ động yêu thương. Thảm kịch đối với dân được chọn là khước từ kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, cho dù bao lần Ngài dùng miệng các tiên tri không ngừng mời gọi dân hoán cải, thậm trí sai chính Con của Ngài đến kêu gọi, dân chúng vẫn chọn sự bất trung với Thiên Chúa, ngược đãi với Con Ngài.
Chúa Giêsu lấy lại và tiếp tục lời than của Thiên Chúa trong Isaia (x. Is 5, 1-7). Chính ở đó chúng ta gặp được chìa khóa cho dụ ngôn. Tại sao Thiên Chúa “trồng một vườn nho” và Thiên Chúa đến tìm những “hoa quả “ nào?
Những tá điền không trồng nho và chăm sóc vườn nho vì thương yêu vườn nho, nhưng vì lợi ích riêng của chính mình. Thiên Chúa thì khác. Ngài dựng nên con người và lập giao ước với con người, không phải vì lợi ích cho Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương và ích lợi cho con người mà thôi. Những hoa quả được trông đợi từ con người là tình yêu đối Thiên Chúa và sự công bình đối với những kẻ bị áp bức: tất cả là vì con người, chứ không phải cho Thiên Chúa.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Israel, đồng thời phác họa lịch sử tương quan của Thiên Chúa với toàn thể nhân loại chúng ta. Chúng ta có thể trách cứ dân Israel hay cha ông họ là những tá điền sát nhân, vì chẳng những từ chối tình yêu thương của Thiên Chúa mà còn giết hại chính Con Một Ngài. Coi chừng câu nói: “Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó”(Mt 21,38) lại là của chính chúng ta. Bởi lẽ, ngày hôm nay chúng ta phải nói rằng Chúa Giêsu đã “bị quăng ra ngoài vườn nho,” bị quăng ra ngoài bởi những người xưng mình là Kitô hữu, hay là có khi phản Kitô hữu. Những lời nói của những tá điền vườn nho dội lên không bằng lời thì cũng ít nhất bằng những việc làm trong xã hội tục hóa ngày nay. Nhân loại tục hóa muốn làm người thừa tự, làm ông chủ.
Chúng ta tự hỏi: Tôi đã chuẩn bị thế nào để Chúa Kitô sống trong tôi? Tôi đáp trả tình yêu vô biên của Chúa dành cho tôi bằng cách nào? Tôi đã tình cờ quăng Người ra ngoài nhà tôi, ngoài sự sống của tôi; nghĩa là tôi đã quên và không biết Chúa Kitô chăng?
Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín. Tình yêu của Ngài mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung của con người. Ngài tiếp tục sai chính Con Một Ngài đến trao nộp vì chúng ta để bảo đảm cho tới cùng tình yêu trao ban cứu độ thế gian.
Lịch sử nhân loại được hoàn tất nhờ cái chết trên Thập giá. Nhờ cái chết, Chúa Giêsu đã tiêu diệt sự dữ. Nhờ phục sinh, Thiên Chúa đã nâng con người lên bằng sức mạnh của tình yêu, Người đã tiêu diệt hận thù. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc ” (Mt 21, 42), đền thờ Thiên Chúa được phục hồi. Vườn nho trở nên Vương Quốc của Giao Ước Mới, vì Nước Trời không bị phá hủy, từ nay “ Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái” (Mt 21, 43).
Ông chủ vườn nho nói: “Chúng sẽ nễ con Ta” (Mt 21, 37). Giờ đây, Cha trên trời sắp sai Con của Người đến với chúng ta trong Bí tích Mình và Máu Người. Ta có hiểu sự cao trọng lúc này không? Ta có sẵn sàng đón tiếp Người với sự sùng kính mà Chúa Cha mong đợi không?
Hôm nay chúng ta đọc lại lịch sử Dân Chúa chọn để lên án sự loại bỏ Đức Kitô do Chúa Cha sai đến. Nhưng cũng ý thức về sự khốn cùng của chúng ta khi loại bỏ “viên đá góc”, lúc chúng ta có ý xây dựng thế giới này theo tiêu chí của chúng ta, tự coi mình là những ông chủ vườn nho của Chúa.
“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắt rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ. Amen” (Lời nguyện Nhập lễ).

22. Người thợ làm vườn nho
(Trích trong ‘Suy Niệm Hằng Ngày’)
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thuật lại dụ ngôn “Người thợ làm vườn nho”. Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để giúp người nghe dễ hiểu điều Ngài muốn nói về Nước Trời.
Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương của Thiên Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai phái các tiên tri đến dạy dỗ họ.
Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng, chăm nom săn sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn nho làm của riêng.
Mỗi người chúng ta hôm nay cũng là một tá điền mà Thiên Chúa giao phó cho một vườn nho, đó là những tài năng tinh thần, là của cải vật chất, để ta sinh thêm hoa lợi và mang về cho Người..
Thiên Chúa ban muôn hồng ân, là để ta phục vụ Chúa và anh em, chứ không phải để ta tìm tư lợi, danh vọng, và khoái lạc cho bản thân.
Thiên Chúa kiên nhẫn trước những xúc phạm, lầm lỗi của ta, là để ta có cơ hội hoán cải, chứ không phải để ta ngày càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên Chúa trao phó cho ta các tài năng là để ta sinh lợi cho phần rỗi của mình. Nếu ta không biết sử dụng ơn lành Chúa ban, thì Người sẽ cất đi và trao cho kẻ khác.
Sẽ đến ngày ta phải tường trình về công việc vườn nho mà Chúa đã trao phó cho ta. Sẽ đến ngày ta phải dâng lên Chúa những thu hoạch hoa lợi mà Người trông đợi. Bội thu hay mất trắng là hoàn toàn do công việc ta đang làm hôm nay.
***
Lạy Chúa! Xin cho con biết cộng tác vào vườn nho của Chúa, để làm trổ sinh nhiều hoa trái thánh thiện và làm cho Nước Chúa được nhiều người biết đến. Amen.

23. Từ vườn nho đến các tá điền: Hãy là chính mình
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Sau khi nghe câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể về “những tá điền sát nhân”, các Thượng Tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ và họ tìm cách bắt Người. Dân Chúa xưa, đặc biệt những người lãnh đạo, những người được gọi là đạo đức hẳn thuộc nằm lòng bài ca về vườn nho của Ngôn sứ Isaia (Is 5). Mẹ Hội Thánh lại trích cho chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất Chúa Nhật này. Trong khi Ngôn Sứ Isaia nhấn mạnh đến vườn nho là đoàn dân Chúa xưa, thì Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến những tá điền là những người lãnh đạo mà Chúa trao phó quản lý vườn nho. Dù là vườn nho hay là người quản lý thì điểm chung hướng đến, đó là: hãy trở nên chính mình. Nói nôm na là nho thì ra nho, quản lý thì ra quản lý.
Nho ra nho: Ngôn sứ Isaia đã minh nhiên nói rằng vườn nho chính là đoàn dân Chúa xưa và chúng ta có thể hiểu thêm mỗi người chúng ta là những cây nho, là những cành nho (x. Ga 15). Các khâu canh tác như làm cỏ, bón phân, tỉa cành sâu bệnh… thì chủ vườn nho là Thiên Chúa đã vuông tròn. Vấn đề còn lại là chính cây nho phải sinh hoa trái tốt tươi, ngọt ngào. Theo kinh nghiệm nông gia, khi đã đủ đầy các điều kiện tự nhiên và sự chăm bón thì chuyện sinh hoa kết trái của cây trồng, hệ tại ở khả năng cây “hấp thụ dinh dưỡng” từ đất, từ trời và hệ tại ở việc cây “giảm phát sinh để tăng phát dục”, nghĩa là giảm đâm cành, mọc lá mới để tăng ra hoa, kết trái.
Đề hấp thụ dinh dưởng từ trời đất thì chính chúng ta, những cây nho, tiên vàn phải gắn bó, kết hiệp với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một trong những phương thế tuyệt hảo để kết hiệp với Thiên Chúa. Để gia tăng hoa trái tốt lành thì việc hãm mình hy sinh là điều không thể thiếu. Như thế để nho ra nho nghĩa là sinh hoa trái ngọt ngào thi Kitô hữu chúng ta cần chuyên chăm cầu nguyện và hy sinh hãm mình. Hằng năm cứ đến mùa Chay thánh thì đề tài ăn chay cầu nguyện được nhấn mạnh và chúng ta nghiệm thấy ngay các hoa trái trổ sinh.
Quản lý ra quản lý: Người quản lý là người được trao phó một sự gì đó. Một việc gì đó để bảo quản, giữ gìn, chăm nom và dĩ nhiên theo tiêu chí mà người chủ yêu cầu. Các tá điền trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể được hiểu như là những người quản lý. Và tiêu chí người chủ đưa ra là đến kỳ thu hoạch, vườn nho phải sai hoa, mộng trái. Theo chiều kích xã hội thì những người quản lý là những người được giao phó các chức vụ của công quyền. Họ được trao phó đoàn dân của một tập thể, của một đất nước… Theo chiều kích tôn giáo, thì những người quản lý là những vị mục tử. Họ đuợc trao phó đoàn chiên là các tín hữu của tôn giáo mình. Dù là các mục tử trong Hội thánh này Hội thánh kia hay là những người nắm giữ công quyền trong xã hội thì chỉ một mình Thiên Chúa là người chủ duy nhất. Thánh Phaolô minh định điều này khi nói rằng các chính quyền hợp pháp đều là do Chúa đặt định (x.Rm 13,1)
Trong khoảng thời gian chờ đến mùa vụ, thì ông chủ thỉnh thoảng sai gia nhân của mình đến nhắc nhở những người quản lý về bổn phận và trách vụ của họ. Và bên cạnh đó chắc chắn có sự đánh giá về những gì mà những người quản lý đang thực thi. Tốt thì khen và khích lệ. Xấu thì chê và phê bình sửa sai. Trong lịch sử dân Chúa xưa, các ngôn sứ chính là những gia nhân mà ông chủ vườn nho đã sai đến. Thay vì nghe những ý chỉ của Thiên Chúa qua các sứ ngôn thì những người tá điền là nhưng người quản lý đã bách hại các ngài.
Thiên Chúa, người chủ vườn nho vẫn kiên trì nhẫn nại đến cùng. Người đã sai chính Con Một đến với hy vọng là những người quản lý kia sẽ nể mặt mà nghe theo. Thế nhưng sự tham lam đã làm cho tâm hồn những người quản lý thành ác độc. Họ đã nhẫn tâm giết chết Người Con Một của ông chủ. Tưởng rằng sẽ từ vị thế quản lý trở thành chủ nhân của vườn nho, nhưng họ đã lầm. Ông chủ sẽ tru di họ và trao vườn nho cho những người khác.
Câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã làm chột dạ những vị lãnh đạo DoThái giáo thời bấy giờ. Chuyện dụ ngôn này cũng đã ứng với nhiều triều đại vua chúa các nước trên thế giới. Chuyện dụ ngôn này cũng ứng với những chính phủ nắm giữ công quyền của các quốc gia. Và chuyện dụ ngôn này cũng đáng làm cho các vị mục tử giật mình tự kiểm.
Nho ra nho, quản lý ra quản lý. Nếu không thực là mình thì sẽ đến lúc phải bị loại trừ. Cành nho nào sinh hoa trái sẽ được chăm bón để trái hoa xum xuê thêm nhiều. Cành nào không sinh trái thì phải bị chặt đi. Nó sẽ khô héo và người ta sẽ bỏ nó vào lửa mà thiêu đốt đi (x.Ga 15,6). Người quản lý nào chuyên chăm cứ đến giờ mà phân phát lúa thóc cho kẻ ăn, người ở, thì sẽ được ân thưởng khi chủ về. Trái lại viên quản lý nào chểnh mảng, mãi mê chơi bời ăn uống mà bỏ bê bổn phận, thậm chí còn hành xử bạo lực với người dưới quyền, thì sẽ bị chung số phận với quân bất lương, ở nơi phải khóc lóc và nghiến răng (x.Lc 12,41-48).

24. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
TRỞ THÀNH NGƯỜI THỢ CÓ TRÁCH NHIỆM
TRONG VƯỜN NHO CỦA CHÚA
Dịp tháng 5/2014, khi Trung Quốc đem giàn khoan vào vùng biển Việt Nam, đã tạo nên một làn sóng phản đối dữ dội ở mọi tầng lớp người dân. Tại các khu công ngiệp, công nhân đã phản ứng một cách thái quá, và trút sự căm thù xuống trên chính các công ty của mình, nơi mình đang làm việc để kiếm sống. Công nhân đã xông vào các công ty Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan đập phá, đốt xưởng. Ở Bình Dương, công nhân tràn vào nhà máy để phá và hôi của của công ty. Họ hể hả vì lấy được những món hàng từ trong công ty. Có những người không ngại ngùng để đưa mặt mình vào ống kiếng khi bị quay cảnh cướp của ấy. Hậu quả là công ty phải đóng cửa, công nhân không còn chỗ làm việc, những người ăn cắp bị ghi hình phải ra hầu tòa, phải đem đồ đến trả lại cho công ty trong sự xấu hổ. Sự kiện trên cho thấy rằng hầu như công nhân làm việc trong công ty từ trước đến nay không hề tỏ ra có trách nhiệm với công ty và làm việc thiếu lòng yêu mến đối với công việc và nơi mình làm việc nên mới xảy ra những sự việc đáng tiếc như thế. Cuối cùng, người thì bị đuổi việc, kẻ thì ở tù, còn Chính phủ bị bắt vạ phải bồi thường cho các công ty đó.
Thưa quý OBACE, khi làm việc mà người thợ không cảm thấy mình có trách nhiệm với công việc, thì chính họ sẽ biến mình thành kẻ phá hoại. Cũng vậy, khi họ làm việc mà không có lòng yêu mến thì cũng không khác gì kẻ nô lệ, và có khi biến mình thành kẻ cướp, kẻ ăn cắp ngay trong công việc của mình. Sự kiện nên trên không chỉ xảy ra ngày nay, mà cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu cũng đã kể một câu chuyện tương tự.
Có một chủ nhà có một vườn nho, ông chăm sóc, rào giậu chung quanh, xây bồn ủ nho. Ông cho tá điền canh tác rồi trẩy đi xa. Đối với người Do Thái ngày xưa, vườn nho là một tài sản lớn, người ta yêu quý vườn nho như là con cái, là gia nghiệp của mình. Vì thế, khi trao vườn nho lại cho tá điền canh tác, ông chủ đã hết sức tin tưởng, trao phó cả cơ nghiệp của mình cho những tá điền này. Tuy nhiên, bọn tá điền đã bộc lộ ý đồ muốn chiếm đoạt vườn nho của ông chủ. Khi ông sai đầy tớ đến thu hoa lợi, bọn tá điền đã đánh đập, nhục mạ, giết chóc đầy tớ. Đã nhiều lần chúng đối xử với ông chủ và với những người được sai đến như thế, nhưng ông chủ vẫn hết sức khoan dung và kiên nhẫn với bọn tá điền. Cuối cùng, ông đã sai chính con trai duy nhất của ông đến, bọn tá điền đã bộc lộ rõ âm mưu chiếm đoạt vườn nho khi chúng bàn với nhau: Đứa con thừa tự đây rồi, nào ta giết nó đi và đoạt lấy gia tài của nó.
Israel chính là vườn nho của Thiên Chúa, là gia nghiệp của Chúa được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn. Ngài hết mực yêu thương Israel như đã được diễn tả qua bài ca về vườn nho trong sach Isaia: Tôi xin hát tặng bạn thân tôi bài ca về vườn nho của mình. Bạn tôi có một vườn nho màu mỡ trên sườn đồi, anh vun tưới cày cuốc và trồng vào đó những giống nho tốt. Anh dồn hết bao công sức cũng như kỳ vọng vào vườn nho này, nhưng nó lại không đáp lại sự mong đợi của anh, nó sinh ra trái nho chua nho dại. Vì thế, ông sẽ để cho nó bị tan hoang, heo rừng vào phá phách, cỏ dại mọc um tùm. Bài ca này nói lên tâm trạng và sự chờ đợi của Thiên Chúa nơi dân Israel. Ngài mong họ trổ sinh hoa trái yêu thương, hành động công bình, nhưng họ lại sinh ra những quả gian ác, những trái bất công. Kể câu chuyện trên, Chúa Giêsu đã muốn nhắm tới các thượng thế và luật sĩ. Họ chính là những tá điền được Thiên Chúa trao cho trông coi, canh tác vườn nho là Israel, nhưng những người này đã không làm tốt trách nhiệm của mình, còn đối xự tệ bạc với Thiên Chúa là ông chủ và muốn biến vườn nho Israel làm của riêng mình.
Những người trước đây được sai đến để thu hoa lợi là các ngôn sứ, những vị này được sai đến để giúp Israel điều chỉnh lại cuộc sống, kêu gọi thay lối sống gian tà bằng sống công bình bác ái, nhưng các ngôn sứ đã bị các tá điền là các thượng tế và luật sĩ tìm cách loại trừ, nhục mạ. Sau cùng, Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài là Đức Giêsu đến với họ, thì họ đã đối xử với người con ấy không khác gì những tá điền trong câu chuyện. Họ hành hạ, giết chết Ngài và quăng xác ra khỏi vườn nho. Trong câu chuyện, Chúa Giêsu cho thấy sẽ đến ngày Thiên Chúa là ông chủ sẽ loại trừ họ, đuổi họ khỏi vườn nho và trao vườn nho cho những người thợ trung thành, có trách nhiệm, hết lòng yêu mến làm việc và sinh hoa lợi cho Thiên Chúa.
Vườn nho ngày xưa đã đã bị bỏ hoang và Thiên Chúa đã thiết lập nên vườn nho mới là Giáo Hội, được trao cho những tá điền mới. Chúng ta là giống nho mới được tháp nhập vào thân cây nho là Đức Giêsu, được trồng trong mảnh vườn của Giáo Hội, được chính Thiên Chúa làm chủ canh tác và các cộng tác viên của Ngài là các thừa tác viên được tuyển chọn để chăm sóc cho vườn nho. Đồng thời, mỗi người chúng ta cũng là những tá điền được Thiên Chúa tín nhiệm trao cho việc chăm sóc vườn nho của Chúa. Vì thế, với trách nhiệm và với hết lòng yêu mến, chúng ta được mời gọi làm việc liên lỉ để sinh thật nhiều hoa trái tốt cho Chúa.
Là cành nho, chúng ta sẽ phải sinh trái nào? Thánh Phaolô đã chỉ cho chúng ta trong bài đọc hai: Trong mọi hoàn cảnh, hãy biết tạ ơn Thiên Chúa và không ngừng giải bày những tâm tình nguyện xin. Tạ ơn vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn, cho chúng ta được nhận biết Ngài, sống theo giáo huấn của Ngài, được tôn thờ Ngài, được hưởng ơn cứu độ. Đây chính là niềm vui đầy tràn trong tâm hồn và được biểu lộ ra bên ngoài. Dù cuộc sống bên ngoài còn nhiều khó khăn, thử thách cũng không thể làm vơi cạn niềm vui thánh thiện trong tâm hồn của chúng ta. Kế đến, phải sinh những hoa trái là: Sự chân thật cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen, thì anh em hãy để ý mà thực hành.
Như vậy, với tính cách là những cây nho được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và vun trồng trong vườn nho Hội Thánh, chúng ta cần phải biết tận dụng cơ hội Chúa ban để sinh hoa kết trái trong cuộc đời của mình. Cần phải sinh những hoa trái như Thiên Chúa mong muốn và kỳ vọng nơi mỗi chúng ta. Điều Chúa mong đợi nhất nỗi người là sinh những hoa trái ngọt ngào yêu thương. Hãy dâng tặng cho Chúa lòng yêu mến, biết ơn của mình bằng sự gắn bó, trung thành với Chúa, với giới răn, lề luật của Chúa. Hãy bày tỏ lòng biết ơn qua việc dâng thánh lễ mỗi ngày. Hãy sinh những hoa trái là những việc lành, việc tốt cho gia đình, cho lối xóm và cho cả xã hội này. Đừng bao giờ trở thành những trái chua, trái đắng cho nhau. Hãy mạnh dạn loại bỏ những trái tham lam, ích kỷ, nhỏ nhen, và hãy trao cho nhau những hoa quả ngọt ngào yêu thương. Khi mỗi người cùng trổ sinh những hoa trái như thế, chúng ta sẽ làm biến đổi xã hội này và thế giới này, và cuộc sống cộng đoàn, xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Trong tư cách là những người thợ được Thiên Chúa tín nhiệm trao phó cho vườn nho của Ngài, mỗi người tùy theo địa vị và ơn gọi của mình, hãy làm việc với hết khả năng, hết sức lực và nhất là hãy làm việc với tất cả tinh thần trách nhiệm và lòng yêu mến để đem lại nhiều hoa trái cho Chúa. Chúng ta được sai vào vườn nho rộng lớn là cả giáo hội, để ở nơi đây, chúng ta có bổn phận làm cho Tin Mừng được lan tỏa đến khắp nơi và đến với hết mọi người. Chung quanh chúng ta còn nhiều người chưa biết Chúa và Giáo Hội, chưa nghe nói về Tin Mừng Cứu độ. Chúng ta sẽ phải là những người giới thiệu hoa trái ngọt ngào này cho tất cả mọi người, để họ cũng được hưởng nếm niềm vui cứu độ của Chúa.
Là người thợ trong vườn nho là giáo hội địa phương tức là giáo xứ, hãy là những thành viên có trách nhiệm và có lòng yêu mến. Vì từ nơi môi trường giáo xứ, chúng ta được sinh ra trong đức tin, được nuôi dưỡng bằng ân thánh của Thiên Chúa qua các Bí Tích, qua thánh lễ được cử hành nơi đây. Cũng ở nơi môi trường giáo xứ, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc qua các chủ chăn là những người được sai đến phục vụ cộng đoàn. Hãy hết lòng chung tay góp sức, xây dựng cộng đoàn vườn nho địa phương. Hãy mạnh dạn bỏ đi những tự ái, cái tôi bè phái, chia sẽ để góp phần xây dựng sự hiệp nhất yêu thương. Đừng bao giờ có tham vọng loại trừ người khác và biến vườn nho này thành của riêng mình, bắt người khác làm theo ý mình, nhưng cần phải làm theo ý Chúa.
Là những người được trao cho chăm sóc vườn nho là các gia đình, các bậc làm cha mẹ sẽ phải trở thành những người có trách nhiệm làm cho vườn nho của gia đình mình trổ sinh hoa trái tốt lành. Hãy chăm sóc nhiều hơn cho những mầm nho là con cái được lớn lên trong bầu khí đạo đức của gia đình, của cha mẹ qua các giờ kinh sớm tối, qua gương sáng của cha mẹ. Hãy kịp thời uốn nắn để con cái được lớn lên trưởng thành về nhân cách cũng như trưởng thành trong đời sống đức tin, trở thành những Kitô hữu tốt, nhiệt thành.
Xin Chúa cho mỗi người ý thức trách nhiệm Chúa trao ban, để chúng ta chu toàn tốt nhiệm vụ của mình, cộng tác và làm cho vườn nho của Chúa ngày càng được mở rộng trên khắp mặt đất này. Amen.

25. Vườn nho của Chúa
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Tôi những mong trái tốt, mà sao vườn nho chỉ sinh nho dại” (Is 5,4).
Trong thơ văn Kinh Thánh, vườn nho là biểu trưng cho người được yêu. Ngôn sứ Isaia đã vay mượn hình ảnh của một vườn nho để hát một bài ca dâng tặng người yêu. Bài ca đó miêu tả việc Thiên Chúa yêu thương săn sóc dân của Ngài. Tuy nhiên cung điệu bài ca mau chóng chuyển thành lời ca thán người được yêu, như Isaia đã mô tả, vì vườn nho được săn sóc ân cần, nhưng chỉ sinh ra nho dại. Cuối cùng nó đã bị bỏ rơi và trở nên hoang tàn. Đức Chúa phán “Ta sẽ chặt phá hàng dậu cho vườn nên tan hoang. Ta sẽ đập đổ các tường bao, cho vườn bị giày xéo. Ta sẽ biến mảnh vườn thành đất hoang vu, không tỉa cành nhổ cỏ, cho gai góc mọc um tùm, và ta sẽ truyền lệnh cho mây đừng đổ mưa xuống”.
Thế thì, vườn nho sản sinh loại hoa trái nào? Isaia đã viết rằng, loại giống nho tốt đã được chọn lựa để gieo trồng, nhưng nó chỉ cho ra nho dại. Hạn từ trong tiếng Do Thái khi nói về nho dại, có một nguồn gốc mang ý nghĩa “hư hỏng, hôi thối”. Câu văn trong tiếng Hy lạp, nho dại còn mang chở thêm ý nghĩa là “gai góc” như trong trình thuật của Isaia. Như vậy vườn nho thay vì cho trái thơm trái ngọt, nó chỉ cho trái hư thối hay chỉ sản sinh gai góc. “Thiên Chúa kỳ vọng sự ngay chính, nhưng Ngài chỉ thấy toàn là đổ máu. Ngài chờ đợi sự chính trực, nhưng chỉ nghe tiếng khóc than” (Is 5,7). Vườn nho này chẳng còn giá trị gì. Tuy nhiên, những người thợ làm vườn có thể cải tạo và vun xới cho vườn nho. Vì thế, Isaia cũng nói về một viễn cảnh tương lai khi vườn nho sẽ xanh tốt trở lại, lúc mà “Giacóp sẽ bén rễ, Israel sẽ trổ nụ đơm bông, và mặt đất sẽ đầy tràn hoa trái (Is 27,6).
Trong dụ ngôn của bài Tin Mừng, Đức Giêsu trở lại với vườn nho. Hình như vườn nho bây giờ đang sản sinh những trái tốt, và ông chủ chuẩn bị cho thu hoạch. Cho dù vấn đề nho dại hay gai góc không còn được nói tới, nhưng vườn nho lại nảy sinh một vấn đề khác. Ông chủ giao phó vườn nho cho các tá điền chăm sóc và đi xa. Khi mùa gặt đến, ông sai những gia nhân đến gặp họ để thu gom hoa lợi. Nhưng các tá điền bắt các đầy tớ, đánh đập người này, ném đá người khác, thậm chí còn giết chết họ. Vườn nho ở đây là biểu trưng cho dân Israel, đang mang chở những hoa trái tốt lành, như Isaia đã tiên báo. Đồng thời, Đức Giêsu khai mở một viễn ảnh rộng lớn hơn, đó là Nước Thiên Chúa đang đến. Ông chủ vườn nho là chính Thiên Chúa, là người yêu trong dụ ngôn của Isaia, nhưng có những nhân vật mới xuất hiện so với vườn nho trong cựu ước, đó là các tá điền và những gia nhân của ông chủ.
Theo mạch văn trong Mt 21,45, các tá điền là những thượng tế và biệt phái, những người đã không được ủy thác sứ mạng thu gom hoa lợi khi mùa gặt đến. Họ không phải là những cây nho đã sinh ra trái xấu, nhưng dụ ngôn nói về họ như là những con người phản bội ông chủ, không đem hoa lợi về cho ông chủ khi ông sai phái những sứ giả đến vườn nho. Những đầy tớ được gửi tới là hình tượng ám chỉ các ngôn sứ trong cựu ước, giống như Isaia, mà những bài tình ca viết cho họ cũng chẳng làm sao lay động được con tim của họ, giống như tâm tưởng gian ác và chai lỳ của những tá điền. Sau khi đã sai gửi những đầy tớ, ông chủ gửi chính người con của mình đến với họ và nghĩ rằng “Họ sẽ kính trọng đứa con của ta”. Nhưng trớ trêu thay, các tá điền đã quyết định giết luôn anh ta để tiếm quyền sở hữu gia tài. Thế rồi Chúa Giêsu đưa ra câu hỏi “Khi ông chủ đến, ông sẽ hành xử thế nào đối với những tá điền như thế?” Các đầu mục Do Thái và người Pharisiêu trả lời, nhưng dường như họ không biết câu trả lời đó chính là tự kết án họ “Ông chủ sẽ tru diệt bọn chúng, và sẽ trao vườn nho cho người khác canh tác để đến mùa sẽ thu hoa lợi”. Đức Giêsu đồng ý với câu trả lời. Người nói với họ “Quả thật, tôi bảo các ngươi, nước Thiên Chúa sẽ được cất khỏi các ngươi và được trao cho một dân khác có thể làm sinh hoa lợi cho Vương quốc này”.
Bởi vì các tá điền không phải biểu trưng cho toàn dân, nên những người Israel vẫn còn là hình tượng của vườn nho được Chúa yêu thương, mà dụ ngôn của Isaia đã miêu tả. Nhưng vườn nho sẽ được giao cho những tá điền khác, tức là giao cho một dân khác để có thể đem lại trái trăng cho vương quốc nước trời.
Những người theo Đức Giêsu, hình thành một dân mới, gồm cả người Do Thái và dân ngoại. Nhưng họ có thực sự là những tá điền của vườn nho này hay không, còn tùy thuộc vào kết quả sinh lợi của vườn nho. Điểm nhấn của dụ ngôn không phải là vườn nho sẽ bị bỏ hoang như Isaia đã mô tả, nhưng là cần phải chăm sóc chu đáo những trái nho mà vườn nho đã sản sinh. Một cách mặc nhiên, chúng ta hiểu là trong dụ ngôn của Đức Giêsu, vườn nho đang cho những trái tốt. Đức Giêsu không hát lên một bài ca chiến thắng về những hoa trái mà vườn nho mang lại. Ngài cũng không đá động đến sự trổi trang nơi các môn đệ Ngài, nhưng Ngài cũng gợi nhắc lại bài ca tình yêu về vườn nho của Isaia cho nhóm độc giả rộng lớn hơn. Vườn nho được trải rộng. Mọi người chúng ta đều được đón mời đến làm vườn nho cho Chúa. Hơn nữa, có khi tâm hồn chúng ta ngập tràn trái nho dại, chúng ta cần phải đổi mới và sản sinh những trái nho thơm ngọt cho Vương quốc Nước Trời.

26. Tôi tớ hay kẻ tiếm quyền? – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Dụ ngôn các thợ vườn nho phản loạn thuộc vào loại dụ ngôn Chúa Giêsu tạo ra để tỏ bày thân thế của Ngài là Đấng Messia. Dụ ngôn này cũng cho thấy sự cô đơn bi thảm của Đức Kitô bị dân Người loại bỏ và chung quanh có những môn đệ mà lòng tin phát sinh khó khăn và hiện còn mỏng manh. Như thường lệ, Chúa Giêsu cấu tạo dụ ngôn từ thực tại mà Người nghe thấy trước mắt. Trong xứ Galilêa thời ấy, những điền chủ bỏ tiền vào việc trồng nho. Họ giao cho thợ làm nho trông coi rồi trả lương. Đôi khi họ đi xa, ra cả nước ngoài và để việc quản lý mùa màng lại cho những phái viên họ sai đến với các thợ làm nho. Theo luật Do thái nếu chủ một thửa đất chết đi mà không có người thừa kế, đất ấy thuộc về người nào chiếm ngụ đầu tiên. Điều này cho ta hiểu lý luận của các thợ vườn nho: Con thừa tự đấy, giết nó đi, chúng ta sẽ chiếm được gia tài của nó. Quả thực, con thừa tự mà chết, đất thành vô chủ và thuộc quyền những kẻ cư ngụ. Qua dụ ngôn này, và trong đoạn nói tiếp nhắc lại hình ảnh viên đá góc bị thợ xây loại bỏ, Chúa Giêsu muốn cho hiểu rằng chính Ngài là người con trai bị thợ làm vuờn nho giết đi và là viên đá góc. Trong tâm trí người đọc sách phúc âm vào thời Mt viết ra, cũng như trong tâm trí chúng ta, tất cả câu chuyện kết thúc bằng việc Chúa Con sống lại, để giải cứu gia tài Ngài, là toàn thể nhân loại và đã trở thành viên đá chính trong việc xây dựng nước trời. Dụ ngôn này đặt ra cách quyết liệt câu hỏi sau đây: Làm sao các người hữu trách dân Do thái lại đã tới chỗ loại bỏ Đấng Messia?
1) Họ đã hướng theo bản năng chiếm hữu. Chủ vườn nho là hình ảnh Thiên Chúa, thủ lãnh duy nhất và Cha của dân tộc Do thái. Việc các lãnh tụ của dân chiếm hữu nằm ở chỗ họ áp đặt quan niệm riêng và lề luật. Họ dùng lề luật để thống trị dân, họ còn có cao vọng dùng dân tộc được chọn để đạt tới chỗ thống lãnh thế giới. Các vị tiên tri đã đến và chính Con Thiên Chúa cũng đã đến để nhắc nhủ rằng, lề luật thuộc riêng mình Thiên Chúa và dân không phải là sở hữu của những kẻ cai trị, nhưng là của Thiên Chúa mà thôi. Họ đã giết các tiên tri và cuối cùng đã giết luôn Con Thiên Chúa. Họ đã tới chỗ loại bỏ Đấng Messia bởi vì thay vì phục vụ lề luật và dân, họ đã chiếm hữu, coi mình là chủ lề luật và dân. Một câu hỏi: liệu chúng ta có thoát khỏi thái độ tự coi là người làm chủ Chân lý?
2) Làm thế nào để phục vụ Chân lý Phúc Âm mà không chiếm hữu? Bằng cách hãy để cho Phúc Âm thâm nhập và cải tạo chúng ta, chứ không phải đọc rồi sắp xếp Phúc Âm theo ý chúng ta. Ngày xưa các thày thông luật lèo lái sự trông mong của dân đến những ước vọng thống trị trần gian. Ngày nay, phải chăng không có những nhà trí thức xử dụng Phúc Âm để quảng bá hệ thống chính trị của họ, các quan niệm về xã hội của họ dầu cho đó là bảo thủ hay là cách mạng? Người ta không có quyền cư xử như chủ nhân Phúc Âm và dùng Phúc Âm như mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu đi đến Chúa Giêsu Kitô trong đức tin. Nhiều người tiếm hữu Phúc Âm mưu lợi cho ý tưởng của họ, như các ký lục ngày xưa tiếm hữu lề luật, cuối cùng đi tới chỗ phủ nhận con người Đức Kitô. Phúc Âm mời gọi chúng ta xây dựng cuộc sống trên viên đá sống động là Chúa Giêsu Kitô, Đấng chúng ta lắng nghe, tìm kiếm và yêu mến. Không ai làm chủ Đức Kitô, chúng ta tất cả đều phục vụ cho Phúc Âm của Ngài mà chúng ta chỉ là người lãnh nhận.

27. Chúa Giêsu vẫn còn hiện diện với chúng ta
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Nếu Chúa Giêsu đã đến trái đất này cùng một cách như Người đã đến lần đầu tiên, bạn thử nghĩ xem Người sẽ được tiếp bạn ra sao? Sự tiếp đón ngày hôm nay của chính xứ sở bạn có khác với những gì đã xảy ra ở Giudea vào những thế kỷ trước không?
Chúa Giêsu đã đến thế gian sau những lời tiên báo của một loạt các tiên tri trong kỷ nguyên Cựu Ước nhưng chúng đã bị dân chúng thời đó coi thường và phớt lờ đi. Họ đã xử sự giống như những người nô lệ trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể trong bài Phúc âm hôm nay. Những nô lệ này đã đối xử cách đáng xấu với những người làm công mà chủ sai đến lấy phần thu của ông. Thật kinh tởm, khi người khi chủ sai chính con trai của ông, vì ông hy vọng rằng họ sẽ nể ông, nhưng họ đã giết luôn đứa con trai của ông.
Chúng ta không cần phải tưởng tượng gì thì cũng nhận ra người con mà dụ ngôn nhắc đến chính là Chúa Giêsu. Hôm nay có gì mới không? Chúa Giêsu sẽ đến đổi mới thế giới đau khổ và tàn tệ mà Người đã chịu đựng hai mươi thế kỷ trước không?
Không phải tưởng tượng nhưng chúng ta cần đức tin để trả lời cho câu hỏi này. Theo đức tin công giáo của chúng ta, sự thật là Chúa Giêsu đang đến giữa chúng ta,đặc biệt là nơi người hất hủi, bị khinh bỉ và những phần tử nghèo nàn cơ cực trong xã hội của chúng ta.
Chúa Giêsu đến trong ngôi vị của một thai nhi trong dạ mẹ. Người đang cố gắng để được sinh ra một lần nữa vào trong thế giới của chúng ta, nhưng phong trào phá thai đang loại bỏ Người bằng cách huỷ diệt Người ngay tại nơi được coi là cung thánh an toàn nhất trên mặt đất này, là nơi dạ người mẹ. Có phải Thiên Chúa Cha sẽ nói như người chủ đất hôm nay: “Chắc họ sẽ kính trọng con trai ta”.
Theo lịch sử, Chúa Giêsu đã sinh ra tại Bethlehem, âm vang cái tên thành phố. Bên trong câu chuyện nhẹ nhàng ở Bethlehem là một thú nhận bi thảm về gia đình Thánh: “ Không có phòng cho họ nơi quán trọ”. Thật ra, Mẹ Maria và Thánh Giuse là những người dân nhập cư. Họ từ Nazareth, một nơi phương Bắc xa xôi. Cho dù Chúa Giêsu đã sinh ra nơi thành phố của tổ tiên là Bethlehem, người cũng đã bị đối xử như một người ngoại quốc. Các quán trọ có thật đã chật chỗ không? Hay đơn giản hơn là họ đã không được tiếp đón? “Không có phòng cho họ”.
Ngày hôm hay Chúa Giêsu vẫn còn cố gắng để được chúng ta tiếp đón trong những người dân nhập cư đến với đất nước của chúng ta, những người con cái Chúa này bị loại bỏ như những người ngoại quốc, cho dù họ đã đến một miền đất giống như tất cả trái đất đều thuộc về Thiên Chúa là Cha của họ.
Đời sống công khai của Chúa Giêsu đầy dẫy những chống đối vì những lời rao giảng và giáo huấn của người. Sự thương xót của Người dành cho dân nghèo và người đau ốm làm dâng cao sự căm phẫn bởi vì Người đã làm những công việc tốt lành vào ngày Sabath. Lời hứa về Thánh Thể của Người đòi hỏi những người lắng nghe Người một là chấp nhận người, hai là loại bỏ Người. Nhiều người đã xoay lưng và bỏ đi. Sự loại bỏ biến thành oán ghét, và oán ghét làm cho điên cuồng, họ đã đóng đinh Chúa Giêsu như là một tội nhân.
Có phải đây là một cú nhảy đức tin quá nhiều để chúng ta nhìn về Chúa Giêsu trong một đội nhân không? Nếu như thế, ít nhất chúng gta không nhớ lời Chúa Giêsu đã tha thứ cho trộm lành có lòng hối cải và tha thứ cho những người đã đóng đinh Người ư? “Họ không biết việc họ làm?” Chúng ta có biết việc chúng ta đang làm cho chúng ta thích phạt và khuyến khích một hành động dẫn chúng ta tới tình trạng dã man không?
Một dụ ngôn Chúa Giêsu đã nói khi xưa vẫn có ý nghĩa với chúng ta hôm nay nếu chúng ta khiêm nhường đủ để cho nó thách đố chúng ta bằng những vấn nạn giống như nhiều người đồng hương của chúng ta, chúng ta yếu ớt trong việc tìm kiếm Chúa trong tha nhân.

28. Chăm sóc vườn nho – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri.
Ông chủ vừa trồng xong vườn nho. Ông rất yêu qúy vườn nho của mình. Chung quanh vườn, ông rào cẩn thận. Ở giữa vườn, ông cho đào một bồn ép làm rượu. Ông còn cho xây một cây tháp cao để canh giữ kẻ gian. Ông chăm sóc vườn nho thật chu đáo.
Ông chủ có lòng nhân ái với các tá điền. Họ vốn là những người nghèo khổ, không “một tấc đất cắm dùi” nên ông thương tình và muốn giúp họ sinh sống. Ông chủ thật quảng đại, thay vì chỉ thuê và trả theo lương công nhật, ông lại tin tưởng và giao toàn quyền vườn nho cho họ chăm sóc và trẩy đi phương xa. Các tá điền vui mừng được canh tác theo ý mình. Đến mùa, họ chỉ cần nộp một phần nhỏ hoa lợi cho chủ là xong trách nhiệm. Nhưng con người có lòng tham không đáy “được voi đòi tiên”. Dù đã được hưởng phần lớn hoa lợi nhưng họ còn muốn sở hữu luôn cả vườn nho để khỏi phải nộp một phần hoa lợi nào cả! Do đó, khi thấy các đầy tớ ông chủ sai đến để thu hoa lợi như đã hợp đồng, chẳng những họ đã không nộp mà còn hành hạ đánh đập, thậm chí ném đá để giết hại các người đầy tớ đó. Thấy vậy, ông chủ vẫn kiên nhẫn sai thêm một số đầy tớ khác đông hơn trước đến, nhưng số phận của những người này cũng không khá hơn những đầy tớ đến trước. Cuối cùng, ông chủ còn sai người con trai duy nhất đến, với hy vọng bọn tá điền sẽ tôn trọng con trai mình. Nhưng bọn tá điền thấy con trai ông chủ liền bàn nhau giết luôn người thừa tự kia để chiếm đoạt vườn nho cho mình.
Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi về thái độ của ông chủ vườn đối với bọn tá điền bất nhân ác đức kia là gì? Các thính giả nghe dụ ngôn đã đồng thanh trả lời: “Ác giả ác báo, ông chủ sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, nộp phần hoa lợi cho ông”. Chúa Giêsu kết luận bằng cách áp dụng vào chính họ: “Tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”.
Dụ ngôn là tóm lược toàn bộ Thánh Kinh về ơn cứu độ của Thiên Chúa. Vườn nho ám chỉ nước Thiên Chúa được trao cho dân Do Thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo, đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là hàng loạt các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc bị giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, nước Thiên Chúa được chuyển sang một quốc gia khác là Hội Thánh, một dân phổ quát và Công giáo, sẽ lan rộng đến tất cả mọi quốc gia.
Dụ ngôn vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Dụ ngôn diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ.
Dụ ngôn nói tiên tri về đạo Chúa sẽ lan rộng khắp các dân tộc. Hơn nữa, dụ ngôn cũng cho thấy rõ thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu. Những người được sai đến trước Ngài, dù nổi tiếng như Êlia, Isaia, Giêrêmia, Gioan Tiền Hô… cũng chỉ là đầy tớ, còn Ngài mới là con trai duy nhất của Chúa Cha.
Mỗi người chúng ta là một tá điền, Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho. Đó là những ơn phúc. Mỗi người có bổn phận phải đem hoa lợi về cho Chúa. Mỗi người hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc mình làm.
Những ơn phúc Chúa ban như sự sống, tài năng, sức khỏe, của cải vật chất, chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau không ai giống ai, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng đó.
Thiên Chúa trao cho chúng ta công việc chăm sóc vườn nho của Ngài. Thiên Chúa không ngừng sai những sứ giả đến để nhắc nhở hãy tích cực chăm sóc vườn nho. Vì thế mỗi người có bổn phận biết ơn là dâng lại cho Ngài những điều tốt đẹp, những chùm nho ngon ngọt của việc làm tốt mà chúng ta phải thực hiện trong cuộc sống hằng ngày.
Xin Chúa giúp chúng con luôn biết siêng năng làm việc, chu toàn bổn phận hàng ngày. Xin cho chúng con biết sử dụng tài năng, sức lực, thời giờ, của cải Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và sự nghiệp đức tin trên Nước Trời. Amen.
Câu chuyện suy gẫm.
Khi giảng về việc giữ ngày Chúa nhật, một linh mục Trung hoa đã minh họa bằng câu chuyện sau đây: “Một bà kia đi chợ mang theo 7 quan tiền trong túi áo. Khi tới chợ, bà trông thấy một người đàn ông bị què, áo quần rách nát, đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Bà thấy tội nghiệp nên đã móc túi ra cho hắn 6 quan tiền và chỉ giữ lại duy một quan đi chợ. Nhưng tên ăn mày này vốn tham lam, thấy bà ân nhân vẫn còn một quan tiền ở trong túi, hắn ta liền bám sát theo và nhân cơ hội bà sơ ý, hắn ta đã ăn cắp nốt quan tiền còn lại. Khi nghe câu chuyện về tên ăn mày tham lam này, có lẽ ai trong chúng ta cũng nghĩ hắn ta đúng là một tên mạt rệp đáng khinh bỉ và trừng phạt!”.
Rồi vị linh mục đặt vấn đề với cộng đoàn: Còn chúng ta thì sao? Trong một tuần lễ, Chúa đã ban cho chúng ta 6 ngày lao động kiếm ăn, thế mà còn duy một ngày Chúa nhật để ta dành ra mà nhớ đến Chúa, làm các việc thờ phượng kính mến Chúa và các việc bác ái phục vụ tha nhân, nhưng nhiều khi chúng ta đã tiếc xót, vẫn làm việc thêm mong kiếm nhiều tiền cho đầy túi tham! Như vậy, chúng ta sẽ là hạng người nào?

29. Có một chủ vườn kia
“Chủ vườn” là từ quan trọng trong dụ ngôn này, cùng với một từ khác tương ứng với từ đó: “hoa trái”. Người chủ vườn này muốn có những hoa trái đặc biệt. Với lòng quan tâm chăm sóc, ông trồng một vườn nho và mong đợi một mùa thu hoạch tốt đẹp, nhưng các tá điền không có vẻ gì là hoạt động cả. Chủ vườn sai đầy tớ tới: tá điền giết chết họ. Thế là chủ vườn thực hiện một hành vi điên rồ: ông sai chính con trai của mình đến và con trai ông cũng bị giết.
Chúng ta biết rằng người con trai này chính là Chúa Giêsu, nhưng vườn nho này là vườn nho nào? Những thợ làm vườn nho là ai? Chúng ta phải làm gì trong câu chuyện này?
Từ một vườn nho ở trên một sườn đồi, dụ ngôn kể chuyện những tương quan giữa Thiên Chúa và con người, điều mà Tin Mừng gọi là Nước Trời: “Ta sẽ là Chúa của các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta”, Chúa đã nói như thế. Đây là món quà đẹp nhất của Thiên Chúa, ông chủ của mọi sự, người thầy của mọi sự.
Thiên Chúa mong ước ban Nước Trời cho chúng ta. Là tình yêu Thiên Chúa muốn làm cho tất cả mọi người thành một dân tộc của tình yêu. Điều này muốn nói lên hai điều luôn luôn liên kết với nhau một cách chặt chẽ: một dân tộc gồm những con cái được Thiên Chuá yêu thương và yêu thương Thiên Chúa; một dân tộc gồm những người anh em yêu thương nhau. Đó là vườn nho và đó là những mùa hái nho.
Để thực hiện dự định vĩ đại này, Thiên Chúa đã chọn một dân tộc nhỏ làm hạt giống, làm men, đó là Israel. Ngài đã giao phó vườn nho của Ngài, tức là dự án về Nước trời cho dân tộc này.
Thất vọng. Được các vị lãnh đạo tôn giáo dẫn dắt tồi, Israel không sử dụng cho đúng những đặc ân của mình. Chúa sai đến cho Israel những sứ ngôn, những tiên tri, nhưng nước này không nghe họ. Coi thường chủ vườn, các tá điền xấu tin rằng họ có thể một mình làm chủ vườn nho của Chúa. Họ chăm sóc vườn nho không tốt bởi vì các ân sủng của Thiên Chúa chỉ sinh hoa kết quả với Thiên Chúa mà thôi.
Trong một nhiệt tình yêu thương tối hậu, Thiên Chúa sai Con Trai của Ngài để dạy cho các thợ làm vườn nho biết cách làm cho vườn nho của Chúa sinh lợi, biết cách sống vì Nước Trời như thế nào. Nhưng hết rồi, vào cuối Tin Mừng, Chúa Giêsu nhận thấy rằng chính Ngài cũng không được lắng nghe, các nhà lãmh đạo dân chúng muốn bóp nghẹt tiếng nói của Ngài.
Thế rồi Ngài đưa ra một lời đe doạ hoàn toàn không khoan nhượng cho những ai tự xem mình là những người được ưu tiên vĩnh viễn, những người chủ của các ân sủng của Thiên Chúa. Cho tới lúc đó, Chúa thường đe doạ họ và thậm chí sửa phạt họ một cách nghiêm khắc, nhưng không hề có ai dám nói với họ rằng Thiên Chúa sẽ giao phó vườn nho của Ngài cho những người khác. Dầu sao thì đây cũng chính là ý nghĩa của dụ ngôn ghê gớm này mà những từ cuối cùng rơi xuống như một cái máy chém: “Nước Trời sẽ được cất khỏi các ngươi và sẽ được trao cho dân khác làm cho trổ sinh hoa trái”,
Lời đe doạ đã được thực hiện, người Kitô hữu tiếp tục sự nghiệp của người Do thái. Điều này không xoá bỏ sự vĩ đại của dân tộc đã được chọn đầu tiên và vẫn là một dân tộc được chọn này (Rm 11, 28-29). Dân Do thái vẫn tiếp tục loan báo Đấng Tối Cao bằng đức tin sâu xa và thường rất anh hùng của họ. Tiếp theo sau và cùng với dân Do thái chúng ta nên giòng mạc khải Do thái –Kitô giáo. Và dụ ngôn này phải làm cho chúng ta suy nghĩ về sự vĩ đại và trách nhiệm của chúng ta. Thật là một sứ mạng nặng nề! Sống tình yêu, loan truyền tình yêu khắp nơi, tạo ra những kết quả thực sự của Nước Trời. Chúng ta có xứng đáng không? Người Kitô hữu và những nhà lãnh đạo tín hữu có tỏ ra trên khắp thế giới như là những tá điền tốt, những thợ làm vườn nho tốt của ông chủ duy nhất của vườn nho hay không?

30. Hành động và phản ứng.
Những người Biệt phái không sẵn sàng trở lại. Đó là một thái độ thụ động. Nhưng đi xa hơn, họ bước sang hành động quyết định chống lại Đức Kitô. Trong ngụ ngôn thợ làm vườn nho, Thày chí thánh đã mô tả cho chúng ta như sau: Israel là một dân gồm những mục tử và nông dân. Các dụ ngôn Phúc âm là những hình ảnh thu nhặt trong đời sống đồng áng. Trước kia nơi các tiên tri và các thánh vịnh, quốc gia này đã được so sánh với một vườn nho được Thiên Chúa vun trồng săn sóc đặc biệt. Chúa chờ hái lượm những chùm nho chĩu nặng tức là mong thấy bay tỏa hương thơm đạo đức và lòng tùng phục Thiên Chúa. Nhưng ít khi Chúa mãn nguyện. Bây giờ, khi Chúa đến, giờ quyết định của dân tộc đã điểm.
Đó là giờ quyết định thực sự! Bổn phận mà Israel chu toàn lại bị coi như là một cố gắng vô ích sao? Quả thực các vị thủ lãnh dân tộc có một đời sống tôn giáo nông cạn khô khan. Ngoài ra họ bắt đầu công kích Chúa, mặc dầu Ngài đã góp công phục hưng quốc gia. Cha ông họ đã giết các tiên tri, những thừa sai của Thiên Chúa, còn chính họ là con cái lại quyết định giết Chúa.
Theo phương diện lịch sử, giờ quyết định đã điểm vì tất cả quá khứ của Israel hướng về ngay vị cứu tinh xuất hiện. Tất cả những hy vọng quy về vị cứu tinh là tột đỉnh mong đợi. Đây Chúa Cứu Thế đã đến và số phận dân tộc đã biểu lộ. Các thủ lãnh đều có trách nhiệm về điều đó. họ tự quyết chống lại Ngài, vì họ muốn một vị khác đáp lại những đòi hỏi sai lầm của họ. Họ không những đã từ chối, nhưng nhất là công kích đầy căm phẫn nữa. Đấng phải đến cho họ sự phục sinh, lại bị chính họ xử tử.
Lời Chúa đòi p hải có lập trường vững chắc, nhất là khi hành động. Ngược lại với lời nhân loại, lời Chúa bắt phải dấn thân. Người ta có thể gạt bỏ những ý tưởng triết học, gạt bỏ hệ thống suy luận của một tư tưởng gia hay những tác phẩm của văn sĩ. Người ta ít chú ý đến những thứ đó, nên một năm khó lòng mua được một số sách, do đó nhiều khi sách vở phải bán theo giá giấy. Trái lại lời Chúa, tiếng gọi và đòi hỏi, đòi phải chọn lựa khi nghe biết. Không chú ý đến lời Chúa là phủ nhận lời Chúa và như vậy là gạt Chúa sang một bên. Làm như thế tức là tiến thêm một bước nữa về sự dữ. Trong khi chối từ những gì đem lại ơn cứu độ, người ta tự ý hướng về tình trạng khai trừ. Kitô giáo, không phải chỉ loan báo những chân lý để bàn luận hay xác định lập trường tùy tiện. Thiên Chúa mời gọi chúng ta, muốn chúng ta dấn thân phục vụ Ngài. Vì thế từ chối có nghĩa là nổi loạn. Lời Chúa là nền tảng cho đời sống. Ai chối bỏ là chối bỏ chính Chúa: Hòn đá không ở một nơi, nhưng theo Đức Kitô, hòn đá đó sẽ nghiến nát ai chối bỏ nó để ở lại giữa loài người.
Tình trạng cuộc sống không bất động: mỗi hành động nhân loại đều được Thiên Chúa đáp ứng cách khác nhau. Thực ra, Ngài không chỉ sửa phạt, Ngài sẽ không tiêu diệt những ai từ chối, nhưng đôi khi Ngài chịu đựng để biến đổi sự dữ thành sự lành. Trước hành động của kẻ thù, Ngài phản ứng lại theo đức công bình và nhất là phản ứng theo lòng yêu thương.
Adam từ chối Thiên Chúa đã gọi mình, nên đánh mất Thiên Đàng, nhưng đồng thời ông lại được hứa Đấng Cứu Thế. Lỗi phạm, nhờ ơn sủng biến thành lỗi có phúc. Đại hồng thủy đưa đến giao ước với Noe. Tháp Babel biểu thị sự chia rẽ nhân loại, cũng biểu thị ơn gọi của Abraham là người biến Israel thành dân duy nhất của Chúa. Việc bán Giuse sang Ai Cập trở nên sự cứu độ cho anh em. Pharaon cứng lòng đưa dân Chúa đến việc ký kết giao ước với Thiên Chúa. Lịch sử tiếp tục thể hiện cho tới lúc Israel từ chối Đức Kitô, đóng đanh Chúa họ trên núi Calvariô. Sự thất bại tuyệt đối đã được ân sủng tác động để hình thành giao ước mới với toàn thể nhân loại, và hy tế cứu độ của Chúa. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, máu các vị tử đạo không ngừng trở nên hạt giống làm trổ sinh những kitô hữu mới. Cho tới ngày chung cuộc, việc xuất hiện người chống lại Đức Kitô sẽ kêu mời Đức Kitô tái giáng. Trái đất bị chúc dữ sẽ báo hiệu một thế giới mới, để tất cả tăm tối sẽ bị ánh sáng toàn thắng. Tất cả sự chết sẽ bị sự sống thống trị, tội lỗi sẽ bị ơn sủng chế ngự. Hòn đá bị thợ ném đi, được Chúa can thiệp để trở nên hòn đá góc. Và nước Chúa được ban cho một dân tộc ưu tú mới, vườn nho được phó thác cho những người thợ mới; những người ấy nhờ tác động của ơn sủng, sẽ gặt hái hoa trái chín mọng do ơn Chúa. Vậy, những hầm rượu và kho lẫm Thiên Chúa được tràn đầy phong phú, rồi những kẻ ưu tú được lệnh trao hoàn cho Ngài. Tất cả biến thành ơn sủng.

31. Chăm sóc vườn nho của Chúa
MINH HỌA LỜI CHÚA:
1. Lòng kiên nhẫn lạ lùng
Chúa Giêsu luôn giảng dạy bằng dụ ngôn. Đó là những câu chuyện thế gian hàm chứa ý nghĩa thiên quốc. Các dụ ngôn này thường chia ra hai loại: dụ ngôn “cửa sổ” và dụ ngôn “kiếng soi”.
Dụ ngôn “cửa sổ” là câu chuyện đơn giản nói về Chúa hoặc Nước Chúa. Nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về Người hoặc về Nước của Người, thí dụ như dụ ngôn “Con chiên lạc”.
Dụ ngôn “kiếng soi” là những câu chuyện giúp chúng ta hiểu rõ chính mình. Các nhân vật trong câu chuyện đại diện cho những người nghe. Thế nên họ nhận ra chính mình khi nghe dụ ngôn. Dụ ngôn “Tá điền sát nhân” trong Tin Mừng hôm nay thuộc loại này.
Chủ vườn nho chính là Thiên Chúa. Vườn nho lúc đầu là dân Itraen. Tá điền là các vị lãnh đạo Itraen. Các đầy tớ được chủ vườn sai đi thu hoa lợi là các ngôn sứ. Con trai độc nhất của chủ vườn chính là Chúa Giêsu. Các tá điền khác được chủ vườn nho giao lại là các tông đồ của Chúa Giêsu, là những nhà lãnh đạo mới của dân Chúa.
Nghe Chúa Giê su kể dụ ngôn trên đây, “các thượng tế và người Biệt Phái hiểu là Người nói về họ” (Mt. 21, 45). Họ nhìn vào dụ ngôn “kiếng soi” mà thấy chính họ. Song thay vì sám hối, họ vẫn ngoan cố trong lầm lỗi của họ.
Phải chăng Chúa Giêsu kể dụ ngôn trên đây chỉ nhằm hành động sai trái của các Thượng Tế và Biệt Phái? Không phải thế. Người còn muốn dạy chúng ta nữa. Người muốn dạy chúng ta các điều sau đây:
Nó tóm lược Kinh Thánh về ơn cứu độ. Chúa Giê su là con Thiên Chúa. Các Tông Đồ là những vị lãnh đạo mới của dân Chúa. Và Chúa kiên nhẫn chờ đợi chúng ta chu toàn bổn phận chúng ta đối với Hội Thánh Người. (Theo cha M. Link)
2. Hy sinh giúp việc Chúa
Một thiếu nữ trẻ đẹp Người Úc ở Melbourne. Chúa kêu gọi cô làm thừa sai giúp những người mắc bệnh cùi tại Inđônêsia. Cô sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa không chút do dự, và được hội truyền giáo gởi đến khu làng cùi tại đó. Nhiều người ngạc nhiên hỏi cô:
– Sao cô can đảm hy sinh như thế? Nếu cô bị lây nhiễm bệnh cùi, sắc đẹp cô sẽ tàn phai đã đành, cuộc đời cô sẽ bất hạnh nữa. Cô nghĩ sao?
– Tôi sẵn sàng hy sinh cho những người cùi, vì đó là điều Chúa muốn tôi thực hiện để giúp việc Chúa, dù có chết tôi cũng sẵn sàng để làm sáng danh Chúa.
Thế là cô lên đường, phục vụ người cùi được trên mười năm, thì mắc bệnh như người ta tiên đoán. Mặc dầu cô được chữa khỏi, nhưng nhan sắc cô bị ảnh hưởng bệnh đó nên trở nên xấu xí. Nhất là khi thời tiết thay đổi, cô rất đau đớn. Có người hỏi:
– Cô có ân hận vì đã giúp người cùi mà bây giờ phải mang hậu quả bi đát thế không?
Cô điềm nhiên đáp:
– Dù ta phải trả giá bằng mạng sống, tôi cũng sẵn sàng dâng hiến. Và nếu Hội Thánh cần, tôi vẫn không từ chối đến phục vụ anh chị em cùi bất cứ ở nơi nào.
Câu chuyện trên đây làm sáng tỏ ý muốn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay. Chúa giao vườn nho cho các Thượng Tế và Biệt Phái, để họ chăm sóc, nhưng họ đã không thi hành, không làm vườn nho sinh hoa lợi nộp cho Chúa, mà còn giết chết hết các sứ giả của Chúa. Đến cả Con Một yêu dấu của Chúa, họ cũng giết luôn để đoạt gia tài: “Bọn tá điền vừa thấy người con thì bảo nhau: Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” (Mt. 21, 38)
Vì thế, Chúa buộc lòng phải lấy lại vườn nho của Người và giao cho các tông đồ và chúng ta canh tác, cho nó trổ sinh hoa lợi cho Chúa, là đức tin và việc lành hằng ngày của chúng ta và anh chị em chúng ta. Như thế Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhiệt thành phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em. (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).
3. Đi tìm thợ làm vườn nho
Hôm nay mình ghé dòng Mến Thánh Giá Sóc Trăng. Chị bề trên đón mình một cách niềm nở như đón một người chiến sĩ chiến thắng trở về… Và chị cũng mơ ước được đi truyền giáo. Mình mở cờ trong bụng “thế nào cá cũng cắn câu”.
– Công tác truyền giáo ở Năm Căn cứ mọc lên như nấm. Tôi muốn mở thêm một giáo điểm, nhưng còn thiếu cán bộ. Hiện nay đã có các chị bác ái Vinh Sơn, Dòng Ba Nam, tu hội Tận Hiến, thừa sai Lái Thiêu, tu sĩ truyền giáo, sinh viên Đại Chủng Viện, nhưng vẫn không đủ. Lúa chín thì nhiều quá lẽ, mà thợ gặt thì ít xịt. Vậy xin chị cho dòng Mến Thánh Giá góp mặt với chúng tôi.
– Cha muốn xin mấy chị?
– Càng nhiều càng tốt. Tối thiểu là hai.
– Thưa cha, xin cha thông cảm dòng chúng con còn ít người lắm, vả lại các em còn non nớt quá, chúng con không dám cho các em đi xa…
– Nếu năm nay không được thì năm tới vậy nhé!
– Thưa cha, năm năm nữa cũng chưa được.
Mình hiểu năm năm nữa nghĩa là chẳng bao giờ…
Mình nhớ lại một buổi sáng nọ, Chúa Giêsu tập trung trước mặt 72 môn đệ để đọc lệnh lên đường. Họ chưa được đào tạo. Chính Chúa cũng phải xác nhận rằng: “Thầy sai chúng con đi như những con chiên đi vào giữa bầy muông sói”. Dù thế Người vẫn sai họ lên đường, bởi lẽ “Có Chúa và nghề dạy nghề”.
Đúng thế. “Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít”. Vườn nho của Chúa bao la mà người làm vườn chẳng có được bao nhiêu. Đã vậy mà còn thêm những kẻ chểnh mãng, những người muốn chiếm đoạt vườn nho của Chúa làm của riêng mình, như trường hợp các Thượng Tế và Biệt Phái trong Tin Mừng hôm nay. Do đó, Chúa cần chúng ta giúp một tay vào việc chăm sóc vườn nho của Ngài ngày càng phát triển và sinh nhiều bông trái tốt cho Người. (Theo “Nhật ký truyền giáo”).
4. Nhận và cho
Một hôm nhà chính trị nổi tiếng người Pháp đi vào một làng nhỏ miền đông Ấn Độ. Ông phát hiện một pho tượng cổ quý, bày bán giữa những món hàng khác. Ông hỏi giá và được trả lời:
– Thưa ngài, tôi xin 75 đồng.
Nhà chính trị liền thương thuyết với người bán hàng:
– Tôi xin trả 45 đồng.
– Trời ơi, chỉ có 45 đồng sao?
Nhà chính trị vẫn khăng khăng trả giá 45 đồng. Người bán hàng tức tối nói:
– Tôi không thể bán với giá đó. Thà tôi tặng không cho ông còn hơn.
Nhà chính trị liền tóm lấy pho tượng bỏ vào túi và nói:
– Ông là người tử tế quá. Tôi xin cám ơn ông. Đây là món quà ông tặng cho tôi. Tôi tin chắc ông không từ chối món quà tôi tặng cho ông. Vừa nói ông vừa trao 45 đồng vào tay người bán hàng rồi đi.
Trong cái nhìn đức tin, tất cả những gì chúng ta có đều là quà tặng nhưng không của Chúa, từ sự sống tự nhiên đến cuộc sống tâm linh. Tất cả những gì chúng ta có thể làm được cho đến đức tin, tất cả đến từ lòng quảng đại của Thiên Chúa. Chính vì lãnh nhận nhưng không, chúng ta cũng được mời gọi trao ban nhưng không. Thánh Phaolô đã xác quyết: “Tất cả là hồng ân”.
Trong thư gởi tín hữu Côrintô, thánh nhân còn đặt câu hỏi khiến chúng ta phải suy nghĩ: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” (1 Cr. 4, 7)
Tất cả chúng ta là vườn nho được Chúa chăm sóc ân cần đầy đủ: “Ông rào giậu, trong vườn ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh” (Mt. 21, 33).
Chúa chờ đợi gì nơi chúng ta? Chúa muốn chúng ta nhận biết tất cả là hồng ân nhưng không Chúa ban cho chúng ta. Thế mà chúng ta xem đó là của riêng của chúng ta, như các Thượng Tế và Biệt Phái trong Tin Mừng hôm nay. Họ nhẫn tâm giết hết để chiếm đoạt vườn nho cho riêng họ. “Không có phần nào cho tha nhân, không có phần nào cho Hội Thánh”.
Như thế Tin Mừng hôm nay mời chúng ta chia sẻ: nhất là chia sẻ ơn cứu rỗi của Chúa cho anh chị em chúng ta (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”. Tập III).
5. Hy sinh vì Nước Chúa
Sáng ngày 19 tháng 3 năm 1994, do hai phát súng của nhóm bất lương Camara ở nước Ý đã giết chết cha Giuse Daiana tại phòng áo nhà thờ xứ Casandi Piusêpê, lúc cha chuẩn bị dâng Thánh Lễ.
Cha Daiana là một linh mục 36 tuổi luôn nhiệt thành trong sứ mạng tông đồ, chăm sóc vườn nho của Chúa. Trong bài giảng lễ an táng cha, Đức Giám Mục Lôrensô Chiaradinali đã tóm lược công tác tông đồ của cha như sau: “Đau khổ và tin tưởng. Đó là đời sống tông đồ của cha Daiana. Việc tông đồ của cha đầy khó khăn vì những hình thức vô luân đồi bại và những sức mạnh bất lương núp sau bóng tối. Sứ mệnh tông đồ của cha là bẻ gãy xiềng xích của tội ác để xây dựng công bằng và tình thương. Hoạt động tông đồ của cha bắt đầu từ công tác giáo dục đức tin, nỗi lực sống chứng tá Kitô, bảo vệ quyền lợi cho người nghèo khổ và bị áp bức, nhất là huấn luyện giới trẻ qua hoạt động hướng đạo…
Tinh thần hăng say hoạt động tông đồ và lòng quả cảm hy sinh của cha Daiana mời gọi chúng ta nhớ đến thái độ bê tha chểnh mãng của các Thượng Tế và Biệt Phái trong Tin Mừng hôm nay đối với vườn nho của Chúa.
Cha Daiana đã cống hiến cho vườn nho của Chúa bao nhiêu thì các Thượng Tế và Biệt Phái đã bê bối bấy nhiêu. Với tấm lòng của người tông đồ, cha đã trung thành với sứ mạng Chúa giao bằng cái giá đắt là mạng sống của mình.
Cái chết của cha như hạt giống gieo vào lòng đất, phải mục nát để sinh được bông trái dồi dào tốt đẹp dâng cho Chúa, như Chúa Giêsu đòi hỏi các nhà lãnh đạo Do Thái phải thực hiện trong Tin Mừng. Thật vậy, cái chết của cha đã không uổng phí. Mấy hôm trước khi bị sát hại, cha đã nói với một thanh niên muốn theo ơn gọi linh mục: “Nếu con muốn trở thành linh mục, con phải luôn nhớ con sẽ phải trả giá rất đắt”. Và chính người thanh niên đó, khi đứng trước thi hài của cha đã tuyên bố: “Trước kia tôi còn do dự, nhưng giờ đây đứng trước thi hài của cha, tôi nhất quyết trở thành linh mục”
(Theo “Thiên Đàng là thế đó”).

Xem thêm :  Tuyển tập thơ chế tình yêu hài hước cười vỡ bụng

32. Chủ vườn nho
Số phận của những kẻ chống lại chủ vườn nho sẽ như thế nào?
Mặc dù đoạn Tin Mừng không nói rõ, nhưng chúng ta cũng thấy được qua câu trả lời của những người nghe Chúa Giêsu:
– Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ đến mùa, họ sẽ nộp phần hoa lợi.
Từ câu trả lời này, chúng ta bước vào lãnh vực siêu nhiên. Vậy số phận của những kẻ chống lại Thiên Chúa sẽ như thế nào? Chúa Giêsu cũng đã từng lên tiếng về vấn đề này:
– Viên đá bị thợ xây loại bỏ, sẽ trở thành viên đá góc tường. Hễ ai vấp ngã trên viên đá này, thì kẻ ấy sẽ bị dập nát và hễ viên đá này đè lên ai, thì kẻ ấy sẽ bị tan xương.
Câu nói này làm cho chúng ta liên tưởng tới lời cảnh cáo của Chúa Giêsu được gửi tới cho Phaolô trên con đường đi Đamas:
– Khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Kinh nghiệm đau thương này đã được thực hiện qua giòng thời gian nơi các dân tộc cũng như nơi những cá nhân.
Trước hết là nơi các dân tộc.
Tôi xin đưa ra hai trường hợp điển hình. Trường hợp thứ nhất, đó là trường hợp của dân Do Thái.
Trong Cựu ước, họ là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn và yêu thương cách đặc biệt. Thế nhưng mỗi khi họ quay lưng chống lại Ngài, bằng cách sống bê tha tội lỗi và nhất là quì gối thờ lạy những thần tượng nhảm nhí, thì lập tức đất nước họ bị quân thù dày xéo còn bản thân họ thì bị đi lưu đày, vì khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Trong Tân ước, họ là một dân tộc được nghe những lời Ngài truyền dạy và được thấy những việc kỳ diệu Ngài đã làm, thế nhưng cõi lòng họ vẫn chai đá, để rồi những lời Chúa cảnh cáo chỉ là như một thứ nước đổ đầu vịt mà thôi. Họ chống đối Chúa, họ vu oan cho Chúa và sau cùng họ đã giết chết Chúa một cách ô nhục trên thập giá. Nhưng rồi sau đó vào năm 70, thủ đô Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa dưới sức mạnh của quân đội La Mã do tướng Titus chỉ huy. Còn bản thân họ thì phải rời bỏ quê hương, tản mát khắp bốn phương trời, mãi cho đến năm 1950, nhờ áp lục quốc tế, họ mới được trở về khôi phục lại đất nước, vì khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Trường hợp thứ hai là nước Pháp trong cuộc cách mạng vào năm 1789. Những kẻ khởi xướng cho cuộc cách mạng này đã bài xích Giáo hội, chối bỏ Thiên Chúa, coi lý trí là thần tượng tuyệt đối có thể giải quyết được mọi vấn đề. Thế nhưng hậu quả mà cuộc cách mạng này đã đem lại như thế nào thì lịch sử đã cho chúng ta thấy: máy chém mọc lên ở khắp nơi, rồi cướp của giết người xảy ra ở khắp chốn, đến nỗi chịu không nổi cảnh tượng hỗn độn vô trật tự ấy, Robespierre đã phải truyền dán trên khắp các ngả dường những tấm bích chương với hàng chữ: Nhân dân Pháp tin vào Thiên Chúa. Quả thực, khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Bây giờ xuống tới lãnh vực cá nhân, số phận của những kẻ chối bỏ Thiên Chúa cũng không hơn gì. Tôi xin đưa ra hai trường hợp điển hình.
Trường hợp thứ nhất là trường hợp của Mirabeau. Ông là người đi tiên phong cho cuộc cách mạng Pháp, hăng hái đả phá Giáo hội và chối bỏ Thiên Chúa. Nhưng rồi sau đó, ông đã phải đau khổ và tuyệt vọng, nhất là khi phải đối đầu với cái chết. Ông đã chết bằng một cái chết đớn đau và điên khùng.
Trường hợp thú hai là trường hợp của Voltaire. Suốt đời, ông đã tìm cách hạ bệ Thiên Chúa và Giáo hội. Chính ông vàp năm 1753 đã viết: Thiên Chúa phải về hưu vì đã hết thời. Đúng hai mươi năm sau, nghĩa là vào năm 1773 ông đã chết một cách thê thảm, tru tréo như một con chó dại, đến nỗi bà giúp việc phải thốt lên: Nếu quỉ có thể chết, thì cũng không chết một cách dữ tợn hơn Voltaire. Thiên Chúa vẫn còn mãi, nhưng khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Từ những sự việc cụ thể xảy ra cho cá nhân cũng như cho dân tộc, tôi muốn đi tới một kết luận:
– Xe trước đã đổ, thì xe sau phải coi chừng.
Xem người phải nghĩ đến thân, bẳng không, nếu cứ bình chân như vại, đắm chìm trong tội lỗi, chắc chắn số phận chúng ta cũng sẽ không hơn gì bởi vì chủ vườn nho sẽ triệt hạ hết những kẻ xằng bậy và sẽ trao vườn nho cho người khác. Như thế có nghĩa là Nước Trời sẽ bị cất khỏi bàn tay chúng ta, đề rồi chúng ta sẽ bị trầm luân muôn kiếp.

33. Vườn nho của Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Ngày xưa Thiên Chúa đã chọn Israel là dân riêng của Ngài và coi dân Ngài như “vườn nho” được Ngài săn sóc cẩn thận. Ngài chỉ mong cho vườn nho đem lại nhiều hoa quả tốt tươi, nhưng vườn nho chỉ đem lại những trái nho dại đắng đót. Cả những người trồng nho cũng phản loạn, bất trung trong việc canh tác, nên Thiên Chúa đã trao vườn nho cho người khác.
Ngày nay, chúng ta cũng được coi là vườn nho mới của Chúa. Tất cả những gì Chúa ân cần săn sóc ban cho đều là hồng ân của Chúa. Chúng ta được tự do hành động, sắp xếp công việc theo ý ta, nhưng ta phải chịu trách nhiệm về những việc làm ấy. Bổn phận của chúng ta là phải cố gắng làm việc cho tốt để đáp lại tình thương của Chúa đối với chúng ta.
Sách có chữ rằng:”Tiền xa ký phúc, hậu xa khả giới”: Xe trước đổ, xe sau phải coi chừng. Dân Do thái ngày xưa đã bất trung nên đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Ngày nay chúng ta là dân Do thái mới được Thiên Chúa săn sóc giữ gìn, chúng ta phải tránh xa vết xe cũ kẻo phải hư đi, nhưng phải trung thành với những hồng ân Chúa ban, bằng cách làm cho ơn Chúa được sinh hoa kết quả dồi dào trong đời sống; đồng thời cũng phải biết chia sẻ cho người khác nữa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 5,1-7.
Tiên tri Isaia đã dùng “bài ca cây nho” để nói lên tình yêu của Thiên Chúa đã yêu dân Chúa như thế nào và dân Chúa đã đáp lại ra sao. Trong dụ ngôn này, “vườn nho” tượng trưng cho dân Israel. Thiên Chúa đã yêu thương và săn sóc dân Chúa như thế nào, Ngài chỉ muốn cho nó sinh ra những hoa trái ngon ngọt. Nhưng than ôi! trước sự yêu thương và săn sóc của Thiên Chúa, dân Chúa vẫn bất trung, bạc tình bạc nghĩa giống như vườn nho chỉ sinh ra những trái nho đắng đót.
Trước sự bất trung ấy, Thiên Chúa định bỏ mặc dân Israel cho quân thù giấy xéo, phải làm tôi ngoại bang. bị đi lưu đầy. Thực tế đã chứng minh: những sự việc này đã xẩy ra trong lịch sự dân Israel.
+ Bài đọc 2: Pl 4, 6-9.
Gặp những hoàn cảnh khó khăn, nhiều người tỏ ra xao xuyến ngã lòng, thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Philipphê hãy trút bỏ mọi lo âu và hãy tin tưởng vào Chúa để được bình an trong tâm hồn. Ngài đưa ra cho tín hữu bí quyết để đón nhận được sự bình an ấy:
a) Hãy cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh:”Anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bầy trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện”.
b) Hãy sống với lương tâm trong sáng và hãy đem ra thực hành những điều đã được học hỏi nơi thánh Phaolô.
+ Bài Tin mừng: Mt 21, 33-43.
Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn này để cảnh giác các nhà lãnh đạo Do thái: vua chúa, luật sĩ, biệt phái và những tư tế. Thiên Chúa đã giao dân Chúa – là cây nho qúi – cho những nhà lãnh đạo Do thái, nhưng những người này lại khai thác cây nho để hưởng lợi riêng, bách hại những tiên tri, những sứ giả của Thiên Chúa và giết cả Con của Người.
Đồng thời Chúa Giêsu cũng cảnh cáo dân Do thái: đáng lẽ dân Do thái phải biết ơn Chúa khi gọi họ vào Nước Trời, và đáp lại họ phải có một đời sống tốt, như một phần hoa lợi nộp cho Thiên Chúa là chủ vườn nho. Nhưng chẳng những họ không làm thế mà còn giết luôn cả Chúa Giêsu, Con duy nhất của Thiên Chúa.
Do đó, Chúa Giêsu kết luận:”Nước Thiên Chúa, Người sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy sinh hoa trái tốt
I. TÌM HIỂU DỤ NGÔN.
1. Tục lệ trồng nho ở Palestine.
Palestine là một vùng đồi núi thích hợp cho việc trồng nho, nên trồng nho là một nghề rất quen thuộc. Chúa Giêsu muốn dùng vườn nho để làm dụ ngôn. Vườn nho thường có hàng rào làm bằng hàng rào gai dầy để ngăn chặn heo rừng vào phá và kẻ trộm có thể vào ăn trộm nho. Mỗi vườn nho đếu có hầm ép rượu gồm hai cái chậu đục từ đá hay xây bằng gạch, cái này đặt cao hơn cái kia và nối với nhau bằng hai cái rãnh. Nho được ép từ chậu cao sẽ chảy xuống chậu thấp. Cái tháp trong vườn được dùng cho hai mục đích. Nó dùng làm chòi canh kẻ trộm khi mùa nho chín và làm chỗ ở cho người làm việc trong vườn nho.
Những người có nhiều đất thì thường đem đất đai cho mướn, giống như ở Việt nam xưa cho tá điền phát canh thu tô. Tiền cho mướn phải trả bằng ba cách: bằng tiền, bằng số trái cây nhất định hoặc bằng số bách phân của hoa mầu.
Hành động của những người trồng nho mướn cũng không phải là việc bất thường. Trong thời Chúa Giêsu, xứ Palestine ở vào thời kinh tế bất ổn, người làm công bất mãn và làm loạn. Hành động của những tá điền tìm giết con chủ vườn không phải là chuyện không xẩy ra.
2. Ý nghĩa dụ ngôn.
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn những người làm vườn nho giết người, để trình bầy về sự tương phản giữa tình yêu của Thiên Chúa với sự độc ác của những kẻ bất trung vô ơn bội nghĩa với tình thương yêu ấy.
Theo từng chi tiết, vườn nho ám chỉ Nước Thiên Chúa hay là Nước Trời được trao cho dân Do thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo, là những người đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là các tiên tri, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến đều bị ngược đãi hoặc bị giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, Nước Thiên Chúa được chuyển sang cho một dân tộc khác là Hội thánh, một dân phổ quát và Công giáo, sẽ lan tràn trên khắp thế giới.
Ý nghĩa câu chuyện thật rõ ràng đối với thính giả Do thái thời Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã chọn người Do thái làm dân riêng của Ngài, đã ban cho họ mọi sự có thể, nhưng họ bác bỏ và giết chết các tiên tri của Thiên Chúa và đóng đinh chính Con của Ngài chết trên thập giá.
Rồi Thiên Chúa kêu mời những người Do thái, là chúng ta đây, làm những tá điền mới trong vườn nho của Ngài, làm công dân mới trong Nước Thiên Chúa. Cũng vậy, chúng ta phải làm sinh hoa lợi, phải nộp một loại “tiền thuế”, một loại “dịch vụ”, một loại “nợ” về ân huệ gia nhập dân Chúa.
II. NHỮNG BÀI HỌC CHO CHÚNG TA.
Đọc dụ ngôn này, chúng ta có thể rút ra được mấy bài học để thực hành trong đời sống hằng ngày:
– Lòng yêu thương và kiên nhẫn của Thiên Chúa.
– Sự tự do của con người trong cuộc sống.
– Phải sinh hoa trái tốt trong đời sống.
1. Lòng yêu thương và kiên nhẫn của Thiên Chúa.
Suy nghĩ về thái độ của ông chủ vườn nho đối với các tá điền, ta thấy chủ vườn nho đã cố gắng tới ba lần để giúp các tá điền thay đổi đường lối. Ông sai hết người đại diện này đến người đại diện khác đến với họ. Ông không đến báo thù ngay khi người đại diện ban đầu bị ngược đãi, ông cho những người tá điền hết cơ hội này đến cơ hội khác để đáp ứng đòi hỏi của ông. Khi ông thấy rằng có kiên nhẫn hơn nữa cũng vô ích, ông ta mới ra tay xét xử đám này và bắt họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Cuối cùng, ông chủ lấy lại vườn nho và trao lại cho người khác.
Thiên Chúa cũng cư xử với chúng ta y như thế. Cha chúng ta trên trời vô cùng kiên nhẫn. Nhưng rồi sẽ đến lúc sự kiên nhẫn của Chúa sẽ nhường bước cho sự xét xử. Và chúng ta cũng sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
2. Sự tự do của con người.
Ông chủ vườn nho đã sắp xếp mọi thứ: có hàng rào, có hầm ép rượu và tháp canh để giúp cho công việc được dễ dàng. Ông chủ không những giao công việc để làm, mà còn giao phương tiện để làm nữa. Ông chủ vườn để những người tá điền làm công việc theo sở thích của mình và chỉ đòi họ canh tác để đến mùa thu hoa lợi, chứ không phải là người độc đoán, ông như một vị chỉ huy khôn ngoan trao công tác rồi để cho họ làm.
Điều này nói lên ông chủ tín nhiệm các tá điền. Nhưng có những tá điền không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tin của ông chủ. Những người tá điền cố tình thực hiện kế hoạch chống lại và không vâng phục chủ mình.
Mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho, là những ơn phúc và chúng ta có bổn phận đem hoa lợi về cho Chúa. Ngài để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm.
3. Phải làm nảy sinh ra hoa trái tốt.
a) Những ơn lành đã nhận.
Tất cả mọi cái chúng ta có là do Chúa mà có, ngay cả con người chúng ta, mạng sống chúng ta. Chúng ta phải nói như thánh Phaolô:”Tất cả là hồng ân”. Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đặt một câu hỏi khiến mọi người chúng ta phải suy nghĩ:”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận” (1Cr 4,7).
Thật vậy, những ân phúc Chúa ban như những tài năng tinh thần, những của cải vật chất, chúng ta phải biết xử dụng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải làm việc và làm lợi cho Chúa. Mỗi người Chúa ban cho một vốn liếng khác nhau không ai giống ai: người mười nén, người năm nén, người một nén… nhưng tất cả đều giống nhau ở chỗ là phải cố gắng làm sinh lời tùy theo sức của mình. Chúa chỉ đòi chúng ta cố gắng chứ không đòi kết quả.
Tóm lại, tất cả đều do Chúa ban. Chúng ta đúng là một vườn nho được Chúa chăm sóc ân cần.
Chúa chờ đợi gì nơi ta?
Chúa muốn chúng ta nhận biết tất cả là bởi Chúa. Thế mà chúng ta vô tình coi những thứ đó là của riêng ta. Như thế, chúng ta cũng giống như những tá điền muốn chiếm đoạt vườn nho của chủ. Nhiều khi chúng ta chỉ biết dùng những thứ ấy cho riêng mình mà không nghĩ tới tha nhân, Giáo hội và xã hội.
Ngoài ra, trong việc làm sinh hoa kết quả trong đời sống, tâm lý thông thường con người ta là muốn làm việc lớn, được nhiều lợi nhuận, được nhiều người biết đến. Nhưng trước mặt Chúa, mọi việc dù lớn dù nhỏ không quan hệ, miễn là chúng ta làm việc cho Chúa, vì Chúa và làm hết khả năng của mình.
Trong cuộc sống của chúng ta, chẳng mấy khi có việc lớn mà chỉ là những việc nhỏ, nhưng trung thành chu toàn được những việc nhỏ lại là việc khó như ngạn ngữ La tinh có câu: “Communia, non communiter”: làm công việc tầm thường nhưng bằng một cách phi thường. Thánh Têrêsa Hài đồng đã làm gương cho chúng ta về vấn đề này.
Không ai có thể làm việc lớn cho Chúa nếu trước hết không làm những việc nhỏ cho Ngài. Nếu không trung thành trong những việc nhỏ thì không ai tin tưởng mà trao cho chúng ta việc lớn hơn. Kinh thánh nói:”Ai trung thành trong việc nhỏ mọn cũng sẽ trung thành trong việc lớn” (Mt 25,21; Lc 19,17)
Truyện: Vị thiên thần dễ tính.
Ngày kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền năng của Thiên Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện:”Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm những việc thông thường”. Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi sau cùng sức khỏe cũng giã biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khỏe ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tốt những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm:”Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu”. Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời mình, hằng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một người chồng chung thủy, một người cha hiền tận tụy với con cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thật vui tươi và hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.
Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân (Phạm Văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng CN, năm A, tr 212-213).
b) Lãnh nhận và cho đi.
Ta nhắc lại một lần nữa lời thánh Phaolô:”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận”(1Cr 4,7). Phải, tất cả những gì ta đang có là do ta lãnh nhận từ tay Chúa, một cách trực tiếp hay gián tiếp. Nhưng không chỉ nhận, ta còn phải biết cho, bởi vì, trên căn bản, ta nhận không phải chỉ cho riêng mình mà còn cho người khác nữa.
Con sông chỉ nhận nước vào mà không cho nước thoát ra thì không thể nhận thêm nước được, nó sẽ trở thành cái ao tù. Nó phải phân phối nước đi thì nó mới trở nên trong sạch được bằng cách nhận thêm nước khác. Nước Biển Chết là một thứ nước mặn chát, hôi thối vì chỉ nhận nước tư các sông chảy vào mà không có lối thoát ra, không phân phát cho cho các nhánh khác.
Có một mối tương quan biện chứng giữa nhận và cho: đã nhận thì phải cho đi, cho đi thì mới nhận vào được, nếu chỉ nhận mà không cho đi thì bị tắc nghẽn. Con người cũng thế, nếu chỉ biết nhận lãnh cho mình mà không biết chia sẻ cho nguời khác thì người đó chỉ biết co cụm lại, thay vì làm giầu thì chỉ làm cho mình nghèo đi. Những người chỉ biết co cụm lại không thông ra cho người khác thì không bao giờ có niềm vui vì người ta chỉ có thể có niềm vui khi mở lòng ra với người khác.
Truyện: Không biết chia sẻ.
Một người nghèo nọ được thần tài gõ cửa, nên không mấy chốc căn nhà của anh bỗng rộn lên tiếng cười của vợ con, họ hàng và láng giềng. Một cuộc sống xứng với nhân phẩm hơn đó là điều mà con người may mắm này đã cảm nhận được.
Tuy nhiên, may mắn nào cũng kéo theo những đòi hỏi, đòi hỏi thách thức nhất của người nghèo bỗng nhiên trở thành giầu có là: hãy chia sẻ với người khác. Không mấy chốc, bà con họ hàng từ các nơi đổ xô về căn nhà nghèo nàn của anh để xin giúp đỡ, trước là nhận họ sau là nhận hàng, đó là thói thường của người đời.
Kẻ trúng số hiểu được các tâm lý thông thường ấy, lúc đầu được thúc đẩy bởi lòng quảng đại, ông không ngần ngại chia sớt cho mọi người. Nhưng dần dà con số người đến xin giúp đỡ ngày càng gia tăng, cho đến một lúc cuộc sống riêng tư và êm ấm của gia đình hầu như bị xáo trộn triền miên. Người đàn ông không còn đủ kiên nhẫn nữa.
Một hôm, ông đề nghị với vợ:
– Hay là ta dọn đi một nơi khác.
Người vợ lắc đầu bảo:
– Mình có đi đâu thì thiên hạ cũng tìm tới.
Nhưng người chồng giải thích:
– Mình sẽ đi đến một chỗ không ai biết, mình sẽ đổi tên đổi họ, cũng không cho ai biết mình sẽ đi đâu, và sẽ cố gắng sống một cách đơn giản để không ai để ý đến mình nữa, ngay cả mấy đứa nhỏ cũng không cho biết mình đã trúng số.
Người vợ thắc mắc:
– Còn tiền bạc thì mình để ở đâu?
Chồng trả lời dứt khoát:
– Mình sẽ đem chôn giấu, mình sẽ sống như thể không hề trúng số, chỉ đem ra dùng khi nào cần thiết mà thôi.
Thế là cả gia đình đã dọn đến một nơi khác như dự kiến: họ lén lút ra đi nên không ai biết, tiền bạc đem chôn cất, con cái còn quá nhỏ nên không biết việc gì đã xẩy ra, họ sống nghèo nàn trong một khu ổ chuột. Ngày qua ngày, chính họ cũng quên rằng mình đã có lần trúng số, và khi họ chết thì tất cả mọi tài sản đều mất hết. Họ quên cả việc viết chúc thư cho con cái để trao lại tài sản cho chúng.
Câu chuyện ngụ ngôn trên đây nhắc cho chúng ta lời khuyên của Chúa Giêsu:”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho đi nhưng không”. Tất cả những gì Chúa ban cho ta, không phải chỉ dành cho riêng mình nhưng còn phải cho kẻ khác nữa. Chúng ta chỉ có được niềm vui khi chúng ta biết mở lòng ra với người khác. Còn niềm vui nào lớn hơn khi niềm tin được sinh lợi bằng những hoa trái của yêu thương, của phục vụ. Còn niềm vui nào lớn hơn khi chúng ta cảm nhận được Chúa đang đến qua từng cố gắng sống niềm yêu thương chia sẻ của chúng ta mỗi ngày trong cuộc sống.

34. Làm việc
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Vườn nho ám chỉ nước Chúa, được trao cho dân Do Thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo, là những người đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là hàng loạt các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, nước Chúa được chuyển sang một quốc gia khác là Hội Thánh, một dân phổ quát và Công giáo, sẽ lan tràn đến tất cả mọi quốc gia.
Chúng ta thấy dụ ngôn vừa có tính cách lịch sữ vừa có tính cách tiên tri, nghĩa là một đàng diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ. Đàng khác, nói tiên tri về đạo Chúa sẽ lan tràn khắp các dân không phải dân Do Thái. Hơn nữa, dụ ngôn cũng cho chúng ta thấy rõ thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu. Những người được sai đến trước Ngài, dù nổi tiếng đến đâu như Elia, Isaia, Giêrêmia, Gioan Tiền Hô… cũng chỉ là đầy tớ, còn Ngài mới là con trai duy nhất của Chúa Cha. Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay có nhiều điều đáng lưu ý và ghi nhớ. Sau đây chúng ta tìm hiểu một điều thôi, đó là các tá điền làm vườn nho. Bài Tin Mừng cho biết: ông chủ vừa trồng xong vườn nho, lẽ ra ông phải chăm bón để kiếm hoa lợi, nhưng ông lại cho các tá điền canh tác để đến mùa thu hoa lợi. Điều này nói lên ông chủ tín nhiệm các tá điền. Nhưng có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông chủ. Chúng ta có thể áp dụng như sau: mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho, là những ơn phúc và chúng ta có bổn phận phải đem hoa lợi về cho Chúa. Ngài để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm.
Thực vậy, những ơn phúc Chúa ban như những tài năng tinh thần, những của cải vật chất, chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải làm việc và làm lợi cho Chúa. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau về nơi chốn, thời gian, khả năng, dịp tiện. Mỗi người, không ai giống ai cả, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng Chúa ban. Chúng ta không giống nhau về khả năng, nhưng có thể giống nhau về cố gắng. Thà cố gắng mà không có tài còn hơn có tài mà không cố gắng làm lợi cho Chúa.
Vậy mọi người chúng ta đều có một điều giống nhau, đó là đời sống để làm việc: việc lớn, việc nhỏ. Đa số chúng ta ai cũng muốn làm việc lớn, được nhiều lợi, được người khác biết đết. Nhưng Chúa bảo chúng ta hãy làm việc nhỏ. Chúng ta cần trung tín trong việc nhỏ bé trước đã. Chỉ khi nào chúng ta làm được những việc nhỏ bé, chúng ta mới có khả năng làm những việc lớn lao hơn. Những việc nhỏ chính là nấc thang đưa tới thành công lớn. Không ai có thể làm việc lớn cho Chúa nếu trước hết họ không làm được những việc nhỏ cho Ngài. Nếu chúng ta không trung thành trong việc nhỏ thì không ai tin tưởng trao cho chúng ta việc lớn hơn. Chúng ta hãy nhớ: không có việc gì quá nhỏ mà không đáng làm, và cũng không có việc gì quá nhỏ mà không đem lại lợi ích. Vấn đề là chúng ta có chịu làm hay không.
Có một câu chuyện ngụ ngôn, với tựa đề là “vị thiên thần dễ tính” kể lại như sau: Ngày kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền vạn năng của Thiên Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện: “Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm những việc thông thường”. Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi sau cùng sức khoẻ cũng giã biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khoẻ ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tới những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm: “Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu”. Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời của mình, hằng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một người chồng chung thuỷ, một người cha hiền tận tuỵ với con cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thật vui tươi và hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.
Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Tóm lại, chúng ta hãy siêng năng làm việc để chu toàn bổn phận của mình. Chúng ta hãy tận dụng tài năng, sức lực, thời giờ, của cải Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và sự nghiệp đức tin trên nước trời.

35. Loại bỏ
Trước đây, có một nhân vật đã nhìn vào lịch sử nhân loại và đưa ra những con số như sau: từ năm 1496 BC, trước công nguyên, tới năm 1861 AD, trong 3358 năm, đã có 227 năm hoà bình, và 3130 năm chiến tranh. Như vậy cứ 13 năm chiến tranh, mới có một năm hoà bình. Trong ba thế kỷ, 16, 17 và 18 đã có 286 cuộc chiến xảy ra ở Âu Châu. Từ năm 1500 BC, trước công nguyên, tới năm 1860 AD, đã có hơn 8000 hiệp ước về hoà bình đã được ký kết.
Nhận xét trên đây về tình trạng của nhân loại đã được đưa ra hơn một thế kỷ rồi, chưa kể đến hai cuộc thế chiến, những cuộc chiến tranh kéo dài về ý thức hệ, chủng tộc và khủng bố ở thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Thế kỷ 20 sẽ được coi như thời đại mưu sát khổng lồ sinh mạng con người.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói dụ ngôn về vườn nho với những hành động bạo lực, bắt bớ, đánh đập, ném đá và giết người của các tá điền. Trong Cựu Ước, vườn nho là hình ảnh của dân Thiên Chúa, dân Do Thái, như đã được diễn tả trong sách tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất: “Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Irael”. Trong cái nhìn của Tân Ước, khi Chúa Giêsu nói với các thầy thượng tế và kỳ lão rằng: “Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái”. Chúng ta phải nghĩ đến hình ảnh vườn nho là cả nhân loại, gồm tất cả mọi dân tộc trên thế giới.
William Barclay đã cắt nghĩa dụ ngôn những tá điền sát nhân trong ba chiều hướng: chủ vườn nho là Thiên Chúa, những tá điền làm thuê là những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái, những người đầy tớ và con trai ông chủ là những sứ giả, các tiên tri và Chúa Giêsu Kitô.
Thiên Chúa trong vai trò ông chủ vườn nho rất tin tưởng vào những tá điền để trao cho họ sứ mạng trông coi vườn nho. Ngài rất kiên nhẫn và bao dung, gửi các tiên tri và sứ giả đến qua bao nhiêu thế kỷ để nhắc nhở và khuyên bảo, nhưng cũng đã bị đối xử tàn bạo. Sau cùng, Ngài gửi chính con trai đến, rồi cũng bị giết chết. Đến lúc này mới là phán quyết của Thiên Chúa trao vườn nho lại cho các dân tộc khác.
Những người tá điền làm vườn nho trong bài Phúc Âm là những người bạo lực và ích kỷ. Họ đã giết bao nhiêu sứ giả và các tiên tri của Thiên Chúa gửi đến kêu gọi xây dựng một xã hội hoà bình, công chính và thương yêu.
Họ là những ai trong thời đại chúng ta? Họ là những chủ nhân làm giầu qua việc sản xuất vũ khí tối tân, thúc giục chiến tranh trên thế giới thay vì giúp đỡ những quốc gia kém mở mang chống lại nghèo đói, bệnh tật và bất công. Họ nâng đỡ những chế độ độc tài để bóc lột dân chúng vì quyền lợi riêng tư của họ. Họ là những chủ nhân bóc lột sức lao động của công nhân với tiền lương rẻ mạt ở những nước kém phát triển…
Năm 1492, Columbus thả buồm ra biển khơi. Ông đã cập vào quần đảo của người Hispaniola, giữa Cuba và Puerto Rico, với dân số 100.000 người. Thổ dân da đỏ niềm nở ra chào đón những nhà thám hiểm của Phương tây. Columbus đã nhìn thấy họ đeo những nữ trang bằng vàng và báo cáo cho vua Ferdinand biết rằng vũ khí của thổ dân này rất đơn sơ, chỉ cần một nhóm lính Tây Ban Nha được trang bị vũ khí cẩn thận, cũng có thể bắt ép họ làm nô lệ trong những mỏ vàng để phục vụ cho ngân khố của Tây Ban Nha. Trong 15 năm, sự cai trị của Tây Ban Nha đã làm giảm dân số của người Hispaniola từ 100.000 xuống còn 15.000 người. Những việc lao nhọc dã man đã đè nặng trên những người nô lệ của Tân Thế Giới này là một hình thức diệt chủng tàn bạo phát xuất từ những nền văn minh trọn hảo. Những người lính phục vụ trung thành đã kiếm được rất nhiều tài sản và đồn điền.
Một ngày kia, chàng thanh niên tên là Bartolomeo de las Casas đã nghe một bài giảng của linh mục dòng Đaminh. Ngài đã nói những sự đối xử tàn bạo đó đối với người khác là ghê tởm, trái với đạo lý của Kitô giáo. Những người địa chủ Tây Ban Nha cười nhạo ngài, nhưng de cas Casas đã ăn năn trở lại. Anh trao trả tự do cùng với đất đai cho những người nô lệ. Sau này, anh đi tu trở thành linh mục, và lễ thụ phong của linh mục Bartolomeo là thánh lễ truyền chức đầu tiên ở Tân thế Giới.
Bartolomeo phục vụ như một linh mục của những người cai trị Tây Ban Nha, nhưng ngài rất thương mến những người thổ dân da đỏ. Ngài nói rằng những hạt lúa mì đã được trồng xuống, chăm nom, và gặt hái bởi những người nô lệ đã tạo nên tấm bánh được bẻ ra trong Bí tích Thánh Thể. Khi ngài bẻ bánh, ngài nhìn thấy máu của những người nô lệ chảy xuống.
Qua bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải trở nên những người đầy tớ của Thiên Chúa. Phải xây dựng vườn nho bằng tình yêu thương và sự hy sinh chính thân mình cho tha nhân, như chính Ngài đã cầm lấy tấm bánh bẻ ra và nói: “Hãy cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta”.
Để xây dựng trật tự xã hội phải lấy chính nhân phẩm con người như một tạo vật “giống hình ảnh của Thiên Chúa” làm trọng tâm như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Chính từ giá trị con người mới phát sinh ra giá trị xã hội, chứ không phải từ giá trị xã hội mà có giá trị con người”.
Phải trở về với những giá trị Kitô giáo để kiến tạo hoà bình. Một tác giả tôi không nhớ tên đã khuyên rằng: “Những giá trị giống như những dấu tay. Không ai giống nhau. Nhưng bạn để lại chúng trên mọi sự bạn hành động”. Phải, thời đại này đã để lại những giá trị của mình khắp nơi trên thế giới qua những nhãn hiệu Coca-Cola, kẹo chewing-gum, sách báo phim ảnh khiêu dâm, tự do tình dục, mãi dâm, nhạc rock’n’roll, rap-talk, tiền đôla, xe hơi Cadillacs, điện thoại cầm tay, computers, phi thuyền không gian, vũ khí nguyên tử, phá thai, an tử và trợ tử… Tất cả những điều này nói lên những giá trị của thời đại văn minh hiện nay. Thật đáng tiếc! Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gọi nền văn minh này là “văn hoá của sự chết”!

36. Loại bỏ
Vở ca nhạc kịch (opera) “Miss Saigon” là một bản phóng tác từ câu chuyện ngắn “Madam Butterfly” của văn sĩ John Luther Long vào năm 1898 đăng trên tạp chí “Thế Kỷ”. Một câu chuyện cũ được đưa vào trong bối cảnh của cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong màn thứ nhất, một cô gái bán bar yêu một chàng lính Mỹ GI. Họ kết hôn với nhau, thề hứa yêu thương trọn đời. Hết nhiệm kỳ, chàng bó buộc phải rời nàng trở về Mỹ, nhưng hứa sẽ trở lại khi chiến tranh chấm dứt. Nàng là một cô gái nhà quê đơn sơ, vô tội và chịu đựng. Tình yêu của nàng dành cho chàng lính Mỹ hoàn toàn vô điều kiện, yêu thương hết lòng. Chàng lính Mỹ trở về nước mà không biết rằng vợ đang mang thai, một bé trai. Nàng âm thầm dấu kín và hết sức bảo vệ người con trong khi chịu đựng mọi tủi nhục.
Màn thứ hai giới thiệu một cơ quan phục vụ nhằm đi tìm những người lính Mỹ GI, cha của những trẻ em Mỹ lai. Khi câu chuyện tiếp diễn, chàng lính Mỹ đã kết hôn lần nữa ở Mỹ. Anh rất hạnh phúc, mặc dù anh vẫn mơ ước gặp lại Miss Saigon. Nhân viên thiện nguyện tìm được anh. Anh phải nói cho vợ biết về Miss Saigon và đứa con trai. Anh và vợ cùng đi về Việt Nam để sắp xếp vấn đề cho êm thắm. Miss Saigon đã gặp vợ của anh, cô quá xúc động không nói lên lời, chỉ xin vợ anh đưa đứa bé về Mỹ và tạo cho nó một đời sống mới mà nàng không thể làm được.
Màn kết thúc, Miss Saigon mặc quần áo đẹp cho con trai nàng, một đứa bé khôi ngô tuấn tú, để trao lại cho ba nó và mẹ ghẻ. Trong giây phút lưu luyến yêu thương nhất nàng hôn con và nói “Xin con đừng quên mẹ, sau này con sẽ hiểu”. Đứa bé trai bước đi theo ba nó và mẹ ghẻ với vòng tay mở rộng. Miss Saigon biến mất sau bức màn. Đùng!!! Một phát súng đã nổ. Nàng đã tự tử chết; chàng lính Mỹ GI chạy vội vào trong, ôm nàng lên, anh rên rỉ đau khổ…
Nhà văn John Bradshaw đã nói lên phản ứng cá nhân của ông đối với vở ca nhạc kịch Miss Saigon như sau: “Thình lình, ông bật khóc nức nở trong phần kết thúc của bi kịch, ông bắt đầu xúc động vì vở kịch đưa ông vào câu chuyện yêu thương và hận thù của chính cuộc đời ông, đám cưới đổ gẫy của cha mẹ ông, nỗi đau thời thơ ấu của ông. Ông bắt đầu đồng hoá mình với đứa bé vô tội trong số phận thảm thương do cuộc tình của cha mẹ. Ông nghĩ về những người ông đã yêu, và đặc biệt là người đã bỏ ông! Ông nhớ mãi nỗi đau thương đó! Nó giống như một người nào đó đã đóng một cái đinh sắt khổng lồ vào giữa lồng ngực của ông. Chỉ trong một giây phút ông có thể cảm thấy mất thở vì đã bị từ chối…”
Ông nghĩ về thân phận đau khổ của mẹ mình. Làm thế nào người phụ nữ 26 tuổi lại có thể một thân mình nuôi được ba người con. Bà lao động vất vả để nuôi gia đình. Bà lại là một người Công giáo đạo đức. Đức tin không cho phép bà tái hôn. Từ lúc cha của Bradshaw bỏ bà ra đi, bà chưa bao giờ đụng vào một người đàn ông nào. Bradshaw nói: “Thật là một đức tin khó tả! Một lời đoan hứa cho những niềm tin. Và cũng thật đau khổ khủng khiếp khi bà bị từ chối!”
Chúa Giêsu cũng đã bị từ chối. Đây là điều bản văn Thánh Kinh đã nói với chúng ta: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”. Chúa Giêsu đã trích lại lời Thánh Vịnh 118:22-23 để áp dụng cho chính Ngài.
Con người khi bị từ chối, bỏ rơi, thường rất tuyệt vọng và đau khổ như trong trường hợp của Miss Saigon. Chúa Giêsu cũng rất đau khổ, nhưng không tuyệt vọng. Trong cùng một hoàn cảnh giống như con người nhưng Ngài đã tìm thấy niềm hy vọng. Chúa Giêsu Đấng đã bị từ chối, nhưng đã trở nên Đấng Cứu Thế. Và Thánh Kinh kết luận: “Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”.
Đây chính là điểm mang lại niềm hy vọng cho tất cả những ai có cảm giác bị từ chối, và bị loại bỏ. Nó được tìm thấy ý nghĩa trong tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Nó mang lại hy vọng khi chúng ta đặt tất cả sự nghi ngờ và lo sợ trên bàn thờ của Thiên Chúa và xin Ngài chữa lành những thương tích của chúng ta.

37. Hãy trả tiền thuê của bạn
Trong cuộc sống có rất nhiều sự bất công, đôi khi họ đạp lên cả lẽ phải và sự công chính để thực hiện mưu đồ điều ác của mình. Hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta về người chủ nhà làm mọi cách có thể để vườn nho của ông sản xuất trái nho. Rồi ông giao cho tá điền thuê, nhưng kết quả là một sự thiệt hại về cả vật chất lẫn tinh thần. Nó được thể hiện rỏ nhất khi chủ nhà sai những đầy tớ đến thu phần hoa lợi, thì những tá điền bắt các đầy tớ mà đánh đập và giết chết. Không những thế, khi chủ nhà lại sai chính con ông thì họ cũng giết cậu. Rồi Chúa Giêsu tuyên bố rằng ông chủ nhà sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và cho những tá điền khác thuê vườn nho mà họ biết chia phần hoa lợi.
Bài học trong câu chuyện thật dễ hiểu đối với thính giả thời Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã chọn người Do Thái làm dân riêng của Ngài, đã ban cho họ mọi sự có thể, nhưng họ bác bỏ và giết các sứ giả của Thiên Chúa và đóng đinh chính con của Ngài chết trên thập giá.
Ngày hôm nay, có nhữngtá điền mới trong vườn nho của Ngài, những công dân mới trong nước Thiên Chúa đó chính là chúng, những người được lựa chọn, những người được mời gọi. Cũng vậy, chúng ta phải làm sinh hoa lợi, phải trả một loại “tiền thuê”, một loại “dịch vụ”, một loại “nợ” về ân huệ gia nhập dân Thiên Chúa. Những gì Thiên Chúa muốn không phải vì Ngài thiếu. Nhưng Ngài muốn là lòng biết ơn của ta đối với Đấng đã cưu mang, điều đó được thể hiện qua việc chúng ta tuân giữ lề luật của Ngài. Thực vậy, mọi sự mà các giới răn đòi hỏi chúng ta đều thuộc về Thiên Chúa, ngay như những hoa lợi mà chủ nhà đòi hỏi đã thuộc về của ông.
Khi Thiên Chúa trao vườn nho cho mỗi người, thì chúng ta phải có bổn phận đáp trả sao cho xứng đáng, có thể chúng ta đang là những tá điền gian ác, bất công… Chúng ta có những hành động đó vì những cám dỗ nơi của cải trần gian, danh lợi thế tục mà chúng ta bị che mờ, bị mù quang cứ lao đầu như con thiêu thân làm hết chuyện ác này đến điều ác khác
Các giới răn là tiền lương, tiền thuê, tiền thuế, nếu bạn muốn gọi là thế, mà chúng ta phải trả cho bổn phận trong nước Thiên Chúa. Ở đây, bây giờ, bạn hãy xin Ngài giúp bạn thi hành sự trả nộp đó, nghĩa là tuân giữ các lệnh truyền của Ngài với lòng biết ơn và yêu mến.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra mình đang là những ta điền trong vườn nho của Chúa, để con biết được thân phận hèn mọn của mình mà ca tụng Chúa mỗi ngày trong đời con. Amen.

38. Hãy trả tiền thuê của bạn
Đức Giáo Hoàng Piô X lãnh đạo Giáo hội công giáo từ năm 1904 đến năm 1914. Chúng ta kính nhớ Ngài về việc làm thăng tiến nền giáo dục công giáo, khuyến khích rước lễ lần đầu vào tuổi sớm hơn, và đời sống thánh thiện của Ngài. Ngày nay chúng ta tôn kính Ngài là thánh Piô X. Khi làm cha phó ở Tombolo, Italia, Ngài đã lưu ý đến nhiều thanh niên không biết đọc biết viết. Do đó họ không kiếm được địa vị hay công việc thích hợp. Vị giáo hoàng tương lai tuyên bố: “Chúng ta sẽ mở trường học đêm. Trường sẽ chia ra hai nhóm: một nhóm do các giáo viên địa phương hứơng dẫn, là nhóm khá hơn gồm những người đã biết đôi chút. Tôi sẽ phụ trách những người khó dạy hơn”. Các thanh niên rất thích thú, nhưng một người trong nhóm họ đã muốn biết, “làm thế nào chúng ta có thể trả chi phí về việc này?”. Vị linh mục thánh thiện giải thích: “Bạn đừng lo. Tiền học là chỗ bạn không chửi thề”.
Để tỏ cho chúng ta biết nước Thiên Chúa giống như cái gì, Chúa Giêsu vừa kể cho chúng ta về người chủ nhà làm mọi cách có thể để vườn nho của ông sản xuất trái nho. Rồi ông giao cho tá điền thuê. Khi chủ nhà sai những đầy tớ đến thu phần hoa lợi, thì những tá điền bắt các đầy tớ mà đánh đập và giết chết. Chủ nhà lại sai chính con ông thì họ cũng giết cậu. Rồi Chúa Giêsu tuyên bố rằng ông chủ nhà sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và cho những tá điền khác thuê vườn nho mà họ biết chia phần huê lợi.
Ý nghĩa câu chuyện thật rõ ràng đối với thính giả thời Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã chọn người Do thái làm dân riêng của Ngài, đã ban cho họ mọi sự có thể, nhưng họ bác bỏ và giết các sứ giả của Thiên Chúa và đóng đinh chính con của Ngài chết trên thập giá.
Rồi Thiên Chúa kêu mời những người ngoài Do thái, là bạn và tôi, làm những tá điền mới trong vườn nho của Ngài, làm công dân mới trong nước Thiên Chúa. Cũng vậy, chúng ta phải làm sinh hoa lợi, phải trả một loại “tiền thuê”, một loại “dịch vụ”, một loại “nợ” về ân huệ gia nhập dân Thiên Chúa. Những thanh niên trong câu chuyện cảm thấy họ hàm ơn linh mục trẻ, thánh Piô X tương lai, vì họ được làm thành viên trong lớp học của Ngài. Tất cả điều Ngài đòi hỏi là họ không được kêu tên Chúa vô cớ. Trong khi làm cho chúng ta nên thành viên của nước Ngài, thì tất cả điều Thiên Chúa đòi hỏi là chúng ta tuân giữ lề luật của Ngài. Thực vậy, mọi sự mà các giới răn đòi hỏi chúng ta đều thuộc về Thiên Chúa, ngay như những hoa lợi mà chủ nhà đòi hỏi đã thuộc về của ông.
Trong giới răn thứ nhất, Thiên Chúa đòi hỏi phải tôn thờ sùng phụng. Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa ngay chính và qua thánh lễ này. Đấng tối cao có quyền đòi hỏi tôn vinh Ngài. Một ngày trong tuần đòi hỏi tôn vinh Thiên Chúa, Ngài đòi hỏi thánh hóa ngày đó như phần đền đáp lại của bổn phận trong nước Ngài. Thiên Chúa đã giao quyền bính cho cha mẹ và thầy dạy chúng ta. Bởi vì các Ngài thay mặt Chúa nên các Ngài đang được chia sẻ cho một số người được quyền năng tạo dựng những con người mới. Đấng tối cao che chở bảo vệ phái tính. Mọi của cải tùy thuộc Thiên Chúa. Trộm cắp là lấy mất cái gì nơi Thiên Chúa.
Các giới răn là tiền lương, tiền thuê, tiền thuế, nếu bạn muốn gọi là thế, mà chúng ta phải trả cho bổn phận trong nước Thiên Chúa. Ở đây, bây giờ, bạn hãy xin Ngài giúp bạn thi hành sự trả nộp đó, nghĩa là tuân giữ các lệnh truyền của Ngài với lòng biết ơn và yêu mến.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

39. Tá điền và vườn nho
Có một bản tin gây nhiều xúc động, đó là: một thanh thiếu niên phạm pháp được trả tự do lạm thời, nhờ hạnh kiểm tốt trong thời gian bị giam tù. Vì không còn cha mẹ, nên em này được một người trong vùng nhận làm con nuôi và em được đối xử tốt đẹp như năm người con khác trong gia đình, không chút kỳ thị phân biệt. Cha mẹ nuôi cũng như anh chị em mới trong gia đình cố gắng làm hết mọi sự để giúp em cảm nhận được tình yêu thương chân thành trong gia đình mới.
Một hôm, em được phép cha mẹ cho đi tham dự buổi tiệc sinh nhật của người bạn với lời nhắn nhủ là “hãy trở về nhà trước 11 giờ khuya”. Nhưng 11 giờ, rồi 12 giờ và 1 giờ sáng mà em vẫn chưa về. Mọi người trong nhà đã đi ngủ, chỉ trừ cha mẹ nuôi của em canh thức đợi em về với nhiều lo tắng, cuối cùng 2 giờ sáng em mới về tới nhà. Không một lời giải thích hay xin lỗi cha mẹ nuôi gì cả, nhưng phần cha mẹ nuôi chỉ trách nhẹ em một câu: “Này con, lần sau con ráng về đúng giờ để cha mẹ không phải lo lắng đợi chờ con nữa”.
Sáng hôm sau, khi mọi người trong gia đình kẻ đi làm người đi học, chỉ còn lại mẹ nuôi ở nhà, và bất ngờ, người thiếu niên này dùng một khúc sắt từ sau lưng tiến lại đập đầu người mẹ nuôi của em. Trước toà án, em không chút hối hận và người cha nuôi của em trong cơn đau khổ tột cùng chỉ thốt lên một lời: “Nó đã giết chết người vợ thân yêu của tôi. Đây là một hành động vô ơn tột cùng”.
Sự việc trên có thể giúp chúng ta phần nào hiểu thấu được dụ ngôn: “Người tá điền và vườn nho” được nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là thái độ vô ơn tột cùng của những người giữ vườn nho đáng trách, họ đã khước từ và giết hại những người làm mà ông chủ sai đến, rồi cuối cùng họ cũng giết chết luôn cả người con của ông chủ.
Thái độ vô ơn tột cùng này cũng là một lời cảnh tỉnh cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay, qua đó nhắc nhở chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với Thiên Chúa. Như ông chủ vườn nho, Thiên Chúa nhân lành luôn thông cảm và tha thứ những lỗi tầm của chúng ta, một khi chúng ta biết trở về với Ngài.
Mặt khác, Thiên Chúa trao cho chúng ta công việc chăm sóc vườn nho của Ngài, để chúng ta làm trổ sinh hoa trái tốt đẹp. Hơn nữa, Ngài đã không ngừng sai những sứ giả của Ngài đến để nhắc nhở chúng ta tích cực chăm sóc vườn nho cho Ngài. Vì thế chúng ta phải có bổn phận biết ơn là dâng lại cho Ngài những điều tốt đẹp, những chùm nho ngon ngọt của việc làm tốt mà chúng ta phải thực hiện trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng, có thể thay vì dâng cho Ngài những chùm nho ngon ngọt, thì chúng ta lại có những thái độ thù nghịch chống lại Ngài, chống lại Thiên Chúa, chống lại những sứ giả mà Ngài đã sai đến với chúng ta.
Vậy, thử hỏi còn điều gì có thể làm được cho con người mà Thiên Chúa đã không làm để cứu rỗi, để hướng dẫn và ban hơn nữa cho chúng ta hay không?
Chính Ngài đã sai Con Một Ngài đến cứu rỗi chúng ta, và hy vọng con người sẽ không giết hại Con Ngài, nhưng sẽ tắng nghe lởi Người: “Đây là Con Ta yêu dấu, các người hãy vâng nghe lời Ngài”.
Thật thế những kẻ vô tâm, bất nhân bất nghĩa đã làm việc bất nhân, thay vì dâng lời cảm lạ Thiên Chúa thì lại giết chết Con Thiên Chúa, giết chết người ân nhân vĩ đại của cuộc đời mình. Xin Chúa ban ơn biến đổi cho mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn biết tắng nghe liếng Chúa trong mọi hoàn cảnh sống của cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ khẩn cầu Chúa ban cho mỗi người chúng con được bắt chước gương sống của Mẹ: Khiêm tốn, vâng phục, chấp nhận thưa “xin vâng” với Chúa trong mọi nghịch cảnh của cuộc đời: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Ngài truyền”. Nhất là chúng con xin Mẹ giúp cho mỗi người chúng con luôn luôn sống trong thái độ biết ơn Thiên Chúa, cố gắng hết mình để làm vườn nho mà Ngài đã trao phó cho mỗi người chúng con, để cây nho được trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp. Xin Thiên Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

40. Thất trung – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Dân Do-thái khi đã an cư lạc nghiệp nơi vùng Đất Hứa, họ gia công làm việc để gầy dựng cuộc sống. Chấm dứt thời gian lữ hành ăn Manna, thịt chim cút và uống nước suối. Giữa vùng đất sỏi đá, họ đã dùng sức lao động để chuẩn bị những mảnh vườn trồng nho mầu mỡ. Có lẽ nhiều người trong chúng ta không quen thuộc với hình ảnh vườn nho, dàn nho hay cây nho nặng trĩu trái ngọt. Tiên tri Isaia ví von dân Do-thái như vườn nho được chăm tưới: Người rao giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn và trông mong nó sinh qủa nho nhưng nó lại sinh toàn nho dại (Is 5, 2). Người chủ trồng loại nho tốt trong vườn, nhưng kết qủa dàn nho chỉ sinh ra toàn trái nho dại.Isaia ngụ ý nói về đời sống bất trung của dân Do-thái. Một dân tộc được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc và bảo vệ ân cần, nhưng rồi dân chúng chứng nào cứ tật đó. Họ đã từ bỏ giáo huấn của Chúa để chạy theo lối sống của các dân ngoại.
Đọc qua lịch sử của dân Do-thái, chúng ta nhận biết họ là một dân tộc rất thông minh, ưu tú và giầu có. Họ đã trải qua biết bao thăng trầm để kiến thiết đất nước. Các dân tộc chung quanh luôn quấy phá, nên chẳng mấy khi dân chúng được sống trong yên hàn. Xưa kia, Thiên Chúa đã hứa ban cho họ một dòng dõi đông đúc và trường tồn, nếu họ biết trung thành giữ các huấn lệnh và giữ lời giao ước. Suốt dọc lịch sử của hơn một ngàn năm trước Đấng Cứu Thế xuất hiện, họ đã bị lưu đầy xa xứ nhiều lần, làm nộ lệ cho ngoại bang và thành thánh bị phá đổ tan hoang. Chúa vẫn yêu thương và kiên nhẫn qui tụ họ lại như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh. Thời gian tín trung chẳng kéo dài được bao lâu, họ lại buông bỏ rời xa Chúa. Hậu qủa của sự bất trung: Giờ đây ta tỏ bày cho các ngươi biết ta sẽ làm gì đối với vườn nho ta; Ta sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị gầy đạp (Is 5, 6). Dân lại bịlưu đầy tản mác, không phải chỉ trong thời của tiên tri Isaia, nhưng vận số kéo dài cho đến ngày nay. Chẳng mấy khi quê hương xứ sở nước Do-thái được sống trong an bình.
Tiên tri Isaia diễn tả tâm tình của người chủ đau buồn vì bị con cái từ chối và làm cho thất vọng. Như cha mẹ đã rên siết trong lời than van mà Isaia đã thốt lên: Nào còn việc gì phải làm cho vườn nho ta, mà ta không làm? Không có sự buồn phiền sầu não nào hơn là bị bỏ rơi. Như gươm sắc thâu qua trái tim và ghi hằn vết sâu thương tích. Tiên tri đã diễn tả sự vô ơn của một đoàn dân đã hưởng nhờ biết bao ơn lành phước lộc, nhưng đã không sinh ra được hoa qủa mong muốn. Như Giáo hội mẹ cũng mang nhiều tâm tư sầu khổ khi thấy con cái mình thơ ơ lãnh đạm trong việc sống đạo và hành đạo. Nhiều Kitô hữu không còn là muối là men để ướp đời, nhưng đã bị đời ô nhiễm làm biến chất không sinh hoa qủa tốt lành.
Câu truyện dụ ngôn trong bài phúc âm hôm nay tường thuật về việc ông chủ vườn nho cho các tá điền thuê để kiếm hoa lợi. Một vườn nho được chuẩn bị kỹ lưỡng và xếp đặt đầy đủ các phương tiện để giúp thu hoặch mùa màng tốt. Tá điền là những người làm công quản lý gia sản của chủ. Họ đã gian tham lạm dụng sự tin tưởng của ông chủ để làm những việc thất đức. Người làm vườn đã xua đuổi, giết chóc và hãm hại các đầy tớ của chủ được sai đến để thu phần hoa lợi. Vì ác tâm, họ đã giết cả người con thừa tự. Họ tìm cách tiêu diệt tất cả hậu duệ để chiếm đoạt gia sản. Họ đã vào hùa với nhau: Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em, chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó (Mt 21, 38). Lời Chúa trong dụ ngôn này đã động chạm tới các thượng tế và kỳ lão trong dân, vì họ hiểu rằng Chúa Giêsu đang ám chỉ tới cách cư xử thất trung của họ và cha ông họ đối với các tiên tri xưa.
Chúa Giêsu tóm lược sự thất nghĩa của dân tộc Do-thái qua câu truyện dụ ngôn ngắn. Đúng thế, không tiên tri nào được quí trọng nơi quê hương xứ sở của mình. Hầu hết các tiên tri chịu chung một số phận là bị ghét bỏ, đánh đập, xua đuổi và bị giết hại. Chúa Giêsu là vị tiên tri cao cả và là Con Thiên Chúa, rồi đây họ cũng không tha. Nhưng dù họ có loại bỏ và giết đi, Chúa Kitô đã trở nên viên đá góc của tất cả mọi niềm tin và hy vọng. Chúa Giêsu phán: Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh: Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc, đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta (Mt 21, 42). Đá góc quan trọng nối hai bờ tường lại giáp mối với nhau. Chúa Giêsu là trung gian kết hợp con người trong yêu thương.
Trên thế giới hiện nay, có tổng cộng trên 2.18 tỉ Kitô hữu trong mọi tầng lớp. Ba nhóm Kitô hữu đông nhất là Giáo Hội Công Giáo, Tin Lành và Chính Thống Giáo Đông Phương. Có trên 1.09 tỉ người là Công Giáo, nửa số Kitô hữu còn lại cũng đều tin vào Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ. Giống như muôn hoa đua nở, có rất nhiều giáo phái khác nhau trong cùng một niềm tin. Các giáo phái thuộc các tôn giáo luôn củng cố và phát triển mỗi ngày vững mạnh hơn. Sự đối thoại liên tôn giúp các phe nhóm trong các Giáo Hội sát gần lại với nhau hơn. Tuy có nhiều khác biệt về tổ chức, chủ trương, cách hành lễ và thực hành đạo, nhưng chung qui về một tảng đá góc, đó là Chúa Giêsu Kitô. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhận định để trả lời cho đại diện của nhóm những người Tin Mừng rằng: “Tôi không quan tâm tới việc cải đạo những anh chị em Tin Mừng qua đạo Công Giáo. Tôi muốn người ta tìm được Chúa Giêsu ngay trong cộng đồng của họ. Hiện có rất nhiều đạo lý mà chúng ta không thể nhất trí với nhau được. Nhưng chúng ta hãy để ý tới việc biểu lộ tình yêu của Chúa Giêsu.”
Một thực tế là niềm tin và cuộc sống con người khó thay đổi để trở nên một, nhưng vẫn có thể hiệp nhất với nhau trong Chúa Kitô.Cách tốt nhất là chấp nhận nhau và thăng tiến mỗi ngày để giúp nhau sống tốt hơn.Chúng ta không thể đi ngược lại thời gian. Giáo Hội trải qua rất nhiều giai đoạn thăng trầm trong cơ cấu tổ chức. Niềm tin vào Chúa Kitô được tỏ bầy dưới nhiều hình thức rất đa dạng. Mỗi người được mời gọi vào làm vườn nho cho Chúa. Lúc nào vườn nho cũng cần được vun xới để sinh hoa kết qủa tốt. Mỗi chúng ta đều là tá điền có bổn phận chăm lo một phần nhỏ trong vườn nho nhà Chúa. Khi mùa thu hoặch đến, chúng ta hy vọng sẽ thu phần hoa lợi tốt qua đức bái ái yêu thương và biết chia sẻ cuộc sống. Dụ ngôn về các tá điền thách đố chúng ta tiếp tục trung thành làm việc trong vườn nho Chúa, đừng để bị thất vọng. Chúng ta sẽ cung cấp những hoa trái tốt lành bằng gương sáng trong cuộc sống.
Thánh Phaolô khuyến khích chúng ta đặt niềm tin tưởng vào Chúa Kitô trong khi cầu nguyện. Không thể cậy dựa vào sức riêng của mình, nhưng với ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta sẽ gặt hái được nhiều thành qủa trong đời sống tâm linh: Anh em thân mến, anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ (Phil 4, 6). Đừng lo lắng nhưng hãy phó thác vào sự quan phòng của Chúa. Chúa tiếp tục dẫn dắt lịch sử nhân loại. Thiên Chúa đã gieo những hạt giống tốt vào tâm hồn của chúng ta, Ngài mong mỏi hạt giống sẽ sinh ra nhưng bông hạt quí báu. Đừng để sinh ra những trái nho chua vô bổ của sự hiềm thù, ganh ghét, ích kỷ và vô ơn.
Lạy Chúa, chúng con là môn đệ, là tá điền và là chứng nhân của Chúa, xin cho chúng con biết nỗ lực tiến bước và làm phát sinh những hoa qủa tốt là lòng bao dung, sự quảng đại, yêu thương và tha thứ.

41. Được và mất
Chuyện ngụ ngôn “Lừa và Sói” kể rằng: Một hôm, lừa đang gặm cỏ, bỗng thấy Sói phi nước đại phóng tới. Lừa giả bộ đi khập khiễng. Khi Sói đến gần, hỏi nó vì sao bị thọt chân, thì Lừa trả lời:
– Vừa nãy tôi nhảy qua hàng rào bị xóc gai.
Rồi Lừa đề nghị Sói trước khi ăn thịt mình hãy nhổ gai ra đã, để khỏi bị gai đâm.
Sói tin lời, Lừa giơ cao chân để Sói soi mói kỹ lưỡng các móng chân Lừa. Lừa thừa cơ đạp mạnh vào mõm Sói rồi bỏ chạy.
Sói bị gẫy hết răng ôm đầu kêu la.
– Đáng đời ta! Cha mẹ nuôi ta thành kẻ chuyên ăn thịt, chứ đâu dạy ta làm thày lang!
Nếu chuyện ngụ ngôn nào cũng cho chúng ta một bài học, thì chuyện ngụ ngôn “Lừa và Sói” muốn nói với chúng ta: Kẻ nào không làm đúng công việc của mình sẽ lãnh hậu quả bi thảm.
Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn “Những người thợ làm vườn nho”. Mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa giao phó cho một vườn nho, là những tài năng tinh thần, của cải vật chất, để chúng ta đem hoa lợi về cho Người. Thiên Chúa còn tôn trọng chúng ta, Người để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc, theo sáng kiến riêng của mỗi người. Thánh Matthêu viết: “Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa”. Người không ở đó để kiểm soát, canh chừng.
Khốn thay, có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông. Những tá điền ấy đã ngược đãi và sát hại các đầy tớ mà chủ sai đến. Thậm chí, đến lần thứ ba chúng giết luôn cả con trai ông. Họ làm như thế là để chiếm lấy gia tài của chủ. Hậu quả là: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông”.
Thiên Chúa ban muôn hồng ân, là để chúng ta phục vụ Chúa và anh em, chứ không phải để chúng ta tìm tư lợi, danh vọng, và khoái lạc cho bản thân.
Thiên Chúa kiên nhẫn trước những xúc phạm, lầm lỗi của chúng ta, là để chúng ta có cơ hội hoán cải, chứ không phải để chúng ta ngày càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên Chúa trao phó cho chúng ta các tài năng là để chúng ta sinh lợi cho phần rỗi mình. Nếu chúng ta không biết sử dụng ơn lành Chúa ban, thì Người sẽ cất đi và trao cho kẻ khác. Nỗi bất hạnh ấy chỉ mình ta gánh chịu mà thôi!
Sẽ đến ngày chúng ta phải tường trình về công việc vườn nho mà Chúa đã trao phó. Sẽ đến ngày chúng ta phải dâng lên Chúa những thu hoạch hoa lợi mà Người trông đợi. Bội thu hay mất trắng là hoàn toàn do công việc chúng ta đang làm hôm nay. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “Chúng ta chịu trách nhiệm về những điều chúng ta đã làm, đã không làm, hay đã cản trở không cho người khác làm”.

42. Công trình cứu độ kỳ diệu
Công trình cứu độ của Thiên Chúa kỳ diệu biết bao. Từ trước khi tạo dựng, Thiên Chúa đã dự liệu cho loài người được hạnh phúc vĩnh cửu và Ngài đã lo cho loài người đến cùng, Ngài không hề tiếc chi với con người. Ngài đã tạo dựng lại còn cứu chuộc. Khi con người phản nghịch cùng Chúa, Ngài đã chuẩn bị một chương trình để Con Một Ngài là Đức Kitô đến với loài người, tỏ mình và dạy dỗ nhân loại cho biết về mầu nhiệm Ba Ngôi tình yêu, về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa và đồng loại.
Thiên Chúa đã chọn dân Do thái làm dân riêng để chuẩn bị cho việc cứu độ mọi người mọi thời. Ngài đã sai các tiên tri đến dạy dỗ họ, Ngài giữ gìn, ban ơn, tỏ ra ưu ái họ hơn những dân tộc khác. Tuy nhiên, có nhiều lúc họ không lo đáp trả tiếng Chúa, không tuân giữ lời Chúa dạy, không trả phần huê lợi mà Chúa đã đầu tư vào rất nhiều. Chúa đã thể hiện bao nhiêu là tình thương, nhẫn nại đối với dân tộc Israel nhưng nhiều kẻ vẫn cứng lòng, không đáp ứng lời mời gọi của Chúa. Nhất là khi thời gian viên mãn đã đến, Thiên Chúa đã sai Con Một ngài xuống thế vì nhân loại. Đấng Emmanuel đầy tình yêu thương, rất nhân từ với mọi người lại bị kẻ cầm quyền trong dân ganh ghét và giết đi. Tuy nhiên, sự cứng lòng cố chấp của họ không phá được chương trình cứu độ kỳ diệu của Thiên Chúa. Tuy không phải toàn dân Do thái tin theo Chúa Giêsu, nhưng từ dân tộc Do thái, Chúa chọn được một số người làm nền tảng xây dựng dân tộc mới là Hội thánh Chúa. Cả dân Do thái và dân ngoại đều được hưởng ơn cứu chuộc nhờ tin vào Đức Kitô và những tín hữu này trở nên chứng nhân cho Chúa giữa mọi người.
Chúa Giêsu muốn các kỳ lão và thượng tế nhận thức được dụ ngôn mà biết lỗi và sửa đổi, nhưng sau khi nghe dụ ngôn, họ vẫn tiếp tục sai lầm và còn chống đối muốn giết Chúa Giêsu. Tuy nhiên, chương trình của Chúa không vì thế mà bế tắc. Lúc Chúa Giêsu chết trên thánh giá lại là lúc Ngài chiến thắng Ác thần và sự chết, tự nơi Ngài có sức mạnh cứu độ muôn dân. Hòn đá mà những người thợ xây loại ra, đã trở nên viên đá góc tường, là nền tảng của Hội thánh. Những người cầm quyền dân Do thái từ chối Chúa Giêsu, nhưng Thiên Chúa đã cho Người trở nên Đá Tảng xây nên toà nhà của Chúa. Đó là việc kỳ diệu trong công trình cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Sau khi Chúa sống lại, Chúa đã giao vườn nho lại cho người xứng đáng hơn canh tác. Những người tin vào Ngài hợp thành dân riêng là Hội thánh Chúa, họ được thừa hưởng lời Giao Ước Chúa ban cho con cháu Abraham, được trở nên con Chúa trong Đức Giêsu Kitô Phục sinh.
Những sai phạm và cố chấp của các vị lãnh đạo do thái xưa là lời cảnh tỉnh cho chúng ta hôm nay. Chúng ta có cộng tác với ơn chúa chưa? Nhiều lúc chúng ta nhận ra ý chúa nhưng vì không muốn khổ cực nên chúng ta từ chối, thoái thác. Chúng ta có biết cậy trông, phó thác vào Chúa hay cứ làm theo kế hoạch riêng nhằm đem lại lợi lộc trần gian mà thôi. Mỗi người đều được Chúa mời vào một vị trí trong chương trình của Ngài. Chúng ta nên ý thức về nhiệm vụ của mình, ra sức phát triển khả năng Chúa ban và phục vụ theo ý Chúa muốn. Nén bạc chúa trao, tôi có sử dụng đúng mức không, có nộp đủ phần hoa lợi cho Chúa không? Có khi nào tôi chôn giấu nén bạc Chúa trao mà không sinh lợi, hay có sinh lợi nhưng quên nguồn gốc của nén bạc đó, không biết ơn chúa đúng mức! Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, kiên nhẫn vẫn chờ đợi tôi, nhắc nhở và ban ơn thêm. Nhưng đến một lúc nào đó, Ngài sẽ gọi tôi đi trình diện và thưởng phạt công minh.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con hết lòng tin tưởng vào chương trình của Chúa thực hiện mỗi người chúng con, chúng con sẽ luôn vâng theo thánh ý Chúa để cuộc đời chúng con luôn gắn bó mật thiết với Chúa. Chúng con sẽ sống khiêm tốn, biết tìm dịp lắng đọng tâm hồn nhiều hơn để có thể nhận ra tiếng Chúa trong cuộc sống. Xin Chúa cho chúng con biết luôn tỉnh thức, không tự mãn với những việc đạo đức của mình nhưng tin tưởng, trông cậy, phó thác vào chương trình của Chúa. Chúng con nguyện sống theo gương Chúa về lòng tin yêu phó thác và phục vụ để mọi người nhìn vào chúng con có thể nhận ra tình thương của Chúa mà được ơn cứu độ.

43. Tá điền vườn nho
Nhân cơ hội các thượng tế và các kỳ lão chất vấn Chúa Giêsu về việc Người lấy quyền nào mà đánh đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ, Chúa Giêsu đã dùng ba dụ ngôn để nói với các ông như những lời cảnh giác về sự cứng lòng của họ. Dụ ngôn tá điền gian ác là một trong ba dụ ngôn ấy.
Như đã nói ở trên, câu chuyện dụ ngôn Đức Giêsu kể trực tiếp nhắm vào các thượng tế và kỳ lão. Họ là những người được Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăm sóc vườn nho là dân riêng của Chúa. Nhưng thay vì mang hoa lợi về cho chủ là Thiên Chúa, họ lại muốn chiếm đoạt hoa lợi ấy cho mình. Vì thế, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến là các ngôn sứ đều bị họ giết chết. Cuối cùng ngay cả Người con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu cũng bị họ đóng đinh và treo Người trên cây thập giá. Họ nghĩ rằng chỉ khi làm như thế họ mới chiếm đoạt được trọn quyền thừa kế và hưởng lợi lộc từ vườn nho.
Ý nghĩa cụ thể của dụ ngôn là như thế. Nhưng chúng ta cần nội tâm hóa câu chuyện để có thể lắng nghe được tiếng gọi của Thiên Chúa dành cho chính mình chứ không phải chỉ cho những người xa lạ ở vào những thời đại xa xưa.
Như ông chủ trao phó vườn nho cho các tá điền, Thiên Chúa cũng tín nhiệm trao phó cho ta chăm sóc những vườn nho của Người. Vườn nho ấy là chính cuộc đời của riêng ta, là những cộng đoàn mà ta phải phục vụ, là những trách nhiệm mà ta phải hoàn thành.
Như ông chủ vườn nho đã dựng hàng rào, đã xây tháp canh để bảo vệ vườn nho, đã lắp đặt máy ép nho để giúp cho công việc của tá điền được dễ dàng, nhờ đó họ có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Khi trao cho ta những nhiệm vụ, Thiên Chúa cũng ban cho ta phương tiện là những ân huệ cần thiết để chúng ta thực hiện tốt công việc được trao.
Trao vườn nho rồi, ông chủ đi xa một thời gian. Ông tin tưởng các tá điền sẽ làm cho vườn nho sinh hoa kết trái. Thiên Chúa cũng tin tưởng ở chúng ta khi trao cho chúng ta những trách nhiệm. Người không trực tiếp giám sát chúng ta như những anh công an. Người cũng không phải là một ông chủ chuyên chế áp đặt tự do và giết chết sáng kiến của chúng ta. Người tôn trọng chúng ta như những người trưởng thành và để chúng ta tự do làm việc. Người tin tưởng ở tinh thần trách nhiệm của chúng ta.
Sau một thời gian vắng nhà, khi trở về, ông chủ sai các đầy tớ đến thu hoa lợi của vườn nho. Sẽ tới ngày chúng ta cũng phải tính sổ với Thiên Chúa về những công việc được trao phó. Người hỏi chúng ta về hoa trái của những công việc đã được trao. Người hỏi chúng ta về tinh thần trách nhiệm.
Những người tá điền đã giết chết các tôi tớ của ông chủ. Hành vi này tượng trưng cho sự khước từ Thiên Chúa của chúng ta. Có thể chúng ta đã từng loại trừ Thiên Chúa vì nghĩ rằng Người là một ông chủ hà khắc, hay đòi hỏi, hay quấy nhiễu con người.
Thay vì tiêu diệt các tá điền, ông chủ lại sai thêm các đầy tớ khác. Điều này nói lên lòng nhân từ và sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người không trừng phạt chúng ta khi chúng ta phản nghịch và chống lại Người, nhưng Người ban cho ta nhiều cơ hội để sửa chữa những lỗi lầm và để trả lời cho tiếng gọi của Người.
Không nhận ra được lòng nhân từ của ông chủ, những người tá điền lại giết chết cả những anh đầy tớ này. Đó chính là thái độ cố chấp sống trong tội lỗi của chúng ta. Tội lỗi là sự bất tuân lệnh của Thiên Chúa, là cố ý chống lại Thiên Chúa, cố ý đi ra khỏi con đường của Người.
Không ngã lòng, ông chủ còn sai con trai mình đến với những người tá điền. Và họ cũng giết chết luôn cả anh con trai này. Họ bàn bạc với nhau rằng: Phải giết anh con trai thừa tự này đi để chúng ta chiếm lấy vườn nho. Thì ra tội lỗi của những người tá điền không phải là không làm cho vườn nho sinh hoa kết trái mà là muốn chiếm đoạt vườn nho của ông chủ. Thiên Chúa đã dùng mọi phương cách để cứu vớt con người. Người đã chơi ván bài chót là liều hy sinh chính Con Một của Người để thức tỉnh con người. Nhưng con người luôn muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời mình để có thể sử dụng cuộc đời, để định đoạt mọi sự theo ý mình muốn. Chúng ta làm việc này việc khác không phải vì quyền lợi của Thiên Chúa mà chỉ vì ích lợi của bản thân mình. Chúng ta muốn chiếm đoạt những gì thuộc về Thiên Chúa để làm của riêng mình.
Chính trong ý nghĩa nói trên mà câu chuyện dụ ngôn cũng là câu chuyện của đời thường và câu chuyện của ngày xưa cũng là câu chuyện của ngày hôm nay. Hàng ngũ lãnh đạo Do thái giáo ngày xưa đã loại trừ và đã giết chết Con Thiên Chúa, Đấng đã đến trần gian để chỉ cho họ con đường về Trời. Vụ án giết Con Thiên Chúa vẫn còn kéo dài qua mọi thời cho tới ngày hôm nay. Và lý hình giết con Thiên Chúa có thể là mỗi người chúng ta. Điều đó thật là đáng sợ.

44. Siêng năng làm việc
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Vườn nho ám chỉ nước Chúa. Những người làm vườn nho là giới lãnh đạo, là những người đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là hàng loạt các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, nước Chúa được chuyển sang cho một quốc gia khác là Hội Thánh, một dân phổ quát và Công Giáo, sẽ lan tràn đến tất cả mọi quốc gia.
Chúng ta thấy dụ ngôn vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri, nghĩa là một đàng diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ. Đàng khác, nói tiên tri về đạo Chúa sẽ lan tràn khắp các dân không phải dân Do Thái. Hơn nữa, dụ ngôn cũng cho chúng ta thấy rõ thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu. Những người được sai đến trước Ngài, dù nổi tiếng đến đâu như Ê-li-a, Ê-li-sa, I-sa-i-a,
Giê-rê-mi-a, Gio-an Tiền Hô… cũng chỉ là đầy tớ, còn Ngài mới là con trai duy nhất của Chúa Cha. Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay có nhiều điều đáng lưu ý và ghi nhớ. Sau đây chúng ta tìm hiểu một điều thôi, đó là các tá điền làm vườn nho.
Bài Tin Mừng cho biết: ông chủ vừa trồng xong vườn nho, lẽ ra ông phải chăm bón để kiếm hoa lợi, nhưng ông lại cho các tá điền canh tác để đến mùa thu hoa lợi. Điều này nói lên ông chủ tín nhiệm các tá điền. Nhưng có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông chủ. Chúng ta có thể áp dụng như sau: mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho, là những ơn phúc và chúng ta có bổn phận phải đem hoa lợi về cho Chúa. Ngài để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm.
Thực vậy, những ơn phúc Chúa ban như những tài năng tinh thần, những của cải vật chất, chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải làm việc và làm lợi cho Chúa. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau về nơi chốn, thời gian, khả năng, dịp tiện. Mỗi người, không ai giống ai cả, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng Chúa ban. Chúng ta không giống nhau về khả năng, nhưng có thể giống nhau về cố gắng. Thà cố gắng mà không có tài còn hơn có tài mà không cố gắng làm lợi cho Chúa.
Vậy mọi người chúng ta đều có một điều giống nhau, đó là đời sống để làm việc: việc lớn, việc nhỏ. Đa số chúng ta ai cũng muốn làm việc lớn, được nhiều lợi, được người khác biết đến. Nhưng Chúa bảo chúng ta hãy làm việc nhỏ. Chúng ta cần trung tín trong việc nhỏ bé trước đã. Chỉ khi nào chúng ta làm được những việc nhỏ bé, chúng ta mới có khả năng làm những việc lớn lao hơn. Những việc nhỏ chính là nấc thang đưa tới thành công lớn. Không ai có thể làm việc lớn cho Chúa nếu trước hết họ không làm được những việc nhỏ cho Ngài. Nếu chúng ta không trung thành trong việc nhỏ thì không ai tin tưởng trao cho chúng ta việc lớn hơn. Chúng ta hãy nhớ: không có việc gì quá nhỏ mà không đáng làm, và cũng không có việc gì quá nhỏ mà không đem lại lợi ích. Vấn đề là chúng ta có chịu làm hay không.
Có một câu chuyện ngụ ngôn, với tựa đề là “vị thiên thần dễ tính” kể lại như sau: Ngày kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền vạn năng của Thiên Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện: “Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm những việc thông thường”. Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi sau cùng sức khỏe cũng giả biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khỏe ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tốt những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm: “Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu”. Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời của mình, hàng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một người chồng chung thủy, một người cha hiền tận tụy với con cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thât vui tươi hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.
Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Tóm lại, chúng ta hãy siêng năng làm việc để chu toàn bổn phận của mình. Chúng ta hãy tận dụng tài năng, sức lực, thời giờ, của cải Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và sự nghiệp đức tin trên Nước Trời.

45. Chúa Giêsu đứng trên mọi quyền lực
(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)
Thưa quý vị, thưa các bạn, Tin Mừng Chúa Nhật 27 TN A hôm nay (Mt 21, 33-43) rất thú vị, dù nội dung dụ ngôn thật bất nhân, mang tính bất lương, mất nhân tính. Nhưng câu kết của Đoạn Tin Mừng hôm nay là một đoạn kết có hậu, đầy tràn sự nhân đạo, ôn hòa. Vì sao, thưa quý vị? Thưa vì, “Chúa Giêsu- Đấng Cứu Thế, đứng trên mọi quyền lực”.
Theo đó, Đoạn Tin Mừng hôm nay, tuy có 11 câu, nhưng có thể chia làm 3 phần:
Phần 1: Nội dung dụ ngôn “ Dụ ngôn vườn nho và những tên tá điền ác nhân “ (Mt 21, 33- 39)
Phần 2: Vấn đề Chúa Giêsu đặt ra và sự trả lời của người Do-thai. (Mt 21, 40 – 41)
Phần 3: Sự trả lời của Chúa Giêsu và ý nghĩa nhân hậu của vấn đề. (Mt 21, 42 -43)
Như vậy, ý nghĩa đoạn Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một bài học vô cùng cao siêu từ Thiên Chúa là Cha nhân hậu, giàu lòng xót thương, nhưng không nhu nhược. Bởi vì, Người đứng trên mọi quyền lực. Điều đó được biểu lộ tại câu 43 của Tin Mừng thánh Mat-thuê.
Qua đoạn nầy, chúng ta xem lại các đoạn (Mc 12, 1- 12); (Lc 20, 9-19), sẽ thấy điểm khác biệt của Tin Mừng Matthuê, thánh Mat-thuê thường sử dụng từ “Gia Chủ” để chỉ về Thiên Chúa. Đây là từ ngữ được đặc trưng cho Matthuê, hầu đề cập đến một Nước Thiên Chúa siêu nhiên.
Khởi đi từ bài đọc I (Is 5, 1- 7), chúng ta thấy Thiên Chúa nhân từ yêu thương dân tộc Israel, chi họ Giu-đa. Hình ảnh vườn nho là một sự thân thương, một hoạt cảnh thiết thực trong đời sống dân Do-thai, được Thiên Chúa yêu thương, săn sóc, vỗ về.
Bài đọc II thánh Phao-lô (Pl 4, 6 – 9) chỉ dạy cho chúng ta biết, chúng ta đừng lo lắng, nhưng hãy cậy trông tin tưởng vào Thiên Chúa, vì bình an của Thiên Chúa vượt lên trên tất cả, sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Đức Kitô – Giêsu. Vì những điều tốt là những điểm cần chú ý và đã được nhìn thấy từ thánh nhân thì nên thực thi.
Trở về Đoạn Tin Mừng hôm nay, tại câu 34, thánh Matthuê cho chúng ta thấy, Nước Thiên Chúa đang đến gần: “Gần đến mùa hái nho, ông cho đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi” (c34). Qua câu nầy, thánh Matthuê đã dùng một mệnh đề tạo hình dáng cho người đọc thấy được đặc tính Nước Thiên Chúa sắp đến gần. Điều nầy sẽ xuất hiện ở câu 43 là câu mấu chốt của vấn đề. Ở câu 35; Đánh đập các đầy tớ, đánh người nầy, giết người kia, thật là sát nhân. Điều nầy theo nghĩa bóng là giết hại các tiên tri, bất chấp sự giáo huấn của họ. Nhưng theo nghĩa đen, thì cảnh tượng nầy chính là nằm ở lòng tham của phàm nhân. Chúng ta thấy, hình ảnh nầy, theo nghĩa đen thì không xa lạ gì với tâm trạng tội lỗi của nhân loại. Người làm công và tá điền cũng thường dấy lên để chống lại chủ. Tuy nhiên cũng có những chủ nhân bất công, hà khắc, nhưng cũng có những chủ nhân tốt. Dù sao, tâm lý tá điền và người làm công, nếu như không có nhân đức, thì lòng tham dễ nổi lên. Thánh Matthuê đã đưa thêm vào so với Mc và Lc, là giết người và ném đá điểm nầy. Câu 36 -37, chúng ta thấy thánh Matthuê đã tóm tắt cảu Mc, loại bỏ tính từ “được yêu thương” dành cho “Người Con” của ông chủ. “… Ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: “chúng sẽ nể con ta”. (c 37). Nhưng khi bọn tá điền vừa trông thấy người con trai thì hè nhau nói: “Nào đây, là đứa thừa tự đây rồi!”. “Chúng ta giết quách cho xong, và chiếm đoạt gia tài nó.” (c 38). Và rồi chúng cũng giết luôn người con trai của ông chủ. (c 39). Như vậy, chúng ta thấy sự tàn ác theo nghĩa đen là do của cải vật chất, sự ganh tỵ, sự ích kỷ, sự tàn ác chính là hệ quả của lòng tham.
Ở câu 39 thánh Matthuê đã đưa vào một ngụ ý là Chúa Giêsu sẽ chịu “tử nạn” ở bên ngoài thành Giêrusalem “quăng ra bên ngoài vườn nho và giết đi”.
Câu 40-41, Matthuêu cho thấy cuộc đối thoại mà trong đó sự trả lời gay gắt, mạnh mẽ của các kinh sư, nhằm lên án sự ác nhân, thất đức của các tá điền bất lương. Chính là những hành động của dân Israel đã hành động đối với Thiên Chúa là Ông Chủ của họ. Về mặt nhân bản tự nhiên, khi nghe câu chuyện như vậy, con người vẫn tỏ thái độ phán xét vội vàng, tưởng chứng như một quan tòa chí công.Khi phàm nhân nghe thấy, hoặc chứng kiến một sự thiếu công bằng nào đó, họ dễ nổi giận ngay và đưa ra một “phán quyết”, nhưng Thiên Chúa thì không “trả đũa”.
Nhưng ở câu 42, được trích từ Thánh Vịnh 118, 22- 23, được Chúa Giêsu dùng để bảo họ. Các ông chưa từng bao giờ đọc câu nầy trong Kinh Thánh sao?: “Tảng đá bị thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”. Nhưng quan trọng là ở câu 43. “Bởi đó, Tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (c 43).
Ý nầy chính là sự đóng góp quan trọng của thánh Matthue, làm cho phần giải thích của dụ ngôn “vườn nho và những tá điền bất nhân” nầy thêm phong phú, nhằm hé mở ra một ngụ ý về lịch sử cứu độ của Thiên Chúa qua Đấng Cứu Thế. Những người được sai đến là các tiên tri, ngôn sứ, nhưng đều bị người Israel giết hại, cuối cùng lên đến cực điểm là chính Chúa “GIÊSU”, với tư cách là “người con trai”.
“Nước Thiên Chúa” có thể được hiểu như là một điều gì đó như một sở hữu hiện tại của sự bảo bọc và ân sũng bởi Thiên Chúa, nhưng những động từ ở quá khứ và tương lai có thể làm cho câu nầy trở nên một ý nghĩa như một “Lời Hứa” ban phước vào ngày thế mạt hco mọi dân tộc. Theo đó, nơi Thiên Chúa không có sự trừng phạt nào, bởi đã có Chính Đấng Cứu Chuộc. Điều nầy có thể được minh định bởi câu nói của Chúa Giêsu: “Ta đến không phải để lên án thế gian. Nhưng để cứu chuộc thế gian. Hầu thế gian nhờ Ta mà được sống. Sống dồi dào và sung mãn” (Ga 3, 17); (Ga 12, 47); (Ga 10, 10).
Từ “dân” (c 43) ở đây chỉ Giáo Hội, được Mattheu đưa lên như là sự mở màn cho những người Israel có lòng tin và những người cải tà qui chánh, qui hồi về niềm tin, thức tỉnh, giác ngộ. Nhận ra Đức Kitô là Đấng Cứu Chuộc duy nhất. Những ai mà cùng nhau xây dựng dân tộc mới của Thiên Chúa. Như vậy, Giáo Hội Công Gíao là một tiêu biểu, một sự cứu độ phổ quát cho hết mọi người, đó là dân Do-thái thực thụ.(không hiểu như nghĩa đen).
Theo đó, sự kết luận của đoạn Tin Mừng hôm nay, thì ôn hòa hơn là nội dụng dụ ngôn. Nói cách khác là đoạn kết có hậu. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ gian ác, nhưng “Lời Hứa” bị lấy đi ban cho người khác. Đó là cách xử lý của Thiên Chúa, còn chúng ta thì sao?
Lạy Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trần gian,là Đấng chính Chúa Cha sai đến, Chúa là Đấng đứng trên hết mọi quyền lực. Nơi Chúa không có sự thua cuộc, không có hận thù, chỉ có tha thứ và yêu thương, vì đó là NƯỚC THIÊN CHÚA, nhưng Chúa sẽ lấy lại, nếu như kẻ lãnh nhận bất xứng, chứ Chúa không tiêu diệt. Vì sự trừng phạt của Chúa, chính là thu hồi “ân sủng” là “Lời Hứa” yêu thương ngọt ngào như sữa và mật ong. Xin thương ban cho con người biết nhận ra chân lý ấy mà sám hối ăn năn, hầu đáng lãnh nhận ơn tha thứ./. Amen.

46. Dụ ngôn những tá điền sát nhân – JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Dụ ngôn trên ám chỉ những ai? Nó chỉ áp dụng cho dân Do Thái và các nhà lãnh đạo Do Thái giáo thời đó, hay nó có tính hiện sinh, nghĩa là có thể đúng với chính Ki-tô giáo của chúng ta hiện nay?
2. Liệu Thiên Chúa có thể nói về Ki-tô giáo như đã nói về Do Thái giáo: “Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?”. Và Ngài có thể nói về chính bản thân tôi như vậy không?
3. Thiên Chúa có cần phải thay thế Ki-tô giáo bằng một tôn giáo mới như Ngài đã phải thay thế Do Thái giáo bằng Ki-tô giáo không?
Suy tư gợi ý:
1. Ý nghĩa dụ ngôn những tá điền sát nhân
Bài Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn có ý nói bóng gió về tình trạng đã, đang và xảy ra trong dân Do Thái, mà trước mắt có sự góp phần của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái là âm mưu giết Đức Giêsu. Kết cục được diễn tả trong câu cuối của bài Tin Mừng là: Dân Do Thái được Thiên Chúa dành ưu tiên trong việc vào Nước Thiên Chúa, nhưng vì họ tỏ ra không xứng đáng, nên chỗ ưu tiên của họ được nhường cho những dân tộc khác.
Thiên Chúa đã yêu quí dân Do Thái, điều này được diễn tả trong bài đọc I: Thiên Chúa cưng chiều dân Do Thái như một người có một vườn nho mà anh ta rất quí: “Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho” (Is 5,2a). Anh quí nó đến nỗi làm cho nó tất cả những gì mà anh nghĩ nó cần nó thích: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?” (5,4). Anh ta kỳ vọng rất nhiều vào vườn nho đó, nhưng vườn nho đã làm anh thất vọng: “Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại” (5,2b). Một vườn nho như thế thì người chủ nên làm gì cho nó? Thất vọng vì vườn nho ấy, anh ta đã “hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo (…) biến thửa vườn thành mảnh đất hoang vu, không tỉa cành nhổ cỏ, gai góc mọc um tùm; truyền lệnh cho mây đừng đổ mưa tưới xuống” (5,5-6). Vườn nho đó được I-sai-a xác định: “Vườn nho đó chính là nhà Ít-ra-en; cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, chính là người xứ Giu-đa. Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than” (5,7).
Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục khai triển chủ đề “vườn nho” của bài đọc I (Is 5,1-7), với những ám chỉ sau đây: 1. Vườn nho ám chỉ dân Do Thái; 2. Ông chủ đất: Thiên Chúa; 3. Bọn tá điền: Các lãnh tụ tôn giáo Do Thái; 4. Các tôi tớ của chủ đất: Các ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến; 5. Người con trai của ông chủ: Đức Giêsu; 6. Các tá điền khác: Dân ngoại.
Toàn bài dụ ngôn nói lên diễn tiến trong lịch sử dân Do Thái: Thiên Chúa chọn Do Thái là dân riêng của Ngài giữa mọi dân tộc. Ngài muốn họ là cầu nối giữa Ngài với mọi dân tộc khác và với toàn nhân loại. Để thực hiện mục đích ấy, Ngài đã sai các ngôn sứ đến để dạy dỗ, sửa đổi và cho họ biết ý định của Ngài. Nhưng lời nói của những ngôn sứ này thường không lọt lỗ tai các lãnh tụ tôn giáo Do Thái, vì “trung ngôn nghịch nhĩ”, “lời thật mích lòng”. Và kết quả là các ngôn sứ này đều bị ném đá chết dưới tay các lãnh tụ tôn giáo Do Thái. Chính ngôn sứ Ê-li-a đã phải than phiền: “Khi cầu nguyện với Thiên Chúa, ông đã tố cáo dân Ít-ra-en rằng: Lạy Chúa, các ngôn sứ của Ngài, chúng đã giết chết; bàn thờ của Ngài, chúng đã phá huỷ. Chỉ còn sót lại một mình con, thế mà chúng cũng đang tìm hại mạng sống con” (Rm 11,3; x. V 19,10.14).
Cuối cùng, Thiên Chúa sai chính Con Một của mình đến cũng để làm công việc ngôn sứ ấy, thì cũng bị họ giết chết một cách dã man và thảm hại. Dân Do Thái vì hèn nhát trước quyền lực nên cũng hùa theo các lãnh tụ của họ. Vì thế, dân Do Thái đã bị Thiên Chúa loại bỏ, mất quyền ưu tiên đối với Nước Trời. Và Nước Trời do Đức Giêsu thiết lập – gồm những người tin theo Đức Giêsu – bao gồm những người mà người Do Thái gọi là dân ngoại, gồm đủ mọi dân tộc trên thế giới.
Còn dân Do Thái đã bị đào thải khỏi lịch sử: tháng 9 năm 70, Titus, lúc ấy làm thống soái quân đội Rôma (sau làm hoàng đế năm 79-81), đã bao vây và chiếm Giê-ru-sa-lem, giết rất nhiều người Do Thái. Kể từ đó, Do Thái bị mất nước, và dân Do Thái phải tản mác khắp nơi trên thế giới. Đến thế chiến thứ hai, dân Do Thái tại Đức đã bị Hitler giết tới 6 triệu người. Mãi đến năm 1947, sau gần 19 thế kỷ bị mất nước, Do Thái đã lập quốc trở lại tại vùng đất cũ, nhưng kể từ đó, họ phải chiến tranh liên tục với dân Palestin và Ai Cập cho đến nay.
2. Dụ ngôn đó có áp dụng cho Giáo Hội chúng ta không?
Khi tôi học Cựu Ước, giáo sư dạy Kinh Thánh cho tôi thường nói: “Israel là Giáo Hội, Israel là chính tôi”. Vì thế, nếu bài dụ ngôn kia có thể áp dụng cho dân Do Thái, thì cũng có thể áp dụng cho Giáo Hội và cho chính bản thân tôi.
Do Thái giáo là một tôn giáo do chính Thiên Chúa thiết lập qua các tổ phụ, Mô-sê và các ngôn sứ, với hàng giáo phẩm là các tư tế, lê-vi và các ráp-bi. Thiên Chúa đã trực tiếp can thiệp vào lịch sử của dân tộc, đã ra tay giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách thống trị Ai Cập, đã đích thân ban hành luật pháp cho họ, đã trực tiếp chỉ định những vì vua cai trị họ… Ngay cả Ki-tô giáo hiện nay cũng chưa được Thiên Chúa trực tiếp can thiệp như thế. Có ngôn sứ nào trong Ki-tô giáo oai hùng như I-sa-i-a, khi ra lệnh cho dân Do Thái điều gì thì đều nói: “Thiên Chúa là Chúa các đạo binh phán như thế” (x. Is 1,24; 3,15; 5,9; 10,24; 14,22-24; 17,3; 19,4; v. v…) Vì thế, dân Do Thái đã rất có lý khi nghĩ rằng tôn giáo của mình do Thiên Chúa thiết lập ắt sẽ vĩnh cửu, và sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng lịch sử cho chúng ta thấy họ đã lầm. Do Thái giáo đã tàn lụi, và được thay thế bằng Ki-tô giáo. Có thể nói, Do Thái giáo chính là tiền thân của Ki-tô giáo.
Ki-tô giáo hiện nay cũng đang tự hào là tôn giáo duy nhất do chính Thiên Chúa thiết lập, là tôn giáo có giá trị hơn hết mọi tôn giáo trên thế giới, nên mọi Ki-tô hữu đều tin tưởng nó sẽ tồn tại muôn đời, và sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng nhiều khi các Giáo Hội Ki-tô giáo chỉ biết tự hào như thế mà quên đi niềm mong ước của chính Thiên Chúa đối với mình. Liệu Thiên Chúa có phải than phiền về Ki-tô giáo như đã than về Do Thái giáo: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm? Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?” Ki-tô giáo đã hơn Do Thái giáo những gì?
Đức Giêsu đến để thiết lập một tôn giáo mới dựa trên nền tảng tình yêu thương, và luật của Ki-tô giáo là luật yêu thương: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34); “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8.10); “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô” (Gl 6,2); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).
Luật của Tân Ước mới hẳn so với Cựu Ước của Do Thái giáo, nhưng các Ki-tô hữu đã coi trọng luật ấy đủ chưa? đã tập trung mọi cố gắng để thực hành luật ấy đúng mức chưa? Hay Ki-tô giáo lại đi vào vết xe đã đổ của Do Thái giáo, là thượng tôn nghi thức, quá chú trọng tới những lễ nghi và hình thức bên ngoài? Còn lề luật chính yếu là sống yêu thương thì lại lãng quên? Có phải hiện nay hình thức của Ki-tô giáo thì mới mẻ và khác hơn Do Thái giáo, nhưng tinh thần nệ luật, nệ hình thức thì chẳng khác gì những người Do Thái ngày xưa? Đã tới lúc chúng ta cần nghiêm túc tự hỏi: ngày nay, người ngoài nhìn vào cách sống của người Ki-tô hữu, có thể nhận ra đạo của chúng ta là “đạo yêu thương” như thời Ki-tô giáo sơ khai không? Ngày nay, lễ “bẻ bánh” có còn là một dấu chỉ của một sự chia sẻ có thực trong đời sống giữa những người đến tham dự không, hay nó đã trở thành một nghi thức thuần túy, cho dù đầy ý nghĩa nhưng không có gì là thực tế cho lắm?
Mỗi Ki-tô hữu – nhất là những người có trách nhiệm hướng dẫn, lãnh đạo tôn giáo – cần tự vấn: Thiên Chúa hay Đức Giêsu có hài lòng với tình trạng Ki-tô giáo hiện nay không? Còn những người lãnh đạo tôn giáo cần tự vấn thêm: Tôi có giống như những vị lãnh đạo Do Thái giáo xưa, chẳng những không thèm nghe mà còn sẵn sàng bạc đãi hoặc bách hại những tiếng nói ngôn sứ vào thời đại của mình không? Hay ít ra khi họ bị bách hại vì đã chu toàn chức năng ngôn sứ của họ, tôi đã im lặng, làm ngơ, để mặc họ bị bách hại như thể tôi cũng đồng ý với sự bách hại ấy?
Không khéo Ki-tô giáo của chúng ta chẳng hơn gì Do Thái giáo, khiến Thiên Chúa cũng sẽ phải đối xử với chúng ta như đã đối xử với dân Do Thái: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Ki-tô giáo hiện nay thế nào, chính con – cũng như bất kỳ Ki-tô hữu nào – đều có phần nào trách nhiệm. Xin cho con biết sống đạo Chúa Ki-tô đúng với với tinh thần yêu thương của Ngài. Xin cho con rút ra được bài học lịch sử của dân Do Thái để tránh được vết xe đã đổ.

47. Những sợi dây và những chiếc cầu – Mark Link
Chủ đề:
“Dụ ngôn chủ vừơn nho là một bản tóm lược lịch sử Chúa cứu độ chúng ta”.
Chiếc cầu treo Melrose bắc trên sông Niagara ở Nữu Ước nối liền Gia Nã Đại và Hiệp Chủng Quốc. Người ta nói rằng chiếc cầu này đã được thiết kế như sau:
Trước tiên người ta thả một cái diều cho nó bay ngang qua sông. Cái diều đó được cột vào một sợi dây, tiếp theo, sợi dây này được cột lại vào một sợi thừng và đến lượt sợi thừng này lại được cột vào một sợi cáp bằng thép. Như thế, dây cáp bằng thép này được dùng để giúp cho phần còn lại của chiếc cầu đứng vững.
Câu chuyện cầu Melrose thừơng được dùng để minh hoạ cho thấy các sự việc lớn lao thường được khởi đầu bằng những việc rất khiêm tốn.
Thuật kể chuyện rất phổ biến ngay từ khi con người biết liên kết từ với nhau để tạo thành câu. Thời xưa rất ít người biết đọc hoặc viết. Khi muốn dạy một điều gì quan trọng, người ta thường dựng lên một câu chuyện về điều muốn dạy, nhờ thế không những dễ học mà còn dễ nhớ nữa.
Có lẽ Chúa Giêsu đã kể chuyện nhiều hơn phần lớn các Tôn Sư khác. Câu chuyện Ngài kể được gọi là dụ ngôn. Có người đã khéo léo mô tả dụ ngôn như là một câu chuyện bàn về thế trần hàm chứa một ý nghĩa thiên quốc. Nhằm mục đích thực tiễn hoàn toàn, các dụ ngôn của Chúa Giêsu thừơng là một trong hai dạng sau: dụ ngôn “Cửa sổ” và dụ ngôn “kiếng soi mặt”.
Dụ ngôn “cửa sổ” là một chuyện đơn sơ nói về Chúa hay về Nứơc Chúa. đây là một “cửa sổ bằng lời nói” qua đó chúng ta có thể hiểu rõ hơn về Thiên Chúa hoặc Nước Chúa. Dụ ngôn dạng này thường bắt đầu với những từ sau: “Nước Trời giống như…”
Một ví dụ về dụ ngôn dạng “Cửa sổ” là câu chuyện con chiên lạc của Chúa Giêsu. Câu chuyện này so sánh mối quan tâm của người mục tử đối với một con chiên lạc và sự quan tâm của Cha Ngài đối với kẻ tội lỗi. Người mục tử ra đi tìm kiếm con chiên lạc đường. Khi tìm thấy nó, ông đã không cột chiên con vào một cái dây rồi trừng phạt nó mà lại âu yếm đặt nó trên vai mang về nhà. Chủ ý Chúa Giêsu là tỏ cho thấy Cha Ngài trên trời cư xử với kẻ tội lỗi cũng y hệt như thế. Như thế các dụ ngôn dạng “cửa sổ” là những câu chuyện giúp chúng ta hiểu rõ Thiên Chúa và Nước Ngài.
Còn ngược lại các dụ ngôn dạng “kiếng soi” là những câu chuyện có tác dụng như “chiếc gương soi bằng lời” Nghĩa là, chúng giúp chúng ta hiểu rõ chính mình. Chúa Giêsu đã xây dựng các dụ ngôn này khéo léo đến nỗi các nhân vật trong dụ ngôn đại diện cho cả đám cử toạ đang nghe Ngài. Nói cách khác, đám người đang nghe Chúa Giêsu có thể nhận ra chính mình là một trong những nhân vật được nêu ra trong dụ ngôn.
Dụ ngôn chủ vườn nho hôm nay là một ví dụ rất hay thuộc dạng này, Chúa Giêsu ám chỉ trực tiếp và đặc biệt đến các trưởng tế và biệt phái. Hãy nhìn vào các nhân vật đóng vai trong dụ ngôn sẽ thấy ngay Chúa Giêsu có ý định để cho các nhân vật này đại diện đám người nào trong cuộc sống thực tế ngoài đời.
Dĩ nhiên, Chủ vườn nho không ai khác hơn là ngoài Thiên Chúa. vườn nho, theo như bài đọc thứ nhất hôm nay cho thấy, là dân tộc Israel. Tá điền vườn nho là các vị lãnh đạo Israel. Nhóm đầy tớ đầu tiên được chủ vườn sai đến là các tiên tri thuở xưa được Chúa phái đến với Israel. Nhóm nô lệ thứ hai là các tiên tri kế tiếp cũng do Chúa phái đến với Israel. Con trai chủ vườn, tức kẻ bị giết, là Chúa Giêsu. Đám nông gia tá vườn mới mà chủ vườn giao vườn nho lại là các Tông Đồ của Chúa Giêsu. Họ là các nhà lãnh đạo mới của dân Chúa.
Phần cuối dụ ngôn, không được trưng ra trong bài đọc hôm nay kể lại rằng: “Các tư tế và biệt phái đều hiểu rằng Chúa Giêsu đang nói về họ”. Nói cách khác, họ nhìn vào dụ ngôn “kiếng soi” này và trông thấy chính mình. nhưng thay vì hoán cải, họ vẫn cứ tiếp tục bước đi trong đường nẻo sai lạc của mình.
Điều này dẫn chúng ta đến một vấn nạn quan trọng, phải chăng Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này chỉ nhằm tác động đến các trưởng tế và biệt phái mà thôi không? Hoàn toàn không phải thế. Ngài còn nhắm cả đến chúng ta nữa. Như thế dụ ngôn này nói lên với chúng ta điều gì? Tôi xin đưa ra bốn điểm sau:
– Trước hết, dụ ngôn tóm lược toàn bộ Thánh Kinh nói về ơn cứu độ, nêu rõ những qui chiếu rõ rệt về Giao ước và Giao ước mới. Lần giao ước vườn đầu tiên ám chỉ đến Cựu ước. Lần giao vườn thứ hai ám chỉ đến Tân ước.
– Thứ đến, dụ ngôn này xác nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. nhân vật cuối cùng được sai đến với các tá điền không phải là một đầy tớ nào khác mà chính là con trai của chủ vườn.
– Thứ ba, dụ ngôn xác nhận các Tông Đồ của Chúa Giêsu là những nhà lãnh đạo mới của dân Chúa.
– Cuối cùng, dụ ngôn nói với chúng ta về lòng nhẫn nại mà Chúa dành cho chúng ta cũng như trách nhiệm của chúng ta đối với Chúa.
Chủ vườn nho đã cố gắng tới ba lần để giúp các tá vườn thay đổi đường lối. Khi ông ta thấy rằng có kiên nhẫn hơn nữa cũng vô ích, ông ta mới ra tay xét xử đám này và bắt họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ.
Thiên Chúa cũng cư xử với chúng ta y như thế. Cha trên trời của chúng ta vô cùng kiên nhẫn. Nhưng rồi sẽ đến lúc sự kiên nhẫn của Chúa sẽ nhường bước cho sự xét xử. Và chúng ta cũng sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Như thế, dụ ngôn hôm nay không chỉ nói với các trưởng tế và biệt phái thời Chúa Giêsu mà còn nói với chúng ta nữa. Dụ ngôn tóm lược câu chuyện Thánh Kinh về ơn cứu độ, cho chúng ta biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, các Tông đồ Chúa là những vị lãnh đạo mới của dân Chúa, và cuối cùng dụ ngôn ấy còn dạy chúng ta về lòng kiên nhẫn lớn lao của Chúa dành cho chúng ta, đồng thời trách nhiệm riêng chúng ta phải chịu trước mặt Ngài.
Chúng ta hãy kết thúc bằng một tư tưởng có tính cách cầu nguyện mà Richard Wilson viết ra cách đây nhiều năm. Tư tưởng này được viết thành những vần thơ trữ tình như sau:
Đức Giêsu là người ưa kể chuyện
Ngài hình dung trong tâm trí những bức tranh
Ngài chỉ cho thiên hạ cũng như chỉ cho bạn và tôi
Cách thức sự việc xảy ra như thế nào.
Ngài đã dùng bầu trời
Ngài đã dùng biển cả
Ngài đã dùng chim muông
Ngài đã dùng cây cối
Ngài đã dùng bất cứ những gì Ngài có thể trông thấy,
Ngài là Người kể chuyện à?
Phải, Chúa Giêsu là người ưa kể chuyện
Ngài hình dung trong tâm trí những bức tranh
Đó là phương cách Ngài dùng
Chỉ cho thiên hạ, cho bạn cho tôi
Biết sự việc sẽ xảy ra thế nào.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.

48. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
DỤ NGÔN TÁ ĐIỀN VƯỜN NHO SÁT NHÂN
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Xung quanh ông rào giậu, bên trong ông khoét bồn đạp nho”: Ở đây cũng như trong Isaia, việc liệt kê các sự chăm sóc về kỹ thuật mà gia chủ làm cho vườn nho của ông, cố ý nhấn mạnh đến tình yêu cũng như quyền tuyệt đối của ông trên vật sở hữu; nó thuộc về ông vì ông đã gầy dựng nên nó hoàn toàn. Tháp canh dùng để canh phòng kiểm soát cho dễ, nhất là vào mùa hái nho; bồn đạp nho người ta phải khoét vì đấy là một cái hố trong đó trái nho được đạp và nước nho từ đó thoát ra bằng một đường rãnh thích hợp. Tất cả mọi chi tiết này là những nét có tính cách dụ ngôn: chúng có mục đích làm cho bài học của dụ ngôn thêm sống động ở đây, chúng làm nổi bật sự tương phản giữa tấm lòng của gia chủ đối với vườn nho và lòng độc ác của các tá điền không chịu giao nộp hoa quả của một công lao khó nhọc và chăm sóc ân cần như thế. Thành thử không nên biến các chi tiết này thành những nét có tính cách ẩn dụ, như lối chú giải của các giáo phu đã làm, và tìm cách gán cho mỗi chi tiết một ý nghĩa biểu trưng.
“Khi đã gần mùa trái”: Mùa hái nho này chắc hẳn ám chỉ tới thời chung cục lúc Thiên Chúa tính sổ với dân Ngài. Bản văn Mt nói theo mặt chữ: “Khi thời gian đã gần đến” (êggisen); động từ “gần đến” đây đã được Gioan Tẩy giả và sau đó Chúa Giêsu dùng để loan báo Nước trời sắp xuất hiện: “Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần bên” (êggisen: 3, 2 và 4, 17). Thành ra hình như chỗ này Matthêu muốn hiểu ngầm là lúc tính sổ trùng phùng, trong lịch sử cứu rỗi, với sự xuất hiện của Gioan Tẩy giả và của Chúa Giêsu. chính để đáp lại lời rao giảng của hai vị sứ giả ấy của Thiên Chúa mà Israel bây giờ phải “sinh hoa quả phúc đức, xứng vui lòng hối cải” (3, 8).
“Các tá điền túm lấy các tôi tớ của ông, đánh đập người này, giết chết người kia, ném đá người nọ”: Sự tiến triển từ đánh đập, giết chết đến ném đá (việc bạo hành số một thời Chúa Giêsu) không chỉ là một cách diễn tả cho linh động dễ nhớ, song còn ám chỉ đến sự đối nghịch ngày càng trầm trọng hơn giữa gia chủ và các tá điền; việc ném đá các ngôn sứ hình như đã là một chủ đề truyền thống trong Do thái giáo và Kitô giáo sơ khai (Dt 11, 37; nhưng nhất là 11, 37; Lc 13, 34).
“Ông lại sai thêm tôi tớ đông hơn trước”: Việc sai phái lần thứ nhì này hình như ám chỉ đến việc người Do thái xếp các ngôn sứ thành hai hạng đầu và cuối (hay trước và sau).
“Sau cùng”: Trạng từ này đánh dấu đây là cơ may cuối cùng để cho các tá điền thống hối ăn năn.
“Kẻ thừa tự đó, ta mau giết quách nó đi”: Theo 3 bản Nhất Lãm, các tá điền lập tức nhận ra kẻ thừa tự không chút ngập ngừng (Dt 1, 2; 11, 7; Rm 8, 17); tội ác của họ không phải là hậu quả của một sự lầm lẫn bi đát hay của lòng thiếu tin vào Đấng được sai; họ hành động với đầy đủ ý thức về sự trầm trọng của việc làm. Dụ ngôn chẳng mô tả điều xảy ra trong trí óc của các đối thủ Chúa Giêsu, những kẻ không thừa nhận Người như kẻ thừa tự; đúng hơn nó mặc khải sự nặng nề của việc họ từ chối Thiên Chúa trong bản thân của Đấng Ngài sai đến.
“Chúng túm lấy người con, lôi ra bên ngoài vườn nho và giết đi “: Cái chết ngoàì vườn nho” này chắc chắn ám chỉ đến việc Chúa Giêsu chết ngoài thành Giêrusalem. Đây là một nét ẩn dụ khác.
“Viên đá thợ xây đã thải”: Câu trích dẫn này xê dịch trọng tâm của dụ ngôn từ vườn nho hay các tá điền sang bản thân người con mà, cho đến phần cuối của câu trước, không có gì loan báo là sẽ tái xuất hiện một cách oai hùng cả. Câu ấy có thể hiểu như là một lời chú giải Giáo Hội sơ khai thêm vào dụ ngôn; tuy nhiên trong một dụ ngôn như thế này, toàn thể bản văn vừa truyền lại vừa chú giải các lời nói của Chúa Giêsu. Việc thợ xây thải viên đá được diễn tả bằng một từ chuyên môn (apodekimazein, x.Mc 8, 31; 17, 25; Dt 12, 17) chỉ việc thủ tiêu một đồng bạc bị một nhân vật có thẩm quyền xét là giả mạo. Viên đá góc có lẽ chẳng phải là viên đá góc tường của móng dưới, nhưng là viên đá đỉnh góc (clé de voute), viên đá hoàn tất và mặc cho công trình xây dựng ý nghĩa của nó. Viên đá bị thải, nghĩa là Người Con, không tự nâng mình lên vì động từ egenêthê (nghĩa sát chữ: đã được làm thành) ở thể thụ động (thụ động thần linh), nên đây là một hành động oai hùng và kỳ diệu của Thiên Chúa.
“Một dân”: dịch sát chữ: “một dân nước”. Hạn từ “dân nước” này (ethnos), ở số ít: không thể chỉ “chư dân” theo nghĩa “lương dân” (luôn luôn ở số nhiều), nhưng chỉ một đoàn thể đang được cấu tạo và hình thành: người ta nghĩ đến dân thánh” (ethnos agion) của Xh 19, 6. Dân nước này sẽ được làm thành bởi mọi kẻ sẽ sinh hoa trái của Nước Trời, nghĩa là những kẻ, khi tiếp nhận Người Con, sẽ tụ họp quanh Người để làm nên Dân mới của thiên Chúa (Rm 9,25; 1 Pr 2, 10).
Các nhà phê bình chia rẽ nhau về xác thực tính của câu 44. Đa số các đại thủ bản (Sinaiticus, Vaticanus, Ephlemi Rescriplus, K,L,W,X…) đều có ghi nó, nên đối với nhiều tác giả điều ấy đủ để đảm bảo rằng nó xác thực.. Tuy nhiên, nhiều bản dịch cổ xưa (thủ sao của bản Latinh cổ, bản Syri cổ ở Sinai, bản Diatesseron của Tatien) và một số giáo phụ (Irênê, Origène, Eusèbe) đã loại nó ra. Hơn nữa, vì câu này đã nằm trong Lc 20, 18 nên có thể là các sao lục viên đã chèn nó ở đây vì ưu tư hòa hợp hái bản văn. Cuối cùng, đáng ra nó phải được ghi ngay sau câu trích dẫn 21, 42 chứ chẳng phải sau 21, 43 là câu tự nhiên không đòi hỏi một trích dẫn Thánh Kinh nào. Các lý do khác nhau vừa nói làm ta nghĩ câu 44 này không xác thực, trặc dù tính cách rất cổ của nó đã làm cho nó thành một chứng nhân quý giá của tư tưởng thần học của các thế kỷ đầu Kitô giáo.
KẾT LUẬN
Chủ đề vườn nho là một trong những chủ đề phong phú nhất của cả Cựu ước. Nó thường được liên kết với chủ đề tình yêu đến độ biểu tượng về vườn nho thường hay hòa lẫn, hoán đổi với hình ảnh người đàn bà. Đàng khác, nó lại được khai thác trong một bối cảnh cánh chung, dưới hình thức mùa hái nho hay bồn đạp nho, cùng gợi lên trước trường hợp đó sự ghen tương và trả thù cuồng nhiệt của Thiên Chúa Giao ước, Đấng đổ rượu giận dữ của Ngài trên thù địch của dân Ngài yêu (Is 63). Diễn từ sau bữa Tiệc Ly (Ga 15, 1- 6), cũng như việc Phụng vụ dùng Is 63 trong bối cảnh Tuần thánh, gợi lên một tổng hợp sống động về hai cách sử dụng chủ đề đó: Chúa Giêsu vừa là người hái nho đơn độc làm cho mối tình tuyệt vọng được hả giận hay bớt đắng cay, bằng cách dùng máu mình làm nước nho chua ra dịu ngọt, vừa là vườn nho song động, hiền thê của Đấng Dấu ái duy nhất, chạp nhận vô điều kiện việc gọt tỉa cần thiết cho mình, và sau hết đời đời là gốc nho – là đầu – của một thân thể không ngừng phát triển tứ chi bằng việc chia sẻ giòng máu sống động của Ngài, để dẫn đến cho Thiên Chúa một dân thánh, được hiệp nhất bằng nhiệm cục khải hoàn vinh thắng của tình yêu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1.”Người bạn yêu của tôi có một vườn nho…” Isaia mở đầu bài ca tuyệt diệu về tình yêu của Chúa đối với dân Ngài như thế. Chính với một tình âu yếm sâu xa mà Thiên Chúa đã tạo dựng con người đã chọn giữa nhân loại một nhóm người thụ thác các lời Ngài hứa và chịu trách nhiệm làm cho Ngài hiện diện với tất cả. Chính với sự ân cần mà Ngài đã nuôi nấng, cưng chiều, sai phái những kẻ được chọn đó ra đi làm sứ giả mang niềm vui và lòng yêu thương âu yếm của Ngài. Khổ nỗi, thay vì sinh trái ngon ngọt của lòng trung tín và sự bình an, họ đã tạo nên hận thù, ghen tương, bạo lực. Hy vọng hái được nho ngon, Thiên Chúa chỉ nhặt được những trái chua lòm.
Việc Chúa Giêsu biến đổi bài thơ của Isaia thật quan trọng; rõ ràng là Người nhấn mạnh đến các lần liên tiếp sai phái đầy tôi, sự ân cần sốt sắng và đồng thời đức kiên trì không tưởng tượng nổi của chủ. Dù các sứ giả mình đã bao lần từ chối, gặp thất bại và chịu ngược đãi, Chúa vẫn không ngừng gởi thêm sứ giả mà dân cần đến. Lời ám chỉ thật rõ ràng. Suốt dòng lịch sử, Thiên Chúa đã cho chỗi dậy rất nhiều ngôn sứ, nhưng dân vẫn không đời nào nghe sứ điệp họ, lại còn khai trừ, ngược đãi và giết họ nữa. Cuối cùng, Ngài sai Con mình. Và Người Con đó đã bị đóng đinh ở ngoài cửa thành Giêrusalem.
2. Lòng kiên nhẫn và kiên trì của Thiên Chúa đã được bày tỏ chẳng những trong lịch sử Israel và Giáo Hội, mà còn trong lịch sử của nhiều quốc gia, tập thể (giáo xứ) và cá nhân (mỗi người chúng ta). Thiên Chúa hằng nài nỉ, gõ cửa tâm hồn (Kh 3, 20), trước khi từ bỏ việc ban phát các ơn huệ nhưng không. Thực ra, Ngài chỉ từ bỏ khi cái chết đến đóng ấn trên một sự chối từ dứt khoát tình yêu Ngài. Và đó là án phạt hỏa ngục. Nhưng để tránh tai họa khủng khiếp ấy, Thiên Chúa đã cố gắng lết sức để đánh động tâm hồn ta và làm ta sinh trái. Ta chớ cứng lòng như Israel mà từ chối các nỗ lực của Ngài.
3. Lỗi nặng nhất của các tá điền là từ chối việc tiếp nhận các ngôn sứ và Người Con mà Chúa Cha gởi đến cho họ. Tuy nhiên, Chúa Giêsu bảo cho la biết tội đó phát xuất từ đâu từ chỗ họ muốn chiếm đoạt vườn nho cho kỳ được. Mỗi lần ta muốn biến Nước Trời thành một công chuyện riêng tư, mỗi khi ta mong sự thành công của một kế hoạch xem ra phục vụ Chúa và loài người, nhưng kỳ thực chỉ làm thỏa mãn thỏi tự kiêu tự đại của ta, và bấy giờ ta chiếm đoạt vườn nho Chúa để làm sở hữu riêng, vì thực sự ta phục vụ chính mình dưới bộ áo của lòng tận tâm và nhân đức v.v… Đó chẳng phải là óc Biệt phái mà Chúa Giêsu hằng kết án một cách chí lý sai.
4. Viên đá bị thợ xây thải bỏ đã trở thành viên đá đỉnh góc. Chúa Giêsu bị dân mình từ khước đã biến thành thủ lãnh của một dân mới là Giáo Hội. Như thế là hoàn tất chương trình của Thiên Chúa đối với nhân loại, xuyên qua các lần chối từ, thất bại và tội lỗi của con người. Không gì có thể ngăn chận hành động quyền năng của Thiên Chúa trong thế giới. Vì Ngài đủ quyền để bắt mọi sự (kể cả sự dữ) thực hiện các chương trình Ngài ra. Đối với đời ta cũng vậy, nếu ta muốn hiến dâng cho Thiên Chúa tất cả con người ta, kể cả tội lỗi đã phạm, Thiên Chúa có thể qua ta thực hiện nhiều việc diệu kỳ. Không gì có thể cần trở hành động của Ngài trong ta, dù là sức khỏe yếu kém, trí khôn tầm thường, bộ dạng xấu xa, dù là cô đơn, nghèo khổ. Trái lại, như lịch sử các thánh cho thấy Chúa luôn thích sử dụng các giới hạn của con người để hoàn tất các dự định lớn lao của Ngài trong Giáo Hội. Và như vậy nếu bằng lòng trở nên một nhành sống trong của Cây nho là Chúa Giêsu, thì người nhỏ bé nhất trong các Ki-tô hữu cũng sẽ sinh nhiều hoa trái tuyệt hảo làm thỏa lòng Thiên Chúa và nhân loại.

49. Đón nhận Đức Giêsu: Viên đá góc ban ơn cứu độ
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Dụ ngôn những tá điền sát nhân
Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn “Những tá điền sát nhân” này để cảnh cáo các đầu mục Do Thái. Câu chuyện kể về bọn tá điền gian ác, đã được chủ vườn ưu ái trao quyền canh tác vườn nho, nhưng lại rắp tâm chiếm đọat bằng việc không chịu nộp phần hoa lợi như đã thỏa thuận. Ho đã bách hại các đầy tớ do chủ sai đến và còn giết chết chính con trai ông chủ. Số phận của bọn tá điền gian ác là sẽ bị ông chủ trừng phạt đích đáng và vườn nho được trao cho tá điền khác biết chu tòan các thỏa thuận đã ký kết.
CHÚ THÍCH:
– C 33: + Các ông: Ở đây ám chỉ các thượng tế và kỳ mục Do Thái ở Giê-ru-sa-lem. + Gia chủ và vườn nho: Trong sách ngôn sứ I-sai-a, vườn nho ám chỉ dân Ít-ra-en và chủ vườn nho là Thiên Chúa (x. Is 5,1-4). Còn trong dụ ngôn này, vườn nho lại ám chỉ Nước Thiên Chúa do Đức Giêsu thiết lập. + Rào giậu chung quanh, khoét bồn đạp nho và xây một tháp canh: Khi liệt kê các việc ông chủ đã làm cho vườn nho, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự quan tâm và quyền sở hữu tuyệt đối của chủ vườn nho qua các việc như: rào giậu là cách bảo vệ khỏi bị người khác lấn chiếm; bồn đạp nho hay hầm ép rượu là một cái hố được đục khoét sâu vào tảng đá lớn, nho được đạp dập cho chảy ra nước cốt. Nước cốt này chảy qua máng vào một thùng lớn và được ủ trở thành rượu. Tháp canh là vọng gác luôn có người canh để đề phòng kẻ trộm. + Cho tá điền canh tác: Tá điền ám chỉ các đầu mục dân Do thái đã được Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăn dắt dân Ít-ra-en. Nhưng họ đã đưa dân này vào con đường thất tín và bất trung với Giao ước đã ký kết với Thiên Chúa.
– C 34: + Gần đến mùa hái nho: Gần đến nhắc ta nghĩ đến lời giảng “Nước Trời đã đến gần” của Gio-an Tẩy Giả và của Đức Giêsu (x. Mt 3,2; 4,17). Mùa hái nho là thời gian Thiên Chúa sẽ đến tính sổ với dân Ngài. + Ông sai đầy tớ đến gặp tá điền để thu hoa lợi: Đầy tớ ám chỉ các ngôn sứ Cựu Ước đã được Thiên Chúa sai đến kêu gọi dân Ít-ra-en sám hối để làm con dân của Thiên Chúa.
– C 35-36: + Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: Dân Ít-ra-en đã bắt bớ giết hại các ngôn sứ do Thiên Chúa sai đến kêu gọi họ giữ Giao ước. + Chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ: Các hình khổ của bọn tá điền làm đối với những gia nhân do chủ sai đến theo thứ tự từ nhẹ đến nặng: Đánh, giết, ném đá. Ném đá cũng là một cách giết chết, nhưng kèm thêm sự nhục nhã và đau đớn hơn nhiều. Điều này cho thấy sự chống đối của dân Ít-ra-en đối với các ngôn sứ ngày một gia tăng. Đó là thứ tội bất trung và xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa. + Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước. Nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy: Qua câu này ta thấy có hai loại ngôn sứ là ngôn sứ tiền và ngôn sứ hậu. Việc gửi các ngôn sứ hậu đông hơn ngôn sứ tiền, diễn tả lòng khoan dung kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với dân Ít-ra-en. Dù bị họ phản bội bất trung, nhưng Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi, mà vẫn tiếp tục sai các ngôn sứ khác đến cảnh cáo, ngăm đe, để giúp họ hồi tâm sám hối. Nhưng họ vẫn cố chấp giết hại các vị ấy.
– C 37-39: + Sau cùng: Đây là cơ may cuối cùng để bọn tá điền hồi tâm sám hối. + Ông sai chính con trai mình đến: Con trai ông chủ ám chỉ Đức Giêsu, vì nhiều lần Người đã xưng mình là Con Thiên Chúa (x. Mt 14,32; 16,16). + Đứa con thừa tự đây rồi: Khi thấy con ông chủ đến, bọn tá điền lập tức nhận ra kẻ thừa tự. Họ đã hành động với đầy đủ ý thức và tự do nên tội của họ rất nặng. Còn về các đầu mục dân Ít-ra-en tuy không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (x. Mt 27,43) vì lầm chẳng biết (x Lc 23,34), nên tội của họ có thể được nhẹ đi phần nào. + Nào ta giết quách nó đi và đoạt lấy gia tài nó: Lỗi nặng nhất của các tá điền là không bhững không tiếp nhận mà còn giết hại các đầy tớ và chính người con thừa tự do chủ vườn sai đến với họ. Tội đó phát xuất từ ý muốn chiếm đoạt vườn nho. Đây cũng là lời cảnh báo chúng ta: Mỗi lần ta biến các việc thuộc về Chúa trở thành việc riêng của mình để trục lợi, là ta đã chiếm đoạt vườn nho của Chúa làm của riêng ta, như bọn tá điền làm trong Tin Mừng hôm nay. + Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi: cái chết của người con trai ông chủ do bọn tá điền làm, ám chỉ cái chết của Đức Giêsu ngoài thành Giê-ru-sa-lem lúc cuối đời Người.
– C 40-41: + Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?: Đặt câu hỏi này, Đức Giêsu muốn cho các đầu mục dân Do Thái nhận định điều gì phải quấy. + Họ đáp: “Ác giả ác báo!: Họ cũng trả lời đúng với ý của ông chủ là phải trừng phạt bọn tá điền gian ác kia. + Cho các tá điền khác canh tác vườn nho: Tá điền khác ám chỉ dân Ít-ra-en Mới là Hội Thánh. Hội Thánh sẽ thay thế dân riêng Ít-ra-en để thừa hưởng lời hứa cứu độ của Thiên Chúa.
– C 42-43: + Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao?: Đây là câu trích trong sách Thánh vịnh (x. Tv 118,22-23), gần giống với lời tuyên sấm của ngôn sứ I-sai-a (x Is 28,16). Sau này thánh Phê-rô đã ám chỉ câu này về mầu nhiệm Đức Giêsu Phục sinh, Đấng sẽ thiết lập dân mới của Thiên Chúa (x. Cv 4,11; 1 Pr 2,4-8). + Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ…: Tảng đá bị thợ xây loại bỏ ám chỉ Đức Giêsu bị bọn đầu mục Do thái sát hại, đã được Thiên Chúa nâng lên địa vị làm “Chúa” muôn loài sau cuộc tử nạn và phục sinh của Người (x. Pl 2,8-11). + Mà ban cho một dân tộc: không nhất thiết là dân ngoại, nhưng một dân mới là Hội Thánh, gồm các dân tộc tin thờ Thiên Chúa và tin vào Đức Giêsu (x. Rm 9,25; 1 Pr 2,10). Chính dân mới này sẽ thay chỗ của dân Ít-ra-en bất trung. + Biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi: Hoa lợi là phần rỗi đời đời. Tóm lại: Giao ước mới (Tân ước) sắp được ký kết giữa Thiên Chúa với loài người trong Máu Con Chiên Thiên Chúa là Đức Giêsu, sẽ thay thế Giao ước cũ (Cựu ước) được ký kết giữa Thiên Chúa với dân Ít-ra-en trong máu chiên bò thời Mô-sê.
CÂU HỎI:
1) Ý nghĩa của vườn nho trong sách ngôn sứ I-sai-a và trong Tin mừng Mat-thêu khác nhau thế nào? 2) Trong dụ ngôn, ông chủ vườn nho đã biểu lộ lòng yêu mến dành cho vườn nho của mình qua những hành động nào? 3) Bọn tá điền trong dụ ngôn ám chỉ những ai và họ đã thi hành nhiệm vụ thế nào? 4) Đầy tớ được chủ sai đến thu hoa lợi vườn nho ám chỉ những ai? 5) Bọn tá điền đã đối xử thế nào đối với các đầy tớ do chủ vườn sai đến? 6) Sự khoan dung nhẫn nhịn của chủ vườn nho thể hiện qua hành động nào? 7) Sau cùng chủ vườn nho đã sai ai đến và nhằm mục đích gì? 8) Bọn tá điền hè nhau giết hại con trai ông chủ nhằm mục đích gì? Cái chết của con trai ông chủ vườn trong dụ ngôn ám điều gì sẽ xảy ra cho Đức Giêsu sau này? 9) Câu “Ác giả ác báo” ám chỉ về ai trong dụ ngôn? 10) Tảng đá bị bọn thợ xây lọai bỏ ám chỉ ai và điều gì sẽ xảy ra cho Người? Dân tộc khác ở đây là dân nào? Làm cho sinh hoa lợi nghĩa là gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Tôi nói cho các ông hay: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21,43).
2. CÂU CHUYỆN: Về một ông vua tham lam
Sách Các Vua (x. 1 V 21,1-16) thuật lại câu chuyện về lòng tham của một ông vua như sau:
Trong thời kỳ các vua, ở Sa-ma-ri có một người tên là Na-vót. Ông là chủ đang canh tác một vườn nho. Bấy giờ vua của Sa-ma-ri là A-kháp đã sai người đến yêu cầu Na-vốt nhượng lại vườn nho ấy để làm vườn rau, vì nó nằm cạnh cung điện của nhà vua. Bù lại, vua sẽ cho ông ta một vườn nho khác tốt hơn. Hoặc nếu muốn, nhà vua sẽ trả bằng bạc theo giá thỏa thuận. Nhưng Na-vốt đã từ chối không bán vườn nho cho vua, với lý do đó là đất hương hỏa của tổ tiên để lại. Vua A-Kháp rất tức giận và buồn rầu. Nhà vua vào nằm quay mặt vào trong giường không chịu ăn uống gì cả. Bấy giờ hoàng hậu I-de-ven nghe biết đã đến an ủi vua. Bà hỏi lý do tại sao nhà vua lại buồn rầu và bỏ ăn như thế. Vua liền kể lại sự thể do Na-vốt đã không bán vườn nho cho mình. Nghe xong, hoàng hậu I-de-ven đã hứa sẽ tặng không cho vua vườn nho ấy. Rồi bà nhân danh vua A-kháp viết một bức thư, dùng con dấu của vua đóng ấn trên đó, rồi sai người mang đến nhà các kỳ mục và thân hào trong thành. Trong lá thư, bà đã đề ra một kế hoạch chi tiết để họ làm theo. Đó là xúi người đứng ra cáo gian Na-vốt đã dám nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua, rồi hội đồng sẽ xét xử và kết án Na-vốt bị ném đá chết. Dân chúng, kỳ mục và thân hào trong thành đã làm đúng theo kế hoạch hoàng hậu đã vạch ra cho họ. Sau khi Na-vốt chết, hoàng hậu liền đến gặp và giục vua chiếm lấy vườn nho của Na-vốt.
3. SUY NIỆM:
1) Về sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu:
Đức Giêsu có sứ mạng thiết lập Triều đại của Thiên Chúa hay cũng gọi là Nước Thiên Chúa. Đây là một Vương quốc bình an, hạnh phúc và đầy tràn tình thương. Nước Thiên Chúa bắt đầu trong lòng mỗi người như Đức Giêsu đã nói: “Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,21), rồi từ đó lan rộng ra xã hội để làm thành một Vương quốc mang lại hạnh phúc vĩnh cửu cho loài người. Để hình thành Nước Thiên Chúa này, Đức Giêsu đã kiện toàn Luật Mô-sê khi nhấn mạnh đến khía cạnh tinh thần của việc thờ phượng thay vì chú trọng thờ Chúa ở hình thức bề ngoài, như Người đã nói với người phụ nữ Sa-ma-ri: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem… Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,21.23).
Tuy nhiên các lời rao giảng về Nước Thiên Chúa của Đức Giêsu chỉ được lớp người bình dân đón nhận, đặc biệt là những người thu thuế và những cô gái điếm tội lỗi đi theo Người rất đông… Còn các người lãnh đạo là các Thượng tế, Kinh sư, Biệt phái… lại quyết liệt chống đối vì cho rằng Đức Giêsu đã phá bỏ truyền thống của cha ông. Do đó nhiều lần họ đã dò xét và tranh luận với Đức Giêsu về nhiều vấn đề như: Việc rửa tay trước khi ăn, việc ăn chay, việc chữa bệnh trong ngày hưu lễ Sa-bát, quyền xua đuổi con buôn ra khòi Đền Thờ… Đặc biết họ phẫn nộ khi nghe Đức Giêsu xưng mình là Con Thiên Chúa, gọi Thiên Chúa là Cha và coi mình ngang hàng với Thiên Chúa… Nên cuối cùng họ đã họp nhau quyết định: “Hắn đáng chết!” (Mt 26,59-66). Khi kể dụ ngôn những người tá điền sát nhân này, Đức Giêsu đã cho biết Người sẽ bị các đầu mục dân Do thái giết chết và về số phận của bọn người gian ác này (Mt 21,33-39).
2) Về ý nghĩa của dụ ngôn bọn tá điền sát nhân:
Câu chuyện trong dụ ngôn là một bản tóm lược về ơn cứu độ của Thiên Chúa, trong đó mỗi chi tiết đều mang một ý nghĩa liên quan tới lịch sử cứu độ: Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa, vườn nho là dân Ít-ra-en được Thiên Chúa chọn làm dân riêng của Ngài: Chúa đã thiết lập Giao ước Xi-nai với dân này qua trung gian ông Mô-sê, gọi là Cựu ước. Người đã bảo vệ và hướng dẫn họ như ông chủ vườn nho rào giậu, làm bồn đạp nho và vọng gác. Bọn tá điền sát nhân ám chỉ các nhà lãnh đạo đã đưa dân vào con đường bội nghĩa bất trung. Các đầy tớ của chủ vườn ám chỉ các ngôn sứ đã bị các đầu mục Do thái đối xử tàn tệ. Người con trai của chủ vườn là chính Đức Giêsu cũng sẽ bị họ đóng đinh trên núi Sọ ngoài thành Giê-ru-sa-lem. Các đầu mục Do Thái tưởng rằng khi giết được Đức Giêsu, họ sẽ nắm được trọn quyền lãnh đạo dân tộc. Nhưng trái lại, họ sẽ bị mất quyền ấy và tòan dân cũng bị vạ lây là thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị tàn phá vào năm 70 sau này. Còn Nước Thiên Chúa sẽ được giao cho một dân khác biết làm phát sinh hoa lợi, đó là Hội Thánh. Hội Thánh được ký giao ước mới với Thiên Chúa nhờ máu Đức Giêsu chịu chết trên thập tự: Người là “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại sẽ trở nên đá tảng góc tường”. Người là Con Thiên Chúa bị dân Do Thái là bọn thợ xây giết hại. Nhưng đến ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại và được “Thiên Chúa siêu tôn và tặng ban Danh hiệu trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu. Để khi vừa nghe Danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ. Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng “Đức Giêsu Ki-tô là Chúa” (PI 2,10-11).
3) Chúng tôi phải làm gì?
– “HỒNG ÂN THIÊN CHÚA BAO LA”: Thiên Chúa là chủ vườn nho, đã ban cho loài người biết bao hồng ân như thánh Phaolô đã viết: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” (1 Cr 4,7). Chúa trao cho ta một nén vàng và ta có bổn phận phải làm lợi ra gấp năm gấp mười nén khác. Ngài giao cho chúng ta trọn quyền làm chủ vườn nho tượng trưng cho sinh mạng, sức khoẻ, tài năng, phương tiện sinh sống, thời giờ và cả con cái hay những người chúng ta có bổn phận chăm sóc… Sau này chúng ta sẽ phải trả lẽ về phần hoa lợi phải nộp cho Ngài là các việc lành. Vậy chúng ta sẽ nộp cho Chúa phần hoa lợi nào khi ra trước tòa Chúa phán xét ở đời sau?
– TRÁNH THÓI THAM LAM: Sự tham lam là thói thường của con người: “Lòng tham vô đáy” được biểu hiện qua các thái độ: “Được voi đòi tiên”, “Theo đạo lấy gạo mà ăn”, hoặc “Sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi”, “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi, cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ”… Chúa trao trách nhiệm coi sóc vườn nho của Ngài cho ta và chỉ cần ta dâng lại một một phần nhỏ hoa trái làm ra. Thực ra Thiên Chúa không cần những thứ ta dâng, vì Ngài hoàn toàn sung mãn. Nhưng qua hành động dâng tiến đó, ta mới chứng tỏ được lòng mến Chúa và sẽ được Chúa ban thêm nhiều hồng ân, nhất là ơn cứu độ đời đời. Vậy hiện nay tôi đang theo đạo nhằm mục đích gì?
– NƯỚC THIÊN CHÚA SẼ BỊ LẤY ĐI: Câu cuối cùng trong bài Tin Mừng không chỉ là lời Chúa cảnh cáo các thượng tế và đầu mục dân Ít-ra-en, mà cũng là lời cảnh báo mỗi tín hữu chúng ta. Có khi nào Chúa sẽ lấy đi “ơn cứu độ” khỏi tay chúng ta để ban cho anh em lương dân thành tâm thiện chí đón nhận Chúa Giêsu không? Chúng ta sẽ bị Chúa lấy ơn Chúa khi chúng ta “đánh, giết, ném đá” những ngôn sứ là những vị chủ chăn trong Hội Thánh được Chúa sai đến coi sóc hướng dẫn chúng ta. Chúng ta sẽ bị lấy đi ơn cứu độ khi chúng ta cố tình phạm tội trọng, khi chúng ta không cầu xin ơn Thánh Thần đến thánh hóa chúng ta, khi chúng ta không biết làm phát triển nén vàng đức tin được trao cho chúng ta quản lý.
– “ÁC GIẢ ÁC BÁO”: là lời cảnh cáo các tín hữu tham lam, lợi dụng tôn giáo để mưu cầu ích lợi cho bản thân mình. Thiên Chúa luôn tỏ ra kiên nhẫn trước những sự bất trung của con người. Nhưng sẽ đến ngày thái độ kiên nhẫn phải nhường chỗ cho sự xét xử công minh. Đó là giờ chết của mỗi người hay là ngày tận thế chung của toàn nhân loại. Vậy ngay từ bây giờ mỗi tín hữu chúng ta phải làm gì? Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê cũng là khuyên chúng ta về cách ăn nết ở như sau: “Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (PI 2,14-15).
4. THẢO LUẬN:
1) “Tất cả đều là hồng ân”. Bạn có đồng ý với câu khẳng định đó không khi bản thân bạn liên tiếp gặp phải những tai nạn rủi ro và những sự trái ý cực lòng? 2) Thiên Chúa có quảng đại không, khi đòi chúng ta phải làm lợi thêm những nén vàng Ngài đã trao cho ta, hay khi Ngài đòi thu phần hoa lợi từ vườn nho tài năng mà Ngài đã trao cho ta trọn quyền sử dụng?
5. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Cha Từ Ái. Mỗi người chúng con đều là những tá điền được Cha trao sứ mệnh canh tác vườn nho của Cha. Vườn nho đó chính là những người thân yêu trong gia đình ruột thịt, là bà con chòm xóm, là xứ đạo, đất nước và Hội Thánh mà chúng con được mời gọi phục vụ.
– Xin cho các tín hữu chúng con biết chiếu sáng đức tin như những vì sao trên trời. Xin cho đức tin của chúng con luôn thể hiện qua đức cậy là lời cầu nguyện phó thác nơi Cha, và đức mến là thái độ khiêm nhường phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ những người nghèo đói bệnh tật hay bị bỏ rơi… Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ được Chúa chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho chúng con đời này và đời sau.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

50. Suy niệm của Lm Ansgar Phạm Tĩnh
HÃY LÀM NẢY SINH NHIỀU HOA LỢI CHO CHỦ MÌNH
Tại sao những người tá điền lại nhẫn tâm”bắt các đầy tớ [của ông chủ]: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ [và còn dám cả gan]… bắt lấy [con trai của ông], quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi” như vậy thưa bạn (Mt. 21:35,39)?
Bạn nghĩ thử mà xem, khi kiếm người trông nom và quản lý tài sản trong một thời gian dài và nhất là khi phó thác số tài sản lớn của mình trong tay của người đó thì ông chủ nhất định phải khôn khéo lựa chọn những người có lý lịch trong sạch, có uy tín và thật đáng tín nhiệm chứ! Chắc chắn ông phải điều tra kỹ lắm! Thế thì tại sao những người tá điền này lại trở thành những tên sát nhân độc ác như vậy? Chắc có nhiều lý do lắm. Thế nhưng theo tôi, lý do chính khiến cho những người tá điền chất phác này trở thành những tên sát nhân ác tâm như vậy là bởi vì họ không có HOA LỢI để nộp cho chủ.
Tôi và bạn, chúng mình đều là những tá điền, là những người quản lý trong vườn nho của ông chủ tốt lành là Thiên Chúa. Nhiệm vụ của chúng mình là phải làm sản sinh ra nhiều HOA LỢI cho Ngài.
Tôi hỏi thật bạn nhé! Bạn đã làm ra nhiều HOA LỢI cho ông chủ của bạn hay chưa?
Sống trong ơn gọi hôn nhân, bạn được ông chủ trao cho công việc quản lý một vườn nho trong đó toàn là những giống nho tốt, đó là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, cháu chắt của bạn… Nhiệm vụ của bạn là phải làm cho những cây nho này trổ sinh hoa trái ngon ngọt và sinh thật nhiều HOA LỢI cho Ngài.
• Khi cha mẹ, vợ chồng biết hy sinh, biết dành thời gian để chăm sóc, dạy dỗ và gần gũi với nhau và với con cái và khi con cái biết kính trọng, vâng lời, và thảo hiếu với cha mẹ… thì lúc đó bạn đang tạo cho những cây nho trong vườn một sức đề kháng rất mạnh. Sức đề kháng này còn mạnh hơn là những loại thuốc trừ sâu. Khi có được sức đề kháng tốt như vậy, những cây nho này chắc chắn sẽ không bị sâu rầy tấn công. Chắc chắn chúng sẽ mang lại thật nhiều HOA LỢI cho chủ.
• Khi vợ chồng sống hòa thuận, yêu thương, kiên nhẫn, tha thứ, giúp đỡ nhau, trung tín với lời thề hứa “suốt đời chung thuỷ với nhau, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bịnh hoạn… Là lúc đó bạn đang tạo ra những luồng gió mát và ấm áp kích thích những cây nho đơm bông kết trái thật xum xuê. Như thế là ông chủ sẽ thu được nhiều HOA LỢI!
• Khi bạn học hỏi giáo lý, học hỏi Kinh Thánh, tham gia vào những sinh hoạt của các hội đoàn trong giáo xứ, đến giúp đỡ và thăm viếng những người già nua, cô đơn, bịnh tật…là những lúc bạn đem thứ phân bón tốt nhất bón cho những cây nho trong vườn của ông chủ. Nhờ những thứ phân bón của yêu thương và bác ái này, những cây nho sẽ đem lại nhiều HOA LỢI cho chủ hơn!
Nếu bạn đang sống trong ơn gọi tu trì thì bạn và tôi chúng mình được ông chủ trao cho công khá nặng nề đấy! Chúng mình phải đứng trên những tháp canh, làm công tác bảo vệ vườn nho, trông coi những bồn đạp nho và làm đốc thúc công nhân làm việc để nhờ vậy HOA LỢI của ông chủ càng ngày càng gia tăng.
• Khi chúng mình “ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối” (2 Cor. 6:6) và khi tôi và bạn “ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại… lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau… duy trì sự hiệp nhất… bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với [anh chị em trong cộng đoàn với nhau]” (Eph. 4:2-3) là lúc đó chúng mình đang đem những thứ men tốt nhất trộn vào trong bồn nho. Nhờ khối lượng men thượng hảo hạng này, bồn nho sẽ sản xuất ra những giọt rượu thật trong, thật thơm, thật ngon và tuyệt hảo.
• Khi bạn và tôi trung tín trong ơn gọi tận hiến, cố gắng phấn đấu sống thánh thiện “không ngạo mạn, không nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn… hiếu khách, yêu chuộng điều thiện, chừng mực, công chính, thánh thiện, biết tự chủ…” (Ti. 1:7-8) thì lúc đó chúng mình đang làm cho bầu không khí trong công xưởng làm nho của chủ vui tươi hơn, làm cho công nhân phấn khởi hơn, và nhờ thế số lượng rượu sẽ gia tăng đáng kể. Như vậy ông chủ chắc chắn sẽ thu được nhiều HOA LỢI.
Bạn thân mến, nếu tôi và bạn, chúng mình không biết làm sinh HOA LỢI cho ông chủ thì… căng đấy!
Bạn có tin rằng khi không có hoa lợi nộp cho chủ, chúng mình sẽ lâm vào cảnh “đói ăn vụng túng làm liều.” Lúc đó tôi và bạn không chừng sẽ trở thành những tên sát nhân còn nhẫn tâm và ác ôn hơn là những tên tá điền trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay!
Nếu chúng mình thấy chưa có HOA LỢI để nộp cho ông chủ thì hãy nhanh tay lên, phải khẩn trương lên, bạn và tôi vẫn còn thời gian để làm cho HOA LỢI của ông chủ nảy sinh thêm. Đừng để cho ông chủ nổi giận và “tru diệt bọn chúng [mình], và cho các tá điền khác canh tác vườn nho” (Mt. 25:41).
Chúng mình hãy cầu nguyện cho nhau để bạn và tôi sẽ trở thành những người quản lý thông minh và khôn khéo, biết làm cho hoa lợi của ông chủ nảy sinh gấp bội. Làm được như vậy chắc chắn ông chủ sẽ rất hài lòng!
Tôi bảo đảm, nếu chúng mình làm nảy sinh nhiều HOA LỢI cho vườn nho của Chúa thì Ngài sẽ tươi cười và nói với chúng mình trong ngày sau hết: “Khá lắm! hỡi [những] đầy tớ tài giỏi và trung thành!… Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ [các] anh!” (Mt. 25:21).

51. Sinh lợi cho Chúa – Lm. Luy Phạm Hữu Độ, CRM
Năm 1965 trong chuyến bay từ Ý qua Mỹ, có một số Giám Mục trở về sau khi tham dự Công đồng Vaticanô II. Có 1 nữ chiêu đãi viên rất xinh đẹp nhưng cô lại rất bực mình vì có một người cứ chăm chú nhìn cô, người đó là Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen, vị giảng thuyết lừng danh của Hoa Kỳ. Khi hạ cánh, Đức Tổng nói với cô: “cô đẹp lắm, cô hãy cám ơn Chúa vì đã cho cô đẹp.” Mấy hôm sau cô chiêu đãi viên này tìm đến văn phòng Đức Tổng và hỏi con phải cám ơn Chúa thế nào? Đức Tổng trả lời: “Chúa đã lấy hết sắc đẹp của người cùi trong trại cùi Di linh bên VN mà ban cho cô, cô hãy qua đó an ủi họ.” Sau một thời gian, cô này đã nhập Dòng làm nữ tu và tình nguyện sang Việt Nam phục vụ tại trại cùi Di Linh.
Một tấm gương sáng và rất anh hùng.
Bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm đều nói về vườn nho. Vườn nho đó chỉ về dân Do Thái là dân riêng Chúa và cũng chỉ về mỗi người Công giáo chúng ta, vì khi chịu phép Rửa tội chúng ta thuộc về Giáo hội, là dân riêng Chúa.
Có 3 điểm nói về Thiên Chúa.
a/ Thiên Chúa tin tưởng con người: Ngài là chủ vườn nho, nghĩa là chủ thân xác và linh hồn chúng ta, nhưng Ngài tin tưởng và giao cho chúng ta canh tác, ban cho chúng ta có tự do để làm ích lợi hay làm thất thoát vườn nho đó.
b/ Thiên Chúa kiên nhẫn với con người: Ngài ban ân huệ như rào dậu chung quanh, xây tháp canh, đào hầm ép rượu, cho người tới thăm hỏi, cho thời gian sinh lợi.
c/ Thiên Chúa phán xét con người: Sau cùng khi đến hạn là lúc chúng ta nằm xuống, Ngài phán xét tùy theo chúng ta sống: phục vụ hay ích kỷ, sinh lợi hay khô cằn, chuyên cần hay lười biếng…
Có 3 điểm nói về con người.
a/ Con người có ân huệ Chúa ban: tự do, thời giờ, khả năng, ơn thánh… Thiên Chúa đã ban đủ phương tiện để chúng ta đạt mục đích.
b/ Con người có nhiều cơ hội: Chúa đã sai nhiều người tới nhắc nhở, cho nhiều biến cố xẩy ra để cảnh báo, cho nhiều thời gian để lập công phúc…
c/ Con người phải trả lẽ trước toà Chúa: mẫu số chung của con người là cái chết. Chúa có dịp hái nho ngọt để thưởng thức hay nho dại để đốt đi. Hoa lợi sinh cho Chúa là những việc lành hay gai góc là những việc xấu.
Ai cũng có 1 kiếp sống và chỉ một kiếp sống mà thôi. Chúng ta không có 2 kiếp để đánh đổi hay thử nghiệm. Những việc chúng ta làm ở đời nàysẽ định đoạt cho chúng ta ở đời sau. Thiên Chúa muốn cuộc sống của chúng ta phải sinh lợi cho Chúa và tha nhân. Ngài ban đủ phương tiện, Ngài cho đủ thời gian, Ngài không đòi hỏi điều vô lý hay quá sức chúng ta. Những chùm nho chín ngọt mà Thiên Chúa mong muốn là những nhân đức, những việc lành, những hy sinh, những phút giây cầu nguyện, những hành vi bác ái…
Cầu chúc cho nhau, với Ơn Chúa giúp và sự cố gắng của mỗi người, cuộc đời mình là Vườn Nho xanh tươi và chùm nho chín ngọt.

* LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
1. Sống lời kinh Mân Côi – Huệ Minh
Vào những năm đầu của thế kỷ XIII, khi đặt chân lên đất Pháp, thánh Đaminh đã phải chứng kiến cảnh hoang tàn của Giáo Hội ở miền Languedoc do bè rối Albigeois gây ra. Bị ảnh hưởng nặng nề bởi thuyết nhị nguyên, bè rối này coi tất cả những gì thuộc về thể xác hay trần thế đều do ma quỷ làm ra và thống trị, do đó bản chất nó là xấu. Lúc đó khắp vùng này bị ảnh hưởng tinh thần bi quan, yếm thế. Người ta chỉ lo hãm mình phạt xác, và thấy cuộc đời chỉ còn là một màu đen tăm tối. Liều thuốc thần diệu chữa trị căn bệnh bi quan do bè rối Albigeois gây ra đó chính là kinh Mân Côi.
Kinh Mân Côi bắt nguồn tại các vùng tây bắc Châu Âu từ phong tục kết những vòng triều thiên hoa hồng để đội lên đầu Đức Mẹ trong những buổi hành hương, hay trong những nghi thức ngoài phụng vụ, rồi người ta nhảy múa, ca hát bằng tiếng bản xứ. Dần dần khi hoàn cảnh không cho phép, người ta đọc phần đầu kinh Kính Mừng thay thế cho những bông hoa hồng để trở thành kinh Mân Côi, với những hình thức rất phong phú, linh động.
Ta thấy phần đầu của kinh Kính Mừng chính là lời sứ thần Kính chào Đức Mẹ. Như vậy, Kinh Mân Côi chính là khởi điểm của chương trình cứu độ loài người bởi Thiên Chúa. Mà như vậy, ai là người được nhận sứ mạng mở đầu, khởi điểm công trình cao cả là cứu chuộc loài người, há chẳng phải là Đức Maria sao? Vâng, Đức Maria, một người của muôn người, vì Đức Mẹ đã thể hiện xứng đáng với niềm tin của mình vào Thiên Chúa. Vâng, không còn lý lẽ nào, cũng không còn tâm tình nào cao hơn tiếng “XIN VÂNG“ của Đức Mẹ để đáp lời sứ thần.
Lời “XIN VÂNG” của Đức Mẹ là sự đáp trả tuyệt vời nhất sự kêu mời, sự mạc khải của Thiên Chúa cho nhân loại, mà Mẹ là Đấng đai diện xứng hợp nhất.
Sau khi thưa “Xin Vâng”, Mẹ vội và lên đường đi viếng bà thánh Elizabeth. Đây chính là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn trống, không đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi ích phi thường: đem ơn cứu độ đến cho ông thánh Gioan Baotixita còn trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn đầy niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.
Theo đó, Kinh Mân Côi không phải là phương thức mê hoặc hay dụ dẫn, mà là Lời của Tin Mừng, Lời của Thiên Chúa nói với con người. Đoạn Tin Mừng hôm nay là đoạn khởi đầu cho hai mươi mầu nhiệm của Tin Mừng cứu độ loài người bởi Thiên Chúa. Mầu Nhiệm Truyền Tin là khởi điểm của Mầu Nhiệm Cứu Chuộc bởi Con Thiên Chúa, mà đứng đầu là Đức Trinh Nữ Maria.
Đức Mẹ đã cộng tác với Thiên Chúa, nhưng sự cộng tác của Đức Mẹ khác với chúng ta. Sự cộng tác của Đức Mẹ là tích cực, vì Mẹ đã tin tuyệt đối, đã bỏ ngỏ đời mình cho Thiên Chúa tái tạo bằng quyền năng và lòng thương xót của Ngài chứ không phải bằng sự cố gắng đạo đức lập công nghiệp của Mẹ. “Xin hãy thành sự cho tôi theo Lời Ngài”, đó là lời thưa của Đức Mẹ. Còn Thiên Chúa, qua lời bà Isave đã nói với Đức Maria rằng: “Phúc cho Bà, là kẻ đã tin” (Lc 1,45).
Lời “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người biết vâng lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân: “Người bảo gì các con hãy cứ làm theo” (Ga 2,5). Thái độ hoàn toàn vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép lạ “nước lã hóa thành rượu ngon”. Hôm nay Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22-19), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ, chầu MTC, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã thành rượu ngon.
Kinh MÂN CÔI là phương thức cầu nguyện theo Tin Mừng, bằng Tin Mừng, nhờ Tin Mừng. Vì vậy, giá trị cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi là rất lớn, có sức chuyển cầu rất hiệu quả, không phải chỉ nhờ Đức Mẹ mà thôi, mà còn cùng với Đức Mẹ đón nhận Mầu Nhiệm Cứu Độ bởi Thiên Chúa qua Mầu Nhiệm Truyền Tin, và tiếng “XIN VÂNG“ của Mẹ, như Mẹ, với Mẹ vậy.
Sống kinh Mân Côi là làm cho những lời kinh đó trở thành một phương tiện loan báo Tin Mừng chứ không chỉ là một hình thức sùng kính Đức Mẹ. Kinh Mân Côi sống chính là phương tiện bồi dưỡng đức tin chứ không chỉ còn là một sinh hoạt đạo đức có tính cách tình cảm nhất thời. Trọng tâm của việc lần chuỗi đó phải là một cách thế để gặp gỡ, kết hợp với chính Đức Kitô, Đấng “là đường, là sự thật, và là sự sống” (Ga 14,6), và nhờ đó mà con người được thoát khỏi mọi sự lầm lạc, và không để người khác lợi dụng sự thiếu hiểu biết của họ mà gieo rắc hoang mang hay trục lợi (Ga 8,32).
Ước chi mỗi lần đọc Kinh Mân Côi, chúng ta biết nhìn ngắm tấm gương khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giêsu, học sống khiêm nhường như Chúa để nhờ đó, chúng ta triệt bỏ được tính kiêu căng và làm cho đời sống mình trở nên cao đẹp và giống Chúa hơn.

2. Nhiệm mầu của lời kinh Mân Côi – Huệ Minh
Kính thưa cộng đoàn,
Chẳng hiểu sao cái bài hát Ave Maria rất là nổi tiếng, kể cả những người không phải là Công giáo khi nghe lên cái nhạc nền đều nhận ra cái bài hát rất thân quen.
Có một thời, đài truyền hình trung ương, lấy cái đoạn nhạc đó để mà dẫn vào chương trình: Ave Maria, gracia plena Ave, ave dominus tecum Benedicta tu in. Kính mừng Maria đầy ơn phúc!
Và chắc có lẽ những người nào mà Xem Thúy Nga Paris thì không thể nào mà quên được ca sĩ Ngọc Hạ
Trình bày cái bài hát “Ave Maria, Con Dâng Lời” của linh mục nhạc sĩ Huyền Linh ở Gloria II, năm 2014.
Phải nói rằng bài hát này nhiều người hát lắm, nhiều ca sĩ hát lắm! Nhưng mà hôm đó chẳng hiểu sao Ngọc Hạ trình bày rất rất thành công. Cái giọng của cô cũng như cái diễn cảm của cô đi vào lòng người, đã để cho cái dấu ấn bài hát đó! Đến giờ này mà mỗi khi ai mở lại nghe, đều cảm thấy nó đi vào lòng người và rất hay!
Ave Maria con dâng lời chào Mẹ, Ave Maria con dâng lời chào Mẹ. Khi chiều tàn nắng hồng, và khi an vui trời đông. Con say sưa lời ca chào, Ave Maria
Phải nói rằng bây giờ con có hát, con cũng không có là gì, cũng chả được như cô Ngọc Hạ. Bởi vì, cô Ngọc Hạ hát tuyệt vời! Phải nói rằng cô thành công trong bài đó!
Và chính cái bài hát “Ave Maria, con dâng lời chào Mẹ” đó! Dệt lên cái ngày hôm nay, ngày 7 tháng 10, ngày mà lịch sử Giáo hội ghi dấu ấn bằng Lễ Mân Côi.
Kinh Mân Côi nguyên tiếng Latinh là Rosarium, tiếng Anh, tiếng Pháp là Rose là hoa hồng tượng trương kinh Kính mừng kết thành vòng hoa thiêng dâng kính Đức Mẹ như cổ thời Hylạp, và một số nước hiện nay, người ta làm vòng hoa tươi treo vào cổ trao tặng nhau. Trước kia người ta đếm kinh bằng hạt sỏi, dần dần người ta kết những hạt khác thành chuỗi Mân côi gọi là Rosary.
Thế kỷ XII, 150 Thánh vịnh David dài quá đối với nhiều người không thể đọc được, nên người ta đọc 150 kinh Lạy Cha thay thế. Dần dần người ta đọc 150 kinh Kính Mừng thay 150 kinh Lạy Cha. Do đó Thánh Đaminh gọi là “Thánh vịnh Đức Mẹ”. Sau này Đức Sixtô IV gọi tắt là “Thánh vịnh”.
Bắt đầu kinh Kính mừng chỉ gồm có lời chào của thiên sứ Gabrie: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng Bà” (Lc 1:28), rồi được thêm lời chào của bà Thánh Elizabeth: “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ. Và Con lòng Bà gồm phúc lạ” (Lc 1:42). Cũng trong thế kỷ XII, Đức Mẹ hiện ra trao truyền tràng hạt Mân côi cho Thánh Đaminh để cải hoá bè rối Albigensê đang tung hoành ở phía nam nước Pháp. Sang thế kỷ XIII, đời Đức Urbanô IV, Thánh Danh “Giêsu” được thêm vào.
Thời đó người ta đọc 150 kinh Kính mừng cùng với 150 kinh Lạy Cha, nghĩa là mỗi kinh Kính mừng một kinh Lạy Cha. Đến thế kỷ XIV, thầy Henry Kalkar (1328-1408), dòng Carthusian do Thánh Brunô sáng lập, chia 150 kinh Kính mừng thành từng chục (10) mỗi chục một kinh Lạy Cha.
Thế kỷ XV, Cha Đaminh Prussia (1384-1460) cũng dòng Carthusian chia 150 Kinh Kính mừng thành 3 chuỗi 50. Cũng trong thế kỷ này, Chân phúc Alanô de la Roche hay là De Rupe thêm phần suy niệm các mầu nhiệm trong khi lần chuỗi. Từ nay tràng chuỗi Mân Côi gọi là “Vòng hoa hồng”. Chân phúc Alanô nhiệt thành phổ biến kinh Mân Côi mà Đức Mẹ đã trao truyền cho Thánh Đaminh. Chân phúc Alanô thành lập Hội Mân côi năm 1480 và được Đức Mẹ hứa ban ơn cho những ai trung thành đọc kinh Mân côi.
Năm 1521, cha Albertô da Castello, O.P., sửa lại mỗi kinh Lạy Cha với một mầu nhiệm. Năm 1569, Đức Thánh Piô V thêm phần thứ hai kinh Kính Mừng: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con…” như chúng ta đọc hiện nay và với kinh Sáng Danh, và ấn định kinh Mân Côi như chúng ta thấy, ta quen đọc ngày nay.
Kinh Mẹ Mân Côi, là một sáng kiến mà Đức Mẹ đã truyền dạy cho thánh Đaminh vào thế kỷ 13. Và rồi bước sang thế kỷ thứ 16, khi mà đoàn quân Công Giáo, với một lực lượng rất là mỏng manh ra chiến trường tại vịnh La-pan. Đối với quân Hồi giáo thì quân Hồi giáo đi từ Trung Đông sang Á châu, sang Ấn Độ, sang Âu châu. Và đi đâu thắng đến đó. Và đi Âu châu với một đoàn quân thiện chiến. Nếu như quân Hồi giáo thành công thì coi như Rôma mất hết! Và Công Giáo biến mất, không còn trên trần gian này nữa.
Và rồi, đứng trước một thế lực mạnh như vậy, Đức Piô V đã kêu gọi mọi người cầu nguyện bằng Kinh Kính Mừng. Và lạ thay, quân Hồi giáo đã bị thua quân Công Giáo. Quân Công Giáo chiến thắng quân Hồi giáo không phải bằng thế lực quân sự, mà là nhờ Đức Mẹ, nhờ vào lời Kinh Mân Côi. Mà do đó, Đức Giáo Hoàng đặt lễ Đức Bà này gọi là lễ Đức Bà Chiến Thắng hay còn gọi là Đức Bà Mân Côi. Nếu như mà lễ Đức Bà Mân Côi, mà nói về chiến thắng này thì, có lẽ chúng ta lại liên tưởng đến chiến thắng về quân sự, về kinh tế, về chính trị.
Thế nhưng Chúa Giêsu không muốn đến thế gian này, cũng như không muốn con cái của mình chiến thắng về quân sự về kinh tế về chính trị. Hẳn chúng ta còn nhớ, đối diện với Philatô, Chúa Giêsu nói với ông như thế nào?
Tôi nói cho ông biết: Nước của tôi không thuộc về thế gian này! Nếu mà nước tôi thuộc về thế gian này, thì tôi sẽ cho lính của tôi giải thoát tôi khỏi tay người Do Thái.
Nước tôi không thuộc về thế gian này đâu!
Ông đừng có tưởng bở. Và rồi chúng ta thấy, Chúa Giêsu không dạy chúng ta chiến thắng về quân sự, về kinh tế, về chính trị. Nhưng rồi, nếu mà chúng ta suy nghĩ qua các chiến thắng Kinh Mân Côi để chúng ta chiến thắng người khác. Thì e rằng, rất là căng thẳng.
Bởi vì ngày hôm nay hơn bao giờ hết rất nhiều tôn giáo vẫn nghi kị nhau, vẫn giận hờn nhau, vẫn chưa hiệp nhất. Và rồi mỗi người chúng ta tất cả các tôn giáo phải ngồi lại với nhau để mà gắng bó với nhau để xây dựng một thế giới hòa bình.
Đức Giáo Hoàng Phaolô II đã mời các lãnh đạo tôn giáo lên thành phố Assisi, để cầu nguyện cho hòa bình và cứ như thế truyền thống các nhà lãnh đạo tôn giáo giận đến thành phố Assisi để cầu nguyện. Nhưng mà, cái chiến thắng của Kinh Mân Côi chiến thắng quân Hồi Giáo, nó chỉ là một cái để cho chúng ta nhìn lại về cuộc đời của chúng ta. Mỗi người chúng ta cũng cần chiến đấu những người chúng ta cũng cần Chiến Thắng Mà không phải là chiến thắng quân sự chiến thắng tiền bạc, chiến thắng danh vọng, chiến thắng quyền lực.
Nhưng chúng ta cần là: chúng ta chiến thắng bản thân của chúng ta.Người ta vẫn thường nói với nhau quan trọng nhất là chúng ta chiến thắng chính bản thân của mình.
Có một vị tướng trong lịch sử nói: Không có một cuộc chiến thắng nào lớn bằng, các cuộc chiến thắng nội tâm của mỗi người chúng ta: “ Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ “.
Vấn đề lớn là ở chỗ chúng ta phải chiến thắng mỗi người chúng ta. Và khi mà chúng ta lần chuỗi Mân Côi chúng ta sẽ thấy rằng: Chính tràng chuỗi Mân Côi giúp chúng ta chiến thắng bản thân của mình.
Người Đông phương của chúng ta vẫn thường hay nói rằng: Thân, Trí, Tâm. Nếu mà phân tích triết học thì con người chúng ta là con người như thế nào?
Là một động vật có lý trí, có tình cảm, có ý chí. Và chúng ta thấy, mỗi khi lần chuỗi thì chúng ta vận dụng cả ba cơ năng:Thân, tâm, trí. Cả con người chúng ta, chúng ta cầm cái tràng chuỗi Mân Côi. Khi chúng ta lần, thì nó ảnh hưởng tới cái Thân, cả cái Trí và cả cái Tâm của chúng ta.
***
Có một lần kia thì khi con vào cái chùa chơi với một ông thầy học cùng, thì con mới hỏi thầy là: Thầy lần cái chuỗi Nam Mô A Di Đà Phật 108 hạt đó, để làm cái gì? Thì Thầy mới nói rằng là: Chúng tôi lần để cho bớt căng thẳng. Bớt suy nghĩ vào cái khác.
Và rồi thầy có nói rằng: nếu mà cha lần chuỗi mà trong tay cha có một cái chuỗi, cha tập chú, cha đọc Kinh và suy nghĩ sâu hơn và sẽ khám phá ra cái điều mà mình suy nghĩ là cái gì? Cái điều mà mình tập trung là cái gì?
Và quả thật, cái điều mà chúng ta lần chuỗi, chúng ta suy nghĩ, chúng ta cầu nguyện đó! trong Kinh Mân Côi sẽ gợi lại cho chúng ta về cuộc đời, về cả cuộc đời của Chúa Giêsu.
Cả cuộc đời của Chúa Giêsu, từ khi sinh ra, sống công khai, đi loan báo Tin Mừng, chịu chết, rồi chịu đóng đinh trên thập giá, rồi lên trời. Rồi ban Thánh Thần. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu đựơc thu gọn trong tràng chuỗi Mân Côi.
Thật sự ra, tràng chuỗi Mân Côi, nếu chúng ta đọc chậm và chúng ta suy niệm rất hay. Nhưng mà với những người không thích Kinh Mân Côi thì bảo là cứ bao nhiêu kinh đó đọc hoài chán quá! mất thời gian quá! Bởi vì họ không khám phá ra được cái hiệu nghiệm của lời Kinh Mân Côi.
Nếu như chúng ta đọc Kinh Mân Côi trong thinh lặng chúng ta sẽ thấy cuộc đời chúng ta kết hợp với Chúa và cuộc đời chúng ta rất là bình an. Bởi vì trong cái lời Kinh Mân Côi đó chúng ta sẽ giải quyết được ba mối tương quan cơ bản của con người.
Mỗi một con người chúng ta, sống trong trần gian này, tương quan với Thiên Chúa, tương quan với tha nhân, và tương quan với vũ trụ.
Chúng ta để ý trong cái Năm Sự Mừng:
– Chúa Giêsu lên trời. Xin cho lòng chúng ta hướng về sự lên trời.
– Chúa Giêsu cho Đức Mẹ lên trời. Xin cho chúng ta cùng Đức Mẹ lên nước thiên đàng.
Đó là mối tương quan với Thiên Chúa đó! Chúng ta ước ao để mà chúng ta lên trời với Chúa, sau cái cõi trần này!
Năm Sự Vui: thứ nhất Đức Bà đi viếng bà Elizabeth, xin cho chúng ta được lòng yêu người.
Xin cho chúng ta khi mà nhìn về hành động của Mẹ Maria khi đi viếng bà Elizabeth. Xin cho chúng ta yêu thương tha nhân bằng tình yêu đích thực, bằng tình yêu sẽ chia.
Và mầu nhiệm Thương: Chúa Giêsu Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào thánh giá. Xin cho chúng ta đóng đinh tính xác thịt mình vào thánh giá Chúa.
Cũng xin cho chúng ta bớt đi những cái Tham, Sân, Si. Xác thịt, lòng dục của chúng ta, để chúng ta đừng dính bén vào những cái tội lỗi trong trần gian này.
Chuỗi Mân Côi này, giúp chúng ta chiến thắng bản thân mình và làm cho cuộc đời của mình tốt đẹp hơn!
***
Có một anh bạn rất dễ thương! Phải nói rằng anh là một thương gia, mà có thể nói là giang hồ. Anh ta đã một thời lăn lộn ở khu Huỳnh Thúc Kháng. Anh ta cày, nay lưng ra cày nhưng một ngày nào đó, anh cảm thấy cuộc đời anh vô nghĩa và anh thu mình lại trong gia đình của anh, bằng lần Tràng chuỗi Mân Côi.
Khi quen anh ban đầu, anh nói với con rằng: Cha biết không, một ngày con lần 30 chuỗi, 20 chuỗi. Có bữa anh nói: Hôm nay con mệt quá, con lần có 10 chuỗi!
Thì con mới nói với ảnh và con phân tích: Anh ơi! Không phải là 30, 20 hay là 10 chuỗi gì đâu! Nhưng mà từ cái tràng chuỗi Mân Côi đó, anh suy niệm cuộc đời anh với Chúa.
Nói với anh, cũng như nhắc nhở chính bản thân của mình. Nhiều khi cuộc đời mình gặp khó khăn mình đi tìm cái gì đó để mà an ủi mà mình quên tìm đến tràng chuỗi Mân Côi.
Và thật lạ lùng, trên cuộc đời của anh, bản thân của anh.
Nếu như trước đây anh cảm thấy khó chịu khi anh thấy bất công trong cuộc đời cũng như bất công trong Giáo Hội anh lên tiếng. Nhưng mà rồi, từ những ngày anh đọc Kinh Mân Côi, chậm rãi suy niệm anh thấy cuộc đời của anh được biến đổi. Chính con cũng thấy anh được biến đổi.
Từ ngày đó anh không còn khoe rằng: cha ơi, hôm nay con đọc được 10 chuỗi, 20 chuỗi, 30 chuỗi nữa. Mà thấy sự biến đổi sâu xa nơi cuộc đời của anh. Anh bớt nói, anh bớt bực dọc, anh bớt bực mình, anh bớt nói người này kia! Và cuối cùng anh chỉ suy nghĩ về bản thân anh, cuộc đời của anh mà thôi.
Phải nói rằng đó là một tấm gương. Đó là một cái một mẫu gương và hoa quả của lời Kinh Mân Côi, mà con xin chia sẻ với cộng đoàn và chính bản thân con.
Để rồi ngày mỗi ngày, chúng ta cố gắng đọc Kinh Mân Côi. Dẫu rằng, với ánh mắt của người khác: đọc Kinh Mân Côi là lãi nhãi, đọc Kinh Mân Côi là nhàm chán. Nhưng chính là lời Kinh Mân Côi là sức mạnh, là những bậc thang đưa chúng ta vào thiên đàng.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta. Nhân dịp chúng ta mừng lễ Mân Côi, không phải chúng ta nghĩ đến một cái chiến thắng quân sự, chiến thắng chính trị, chiến thắng về kinh tế. Nhưng chúng ta đọc Kinh Mân Côi, cùng với Mẹ Maria chiêm nghiệm lại cuộc đời của Chúa Giêsu và kết hiệp mật thiết với cuộc đời của CHÚA Giêsu, để chúng ta vượt qua những đau khổ và những thử thách trần gian này. Amen.

3. Kinh Mân Côi – Lm. JB. Lê Ngọc Dũng
Trong mối liên hệ mẹ con, không gì quý hơn tâm lòng người mẹ đối với con cái, là yêu thương sẵn sàng làm mọi việc, hy sinh vì con cái. Và ngược lại, không gì quý hơn, người con tỏ lòng biết ơn và hiếu thảo với cha mẹ.
Mỗi người chúng ta đều có người mẹ, và chắc hẳn chúng ta đã cảm nghiệm được lòng mẹ đối với chúng ta như thế nào. Và cũng chắc rằng người mẹ trần gian chỉ giúp đở chúng ta có hạn. Chúng ta có Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, giúp đở chúng ta vượt mức người mẹ trần thế, là giúp chúng ta nhận lãnh ơn Chúa để tiến vào sự sống hạnh phúc viên mãn với Chúa.
Để giúp chúng ta, Mẹ đã dạy chúng ta lần hạt Mân Côi.
Cầu nguyên bằng kinh Mân Côi rất hiệu lực là vì là Kinh xuất phát từ Lời Chúa. Kinh Lạy Cha là lời của Chính Chúa Giêsu dạy bảo cầu nguyện. Kinh Kính Mừng là một phần của lời của sứ thần Thiên Chúa và bà Isave, rồi cộng thêm lời xin cả cộng đồng dân Chúa, của cả Giáo Hội cầu xin.
Đức Mẹ rất ưa thích kinh này. Chính Mẹ đã nhiều lần nhắc nhở con cái lần hạt. Hãy dùng tràng hạt như một phương thế mang nhiều hiệu năng phi thường.
Tương truyền rằng thánh Đaminh đã vất vả chinh phục người ly giáo Albigois ở miền Nam nước Pháp. Thánh nhân đã hy sinh làm việc lành, như hầu như vô hiệu quả và bè ly giáo càng ngày càng bành trướng làm hư hoại bao nhiêu linh hồn. Thánh Đaminh chạy đến nhờ Mẹ, van xin hết lời, thánh nhân được Đức Mẹ ban cho một phương thế hiệu nghiệm là kinh Mân côi. Và nhờ đó bè lạc giáo đã bị tiêu trừ.
Năm 1511, một lần vinh thắng nữa là kinh Mân côi giúp Giáo Hội chiến thắng quân Hồi giáo ở vịnh Lépante, để kỷ niệm chiến thắng này, Giáo Hội đã lập ra lễ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10, vào tháng Mân Côi hàng năm.
Trong hai thế kỷ 19-20, Đức Mẹ đến với con cái Mẹ nhiều lần. Ở Lộ Đức, Mẹ hiện ra với Bernadette. Lần nào Mẹ cũng lần hạt với thánh nữ và nhắn nhủ hãy lần hạt như thế để cầu nguyện cho nhân loại và kẻ có tội. Chúng ta thấy các tượng Lộ Đức đều đeo tràng hạt. Năm 1917, vào những lần Mẹ hiện ra ở Fatima, lần nào Mẹ cũng khuyên lần hạt và Mẹ đã đặt tràng hạt là một trong ba điều kiện để cứu rỗi nhân loại, để Chúa khỏi phải đoán phạt một cách công thẳng. Mẹ coi tràng hạt như là một điều kiện để được cứu rỗi. Ở Fatima cậu bé Phanxicô hỏi “Con có được lên trời không ?” Mẹ đáp: “Có, miễn là phải lần hạt nhiều”.
Ngày 10-12-1925 rồi ngày 15-2-1926, Mẹ muốn các tín hữu xưng tội chịu lễ trong 5 thứ bảy đầu tháng liên tiếp và suy gẫm lần hạt Mân côi trong 15 phút đồng hồ để đền tạ Trái Tim Mẹ, thì Mẹ sẽ ban ơn cần thiết cho phần rỗi lúc lâm chung. Đối với Mẹ, tràng hạt trở nên 1 trong 3 điều kiện để được cứu rỗi, để kẻ có tội ăn năn trở lại, để mưu hạnh phúc cho mọi người.
Năm 1601, chuyện kể rằng, ở Bỉ có hai chàng thanh niên bê bối, tội lỗi. Sau khi đã phạm tội nặng, một anh ở lại nơi phạm tội, một anh trở về nhà mình. Vừa về đến nhà đặt mình xuống, vì quá khuy nên rất buồn ngũ… nhưng anh nhớ lại lời mẹ dạy nên quỳ xuống đọc ba kinh Kính Mừng. Đọc xong anh gục đầu ngũ thiếp đi ngay dưới đất. Lúc ấy có tiếng gõ cửa. Đẩy cửa vào là một chàng thanh niên mặt mũi đen thui ghê tởm xấu xa có lửa bốc cháy: “Anh ơi tôi đã bị luận phạt ngay sau khi anh ra về bằng một tai nạn. Xác tôi còn đang nằm ngoài đường kia. Chính Đức Maria đã gìn giữ anh vì ba kinh kính mừng”. Chàng thanh niên này đẫm lệ ăn năn, quỳ gối trước tòa Mẹ và sau này trở thành một tu sĩ và được phúc tử đạo tại Nhật bản. Còn cái chết của anh tội lỗi kia được một vị chân phước tên là Ham Suo Huere chứng kiến và kể lại.
Đó là một trong những muôn ngàn câu chuyện về hiệu lực của Kinh Mân Côi. Kinh Mân Côi đã từng chứng minh cho sự hiệu lực của mình trong từng gia đình, cho từng dân tộc và cho cả nhân loại qua các thế kỷ.
Vậy chúng ta hãy siêng năng dâng lên cho Mẹ những món quà là lời kinh Mân Côi. Món quà dễ dàng mua sắm vì kinh Mân Côi dễ đọc dễ gẫm suy, dễ thực hiện bất kỳ ở đâu lúc nào. Chúng ta đừng bỏ mất cơ hội mà Thiên Chúa tình yêu luôn mở ra để chúng ta được những ân sủng quý giá cho cuộc đời này cho đời sau.

4. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
LỢI ÍCH – LẦN CHUỖI MÂN CÔI
Đức Thánh Cha Phanxicô của chúng ta rất yêu mến Đức Mẹ qua việc lần chuỗi Mân Côi. Cụ thể, ngày 13-3-2013 Ngài được bầu làm Giáo Hoàng, thì sáng ngày 14-3, Ngài đến tượng ảnh Đức Mẹ Che Chở Dân Rôma để lần chuỗi Mân Côi và cầu nguyện để dâng cả triều đại giáo hoàng của Ngài cho Đức Mẹ. Năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chọn ngay ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi ngày khai mạc thượng Hội Đồng Thế Giới về gia đình, dĩ nhiên trước đó, Ngài kêu gọi mọi thành phần dân Chúa hãy đọc kinh Mân Côi. Và rồi mới đây, 12-5-2017, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến hành hương tại Đền thánh Đức Mẹ Fatima, Bồ đào nha, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra với 3 mục đồng tại đây: Lucia, Phanxicô và Giacinta. Đây là chuyến viếng thăm thứ 19 của Đức Thánh Cha tại nước ngoài. Nhưng đây là lần đầu tiên, chuyến viếng thăm của ngài hoàn toàn là một cuộc hành hương không có những hoạt động gì khác, chỉ có cầu nguyện với Đức Mẹ Fatima qua việc lần hạt Mân Côi và dâng Thánh Lễ. Hôm đó, Ngài đã đến trước tượng Đức Mẹ Fatima tại Nhà nguyện Hiện Ra, Đức Thánh Cha quỳ cầu nguyện rằng: “Lạy Nữ Vương, là Đức Trinh Nữ Fatima, là Mẹ Khiết Tâm, là nơi nương náu và là đường dẫn đến Thiên Chúa! Như người lữ hành theo Ánh sáng tỏa lan từ bàn tay Mẹ, con cảm tạ Chúa Cha, Đấng qua mọi nơi và mọi thời, vẫn hoạt động trong lịch sử nhân loại; Như người lữ hành của nền hòa bình mà Mẹ đã loan báo tại nơi này, con chúc tụng Chúa Kitô, là an bình của chúng con, và con cầu xin ơn hòa hợp giữa mọi dân nước trong thế giới này; như người lữ hành của niềm hy vọng mà Chúa Thánh Linh khích lệ, con muốn là một ngôn sứ và là sứ giả rửa chân cho mọi người, tại bàn ăn liên kết tất cả chúng con nên một”.
Ai trong chúng ta cũng yêu mến và quí trọng người Đức Mẹ, vì tình mẫu tử của Đức Mẹ Maria Mân côi dành cho mỗi người chúng ta dạt dào và êm ái biết là ngần nào? Cụ thể, trong Tin Mừng hôm nay, Mẹ Maria thưa “Xin Vâng” với Chúa, có nghĩa rằng Mẹ phó thác cuộc đời của Mẹ vào lòng thương xót của Chúa. Với hai tiếng xin vâng, Mẹ sẵn sàng cưu mang, sinh hạ, chăm sóc con Mẹ là Chúa Giêsu và đồng lao cộng khổ với Con Mẹ để đàn con Mẹ là chúng ta nhờ Chúa Giêsu mà được cứu độ. Nhờ Chúa Giêsu mà chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, và Chúa Giêsu Kitô là Anh Hai của chúng ta, và những đứa em của Chúa Giêsu là chúng ta cũng được thừa kế gia nghiệp trên thiên quốc vĩnh hằng mà Thiên Chúa dành sẵn cho chúng ta (Gl 4,7).
Trên trần gian Đức Mẹ đã chăm sóc Chúa Giêsu thế nào, thì ngày nay trên Thiên đàng, Mẹ Maria cũng chăm sóc chúng ta như thế. Đức Mẹ chăm sóc chúng ta bằng nhiều cách trong đó có việc Lần Hạt Mân Côi. Vì vậy, qua việc đọc kinh Hạt Mân Côi, trước hết, Mẹ sẽ cầu bầu và che chở chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Qủa thế, ai ai trong chúng ta cũng đều cảm nghiệm được tình Mẹ Maria dành cho chúng ta khi ốm đau cũng như khi mạnh khỏe, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi thành công cũng như thất bại, khi yêu cũng khi cô đơn, khi có gia đình cũng như khi đi tu. Cho nên, đã là người Công Giáo dù ở đâu, đi xe hay đi tàu, đi chợ hay đi học, ở bệnh viện hay ở nhà…., bất cứ lúc nào người ta cũng đọc Kinh Mân Côi. Vì bất cứ khi nào đọc Kinh Mân Côi, chúng ta cảm thấy có một sự ủi an và sức mạnh siêu nhiên làm cho tinh thần mình phấn khởi, không còn lo lắng sợ sệt… và nguồn đó chính là sự cầu bầu và chở che của Mẹ Maria. Vâng, chính tôi đã kinh qua và cảm nghiệm được điều này. Cụ thể, năm 2010, tôi bị tai nạn và bệnh rất nặng, khi nhập viện, bác sĩ bắt phải chụp MR 2 hai tiếng đồng hồ. Trong lúc nằm trong phòng chụp MR một mình, hai bên toàn là điện và máy móc cứ chạy phà phà, tôi nghĩ bụng nếu có chập điện hay sự cố gì thì mình chết tươi vì phòng này cắt ly hoàn toàn với bên ngoài, tôi bắt đầu lo sợ. Nhưng khi nằm lên gường và máy bắt đầu chạy thì tôi cũng bắt đầu đọc Kinh Mân Côi suốt hai tiếng đồng hồ. Điều đáng ngạc nhiên đối với bác sĩ rằng hầu như ít có người nào chụp MR lâu như tôi, mà nếu có thì ra là họ điều xỉu, yếu ớt cả nhưng tôi thì không vẫn bình thường vui vẻ cười nói tỉnh khô. Từ đó tôi cảm nghiệm rằng lợi ích của việc đọc Kinh Mân Côi không chỉ để yêu mến mà còn để cùng Mẹ thưa xin vâng theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh và cùng với Mẹ cầu nguyện có Chúa đỡ nâng, an ủi và giúp sức cho chúng ta chịu đựng tất cả trong bình an.
Lợi ích thứ hai của việc đọc kinh Mân Côi, Đức Mẹ sẽ giúp chúng ta học và hành bài học yêu thương và tha thứ của Mẹ. Vâng, sau khi thưa hai tiếng xin vâng, Mẹ chịu nhiều đau khổ, chịu người ta sỉ vả, chửi bới… ấy thế Mẹ không một lời oán trách, căm thù, ngược lại, Mẹ yêu thương và tha thứ tất cả, cho nên, gẫm thứ hai trong Kinh mân Côi Mùa Vui, chúng ta đọc: thứ ba thì gẫm, Đức Bà đi viếng bà Thánh Isave, ta hãy xin cho được lòng yêu người như Đức Mẹ là vậy. Năm nay là năm mà các Đức Giám Mục mời gọi các bạn trẻ chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân gia đình, đặc biệt là các gia đình Công giáo hãy thể hiện ơn gọi yêu thương và sứ vụ thương xót ngay trong gia đình của mình. Vì vậy, học gương Mẹ Maria Mân Côi, chúng ta hãy thực hiện điều này ngay trong gia đình của mình vì gia đình là nơi những thành viên liên kết với nhau trong tình yêu máu mủ. Nói đến máu mủ là nói đến sự sống, sự sống tồn tại được là nhờ tình yêu và thương xót nhau. Nhưng trong thực tế, ngày nay đời sống vợ chồng còn gặp khó khăn trong tình yêu, mọi thành viên trong gia đình xào xáo nhau, hạnh phúc gia đình bất ổn… Hôm nay, chúng ta học gương Mẹ và nghe lời Mẹ dặn rằng: HÃY SIÊNG NĂN LẦN HẠT MÂN CÔI để sống tình yêu thương, tha thứ và chung thủy với nhau vì có Mẹ ở với gia đình chúng ta sẽ giúp gia đình chúng ta vượt qua tất cả như lời kinh Lạy Nữ Vương gia đình chúng ta thường đọc mỗi tối: Lạy Nữ Vương gia đình, Mẹ ở đây với chúng con, vui buồn sướng khổ, Mẹ con cùng nhau chia sẻ. Xa Mẹ chúng con biết cậy trông ai. Đời chúng con gian nan khổ sở lắm, gia đình chúng con long đong tối ngày, nhưng có Mẹ ở bên chúng con, chúng con thấy quên hết ưu phiền, vui sống qua kiếp lưu đày, mong ngày sau sung sướng cùng Mẹ muôn đời trên thiên đàng. Amen.
Cuối cùng, lần hạt Mân Côi sẽ giúp chúng ta cùng với Mẹ đón nhận đau khổ hay khó khăn trong tinh thần đức tin. Vâng, chúng ta đọc “Năm Sự Vui” thứ 3 thì gẫm: “Đức Bà sinh Đức Chúa Giêsu nơi hang đá, ta hãy xin cho được lòng khó khăn”. Qủa thế, cuộc đời Đức Mẹ không thiếu những khó khăn và đầy ấp những đau khổ, đặc biệt khi đứng dưới chân thập giá nhìn Con chết tức tưởi nhưng Mẹ đón nhận trong tinh thần phó dâng và tín thác. Cuộc đời của chúng ta, có ai mà không có đau khổ, nước mắt nhiều hơn nụ cười và phiền muộn nhiều hơn hạnh phúc. Không gia đình nào trong chúng ta mà không có đau khổ, khó khăn, mỗi nhà một cách mỗi người một vẻ. Chúa không muốn chúng ta hay gia đình chúng ta phải đau khổ, khó khăn, Chúa muốn chúng ta hạnh phúc. Nhưng những đau khổ hay khó khăn nó đến là vì giới hạn của con người: sinh lão bệnh tử hay có thất bại có thành công. Cho nên, Chúa ban cho chúng ta nhiều phương thế để vượt qua những thử thách đó trong đó có Kinh Mân Côi, nhờ Đức Mẹ cầu thay nguyện giúp chúng ta. Nếu chúng ta vượt qua được thì tạ ơn Chúa. Nếu chưa qua được, Mẹ sẽ giúp chúng ta đón nhận đau khổ trong tinh thần đức tin để cầu nguyện cho cho gia đình, cho con cái, cho Giáo xứ, cho Giáo phận của mình biết trung tín và tín thác vào lòng Chúa xót thương.
Ước gì, qua Thánh lễ này, suốt trong tháng Mân Côi này, xin mỗi gia đình hãy siêng năng lần hạt Mân Côi để cùng vời Mẹ dâng lên Chúa những hạt kinh của các ngày sống qua từng thời kỳ của mùa Vui, Thương, Mừng để ơn Chúa tuôn đổ xuống từng người trong gia đình đồng thời mưu ích cho các linh hồn và sáng danh Chúa. Amen.

5. Kinh Mân Côi
Trong một vài phút vắn vỏi này, tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ về kinh Mân Côi.
Trước hết kinh Mân Côi là một cuốn Tin Mừng rút gọn.
Thực vậy, ngày xưa việc học hỏi Kinh Thánh chưa được phổ biến rộng rãi. Đó là việc dành riêng cho những nhà chuyên môn. Chẳng hạn vào thế kỷ thứ 9, chỉ các tu sĩ mới đọc 150 thánh vịnh của vua Đavít để thưa chuyện với Chúa. Còn dân chúng thì không có đủ phương tiện và thời gian để học hỏi và thấu triệt những tâm tình của thánh vịnh để mà cầu nguyện. Vì thế người ta đã nghĩ phải làm thế nào để mọi tín hữu có thể dễ dàng đọc kinh hầu thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa.
Thế là người ta dựa vào 150 Thánh vịnh mà lập ra kinh Mân Côi gồm 150 kinh Kính Mừng. Những kinh ấy được lặp đi lặp lại mà không hề cảm thấy nhàm chán vì chúng được dựa trên nền tảng Lời Chúa. Ban đầu để khỏi quên 150 kinh, người ta phải dùng đá sỏi, hạt đỗ. Và sau này người ta đã xâu lại thành từng chuỗi. Hơn thế nữa, hai mươi mầu nhiệm của kinh Mân Côi đã tóm tắt tất cả Tân Ước và những biến cố quan trọng của cuộc đời Chúa Giêsu. Cho nên, chúng ta cũng có thể nói kinh Mân Côi là một bản tóm lược đời sống của Chúa Giêsu nơi trần gian. Kinh Mân Côi là một cuốn Phúc Âm rút ngắn.
Tiếp đến kinh Mân Côi là một việc đạo đức được Mẹ ưa thích.
Chính Mẹ đã nhiều lần nhắn nhủ con cái Mẹ siêng năng chăm chỉ lần chuỗi. Tương truyền rằng thánh Đaminh đã phải vất vả đi chinh phục những người theo bè rối Albigeois ở miền nam nước Pháp, nhưng tất cả những cố gắng của ngài đều vô ích. Cuối cùng thánh nhân đã chạy đến nhờ cậy Mẹ và được Mẹ ban cho một phương thế hữu hiệu đó là kinh Mân Côi. Nhờ kinh Mân Côi mà thánh Đaminh đã chiến thắng bè rối và dẫn đưa nhiều người lầm đường lạc lối trở về cùng Hội Thánh.
Năm 1511, kinh Mân Côi đã giúp cho đoàn quân Công giáo chiến thắng tại vịnh Lépante. Để kỷ niệm chiến thắng này, Giáo Hội đã thiết lập lễ Mân Côi vào ngày 7.10 mỗi năm.
Trong thế kỷ 19 và 20, nhiều lần Mẹ đã hiện ra. Tại Lộ Đức, Mẹ đã bảo chị Bernadette lần chuỗi để cầu nguyện cho nhân loại và những kẻ tội lỗi. Năm 1917 tại Phatima, Mẹ đã truyền cho chúng ta ba mệnh lệnh, trong đó có việc siêng năng lần hạt Mân Côi. Và chính Ngài vào ngày 13.10.1917 đã tuyên bố: Ta là Mẹ Mân Côi. Mẹ cũng cho chúng ta hay: Phanxicô sẽ được lên trời, miễn là phải lần hạt nhiều trước đã. Như thế chúng ta thấy, kinh Mân Côi đã đem lại biết bao nhiêu ơn lành, cho bản thân, gia đình, xã hội cũng như Giáo Hội.
Và qua dòng thời gian, các Đức Giáo Hoàng luôn nhắc nhủ và khuyến khích chúng ta chăm chỉ lần chuỗi, nhất là mỗi khi Giáo Hội gặp phải những gian nan thử thách, để xin Mẹ nâng đỡ và chở che. Kinh nghiệm cũng cho thấy: Người giáo dân Việt Nam, mặc dù hiểu biết về Kinh Thánh, về giáo lý không được bao nhiêu, nhưng nhờ việc siêng năng lần chuỗi mà đức tin luôn kiên vững qua muôn vàn sóng gió. Noi gương các bậc cha ông chúng ta hãy thành kính dâng lên Mẹ những đoá hồng tươi xinh, đó là những lời kinh Mân Côi chân thành, để xin Mẹ nâng đỡ, phù trợ cho chúng ta luôn mãi.

Xem thêm :  Chùm thơ & bài thơ chờ đợi người mình yêu buồn và nỗi nhớ da diết

6. Lễ Mẹ Mân Côi (Lc 1,26-38)
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
“Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu” (Lc 1,30-31).
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên”.
Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa: “Hỡi Maria, hãy vui lên”, vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.
“Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước”, vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng” (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu ông”.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”. Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà”. Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân loại.
“Hỡi Maria đừng sợ”. Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.
Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: “Vui và Sợ”. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.
Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở với chúng con.
Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng “Đầy Ơn Phước”, Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.
Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.

7. Niềm vui cứu rỗi
Cái tin mà Chúa Giêsu đem xuống trần gian là một tin mừng, cho nên đạo của chúng ta là đạo của niềm vui.
Thực vậy, đọc lại Kinh Thánh chúng ta nhận thấy trong suốt dòng lịch sử, dân Do Thái luôn sống trong vui mừng và hy vọng, chờ đón ngày Đấng Cứu Thế xuất hiện ngay giữa lòng dân tộc và giải thoát họ. Trong cuộc hành trình tiến về miền đất hứa, mỗi khi họ gặp phải khó khăn hoạn nạn, thì Thiên Chúa hằng ở bên và nâng đỡ họ, để họ được sống trong niềm vui mừng và hy vọng. Nội dung những lời rao giảng của các tiên tri mà Thiên Chúa gởi đến với họ đều kêu gọi họ hãy hân hoan vui mừng vì Chúa sẽ đến cứu độ họ: Vui lên Sion này ánh sáng huy hoàng. Vinh danh Giavê đang tràn lan khắp nơi. Vui ca lên nào thiếu nữ Sion, vì Đấng cứu độ rất oai hùng, Ngài ngự trong nhà ngươi.
Theo quan niệm Do Thái thì cá nhân không phải chỉ là một con người riêng biệt, mà còn là hiện thân của tổ tiên. Những người quá cố vẫn đang sống và hiện diện qua hình hài của con cháu họ. Do đó mỗi người đều liên kết khắng khít với cha ông, với tổ tiên, với gia đình, với họ hàng và với cả dân tộc mình. Vì thế, lời mời gọi người thiếu nữ Sion hãy vui mừng cũng chính là lời mời gọi được gởi đến cho cả một tập thể dân tộc Người Nữ sẽ sinh ra một Adong mới. Ngài sẽ đến phá tan mọi xiềng xích tội lỗi.
Lời mời gọi ấy Thiên Chúa cũng muốn gởi đến cho cả một dân tộc mới của Ngài, đến cho những người tin vào tình yêu của Ngài. Kinh Kính mừng là lời chào hân hoan mà thiên sứ Gabriel đã dành cho Mẹ Maria, cũng chính là lời mời gọi cho toàn thể Giáo Hội cũng như cho mỗi người chúng ta là hãy vui lên vì đã được Chúa cứu độ.
Kinh Kính mừng chính là lời chào mang lại Tin Mừng bởi vì Tin Mừng đã được khởi đầu từ đó. Với hai tiếng xin vâng đầy tin tưởng và phó thác, Mẹ đã cưu mang Chúa, Đấng đem lại niềm vui cho nhân loại. Lời chào mừng của sứ thầy Gabriel cũng được Thiên Chúa gởi đến với mỗi người chúng ta.
Tuy nhiên điều quan trọng đó là thái độ đáp lại của chúng ta. Liệu chúng ta có sẵn sàng xin vâng, có sẵn sàng mang Đức Kitô trong tâm hồn và trong cuộc sống của mình hay không? Liệu chúng ta có chấp nhận tình yêu của Thiên Chúa hay không? Chấp nhận tình yêu của Chúa là chấp nhận đi vào niềm vui ơn cứu độ. Chúng ta có biết rằng mỗi lần đọc kinh Mân Côi là một lần chúng ta đi vào niềm vui của Mẹ, niềm vui có Chúa ở cùng hay không?

8. Cùng Mẹ xin vâng – Lm. Anmai
Trong số các lễ nhớ Đức Maria, ngoài lễ Đức Mẹ Lộ Đức và lễ Đức Bà Camêlô, còn có lễ Đức Mẹ Mân Côi, do Đức Giáo Hoàng Gregorio XIII thành lập năm 1573. Nhưng để biết nguồn gốc của lễ này trước hết phải tìm hiểu lịch sử Kinh Mân Côi “Rosario”. Từ Rosario phát xuất từ chữ Latinh “Rosarium” có nghĩa là vườn hồng, khóm hồng, tràng hoa hồng, hoặc chuỗi hoa hồng, và cũng còn gọi là Kinh Mân Côi.
Sở dĩ gọi là “chuỗi hoa hồng” hay “tràng hoa hồng” là vì nó bao gồm nhiều hạt. Mỗi một hạt là một kinh Kính Mừng. Khi đọc nó giống như một đóa hồng tín hữu dâng kính Mẹ Thiên Chúa. Rồi nó cũng được gọi là Kinh Mân Côi, vì Mân là tên của một loại ngọc, Côi là một thứ ngọc tốt, ngọc quí lạ. Kinh Mân Côi là “Kinh Ngọc”, là “chuỗi ngọc Mân và ngọc quí lạ”. Mỗi một kinh Kính Mừng dâng lên Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đấng đầy ơn phước, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, là ngọc Mân, ngọc đẹp quí lạ tín hữu dâng lên Đức Trinh Nữ Maria.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi trước kia người ta ít lưu tâm đến, nhưng từ khi Đức Mẹ ban ơn lạ lùng cho Đạo Binh Thánh Giá chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Lépante vào năm 1571, Đức Thánh Cha Piô V đã cho phổ biến lễ này một cách rộng rãi trong Hội Thánh toàn cầu. Đức Thánh Cha Lêô XIII đã giải thích tầm quan trọng của lễ Mân Côi trong rất nhiều thông điệp Ngài ban bố. Đến nay, người Kitô hữu trên toàn thế giới đã mừng lễ này cách rất sốt sắng và tôn kính đặc biệt đối với lễ Mân Côi.
Mẹ Maria với hai tiếng xin vâng đã góp tay vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu và hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa.Thánh lễ Mân Côi cũng nối kết những biến cố lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu: “Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh”.
Thư gửi giáo đoàn Galát, Thánh Phaolô gợi lại niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian như chúng ta nghe: “Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi! “ Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”. Thánh Phaolô khẳng định lại ơn cứu độ đến tự nơi Chúa Giêsu để rồi những ai tin vào Ngài thì không còn sống nô lệ cho tội lỗi nữa mà là được cứu thoát.
Đấng Cứu Độ trần gian mà Thánh Phaolô nhắc đó cũng đã được các ngôn sứ, người này người kia trong Cựu Ước nói đến. Đặc biệt, ngôn sứ Gioan Tẩy Giả cũng đã loan báo nhưng rồi mấy ai đón nhận. Không ai đón nhận bởi vì họ không tin Đấng Cứu Độ trần gian đến trần gian qua người phụ nữ nhỏ bé. Họ nghĩ rằng Đấng Cứu Độ trần gian đó đến trong uy quyền, đến trong vinh quang và sẽ làm cho dân tộc của họ được vinh quang nhưng Chúa đến khác với suy nghĩ của họ.
Trong niềm tin sâu thẳm của lòng mình, Mẹ Maria đã đón nhận Đấng Cứu độ trần gian. Trang Tin Mừng quá quen thuộc chúng ta nghe thánh Luca thuật lại lời xin vâng đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian vào trong đời mình. Mẹ tin và hoàn toàn bỏ ngõ đời mình cho Thánh ý của Chúa.
Ngày hôm nay, lời xin vâng được mở ra, được bỏ ngõ với biết bao nhiêu biến cố bi thương trong đời của Mẹ. Phải nói rằng quá sức chịu đựng của một cô gái như Mẹ. Không còn gì nhục nhã cho bằng khi phải đón nhận, khi phải đồng hành, khi cùng với con chịu đau khổ trên hành trình thương khó và bi thương nhất là cái chết trên thập giá.
Nhưng, niềm tin ấy của không dừng trên đỉnh đồi Canvê mà còn tiếp tục sau khi chôn con yêu của mình. Sách Công Vụ Tông Đồ cũng vừa kệ lại niềm tin của Mẹ khi các tông đồ bấn loạn, người đi về nhà, kẻ chán nản vì Thầy của mình đã chết. Không chỉ đơn thuần là Thầy mà là người mà cả cuộc đời mình tín thác, mình trao phó, thậm chí bỏ cả vợ cả con, cả gia đình để theo mà nay đã chết nên chẳng còn gì để mất cả. Các môn đệ tán loạn nhưng may mắn Mẹ đã giữ vững niềm tin ấy để quy tụ các môn đệ cùng quay trợ lại nơi các ông trú ngụ để cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau giữ vững niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian.
Niềm tin đó chính Mẹ đã giữ, giữ từ ngày xin vâng lời sứ thần cho đến khi Chúa Giêsu ra đi.
Tràng chuỗi Mân Côi mà ngày nay đoàn con cùng suy niệm chính là cùng nhau suy niệm niềm tin của Mẹ vào cuộc đời của Đấng Cứu Thế.
Mừng Mẹ Mân Côi là mừng niềm tin của Mẹ vào cuộc đời của Đấng Cứu Thế.
Không phải mừng lễ Mẹ như là mừng một biến cố, ghi dấu một kỷ niêm nhưng lại một lần nữa ta cùng nhau chiêm ngưỡng niềm tin của Mẹ. Và, cũng không phải chỉ để chiêm ngưỡng nhưng là để cùng nhau sống niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian như Mẹ đã sống.
Cách riêng, trong năm Đức Tin này, một lần nữa, cơ hội, dịp để chúng ta soi chiếu niềm tin của chúng ta vào Đấng Cứu Độ trần gian như thế nào? Dĩ nhiên, niềm tin ấy cũng như cơn sóng xô của cuộc đời. Niềm tin ấy cũng có lúc mãnh liệt, cũng có lúc cảm thấy mệt nhoài với những đau khổ trong đời. Thế nhưng, nhìn đi nhìn lại, nhìn tới nhìn lui thì những đau khổ mà ta phải chịu đó cũng chẳng thấm vào đâu so với tất cả những nỗi đau của Mẹ Maria. Và, Mẹ Maria cũng đau chưa bằng chính Chúa Giêsu con của Mẹ phải chấp nhận đau khổ đến hiến mạng sống của mình để đem lại ơn cứu độ cho con người. Chúa Giêsu, trong tất cả nỗi đau của mình, Ngài đã vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập giá.
Ngày mỗi ngày, khi lần chuỗi Mân Côi, chúng ta cùng đi với Mẹ Maria hành trình cuộc đời của Chúa Giêsu từ nhập thể, nhập thế và chết trên cây thánh giá. Nhìn như vậy, chiêm ngắm như vậy, suy niệm như vậy để cùng Mẹ dâng lên Chúa mọi đau thương thử thách của cuộc đời.
Dĩ nhiên với bản tính mỏng dòn non yếu và phận người tội lỗi, chúng ta khó có thể đi theo Chúa trên con đường thập giá. Nhưng, khi cùng đồng hành với Mẹ, có Mẹ trong cuộc đời, chúng ta sẽ cảm thấy thập giá đời của ta nó nhẹ nhàng và thanh thản hơn.
Hãy cùng với Mẹ Maria và thưa với Chúa hai tiếng xin vâng như Mẹ để tất cả mọi khổ đau của đời ta nên nhẹ nhàng. Hãy cùng xin vâng như Mẹ để niềm tin của chúng ta ngày mỗi ngày trao phó cuộc đời của chúng ta càng thêm mạnh đủ để chúng ta bắt chước như Mẹ mở toang cuộc đời của ta cho Chúa vào để Chúa hành động trong ta.

9. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Ai yêu mến Đức Mẹ như Mẹ của mình đều yêu thích lần chuỗi Mân Côi.
Giáo Hội khuyến khích lần chuỗi Mân Côi. Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI với Tông Huấn: Việc sùng kính Đức Maria; Đức Giáo Hoàng Gioan-Phao-lô II, với Tông Thư: Chuỗi Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria là những người cổ võ mạnh mẽ nhất việc sùng kính Đức Mẹ và lần chuỗi Mân Côi.
Ai yêu mến Đức Mẹ thì cũng thích nói lên lời chào của Thiên Sứ chào mừng Mẹ mình!
Chúng ta được một bà Mẹ “đầy ơn phước”, một bà Mẹ “có phước hơn mọi người nữ”, chúng ta không vui sao? Chúng ta không hãnh diện vì được làm con một người Mẹ như thế sao?
Hơn nữa, Đức Mẹ là Mẹ của Chúa Giêsu, chúng ta không cảm thấy hạnh phúc khi được Mẹ Thiên Chúa là Mẹ chúng ta sao?
Bà thánh Ysave khi được Đức Mẹ đến viếng thăm đã vui mừng la lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm?” Khi ấy, Thánh Gioan trong dạ mẹ đã nhảy mừng.
Lời Kinh Mân Côi là hồng ân cao quí Chúa tặng ban cho chúng ta. Lời kinh này nhắc cho chúng ta nhớ đến niềm hạnh phúc vô biên, mà Chúa đã ban cho chúng ta là được làm con của Đức Mẹ.
Chúng ta thật hạnh phúc! Thế nhưng còn rất nhiều người chưa biết hạnh phúc của mình, chưa biết yêu mến Đức Mẹ. Họ không biết Đức Mẹ yêu thương họ như thế nào! Thật đáng tiếc!
Hãy yêu mến Đức Mẹ và giúp anh em chúng ta yêu mến Đức Mẹ, để nhờ Đức Mẹ, chúng ta cũng được tràn đầy ơn phúc trong Chúa Giêsu, Con Đức Mẹ, “Con lòng Bà gồm phước lạ”.
Lần chuỗi Mân Côi là nhìn về Đức Mẹ, chiêm ngắm Đức Mẹ là tuyệt tác tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Đức Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Đó là nét đẹp cao quí của Đức Mẹ, là ân huệ độc nhất vô nhị Chúa bancho Đức Mẹ. Ơn Chúa đến với chúng ta bằng muôn vạn nguồn suối. Đức Mẹ chính là nguồn suối hồng ân tuôn trào từ Giêsu, Con Đức Mẹ. Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội là dấu hiệu của nguồn sống mới Chúa ban nhưng không cho nhân lọai. Nhìn về Đức Mẹ để tạ ơn Chúa, cùng với Đức Mẹ hát lên lời tạ ơn: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa…”
Khi môi miệng chúng ta lặp lại lời chào của Thiên Thần: “Kính mừng Maria đầy ơn phước”, phải chăng là nhắc nhớ ân huệ đầu tiên vô nhiễm đó? Miệng chúng ta đọc, nhưng con tim chúng ta hát. Đức Mẹ là “người nữ, đã được phục hồi” (Claudel) trong vẻ đẹp trinh nguyên vô tội của E-và khi mới được tạo thành.
Lời kinh êm đềm làm sao! Lời chào chứa chan niềm vui!
Hãy vui lên khi lặp lại lời chào của Thiên Sứ. Hãy quên đi tất cả những vũng lầy nhơ bẩn của chúng ta! Hướng về Đức Mẹ là hướng về niềm vui triền miên, chứa đựng trong hồng ân vĩnh viễn Chúa ban nơi Đức Mẹ.
Nhiều người đã đánh mất kho tàng an ủi này, họ không thấy ánh sáng đang mời gọi họ. Họ đánh mất sự êm đềm âu yếm họ đang cần đến. Họ đánh mất tình yêu của một người Mẹ mà họ đang khao khát.
Phải, Đức Mẹ là kho tàng tình yêu vô tận, nhưng kinh Mân Côi đưa chúng ta vào khung trời bao la hơn: Khung trời của ơn cứu độ.
Mẹ Maria được tôn sùng không phải vì cá nhân của Mẹ mà vì Chúa Giêsu. Nhiều người lầm tưởng rằng sự sùng kính Đức Mẹ sẽ làm phương hại đến vai trò duy nhất của Chúa Giêsu. Nhưng cũng có những người lại tôn sùng Đức Mẹ quá đáng, xem Đức Mẹ như ngang hàng với Chúa Giêsu Ki-tô.
Giáo Hội luôn xem Đức Mẹ như con đường dẫn đến Chúa Giêsu mà thôi. Trong kinh Mân côi, Đức Mẹ được xem như chiếm chỗ ưu tiên, nhưng trọng tâm vẫn là Chúa Giêsu. Trong Tông thư về chuỗi Mân Côi, Đức Gioan-Phao-lô II mời gọi mọi người đến với Đức Mẹ để cùng Đức Mẹ chiêm ngưỡng, tưởng nhớ, học hỏi để nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, Con Đức Mẹ; cùng với Đức Mẹ cầu khẩn và loan báo Chúa Ki-tô. Đó chính là con đường hành hương mà chúng ta cùng đi với Đức Mẹ, cuộc hành hương bất tận đến với Chúa Giêsu Ki-tô qua mọi biến cố của cuộc đời Ngài, từ mầu nhiệm nhập thể đến Phục sinh…
Khi miệng chúng ta đọc lên: “Kính mừng Maria, đầy ơn phước”, chúng ta nhìn thấy tình thương của Chúa Cha, đấng đã yêu trần gian đến nỗi ban Con Một mình cho trần gian; chúng ta nhìn ngắm Chúa Giêsu trở thành xác thịt trong Đức Mẹ. Đó là bước đầu của cuộc đối thoại liên lỉ giữa Thiên Chúa và con người. Chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu yêu thương chúng ta, đã đến tận trần gian này để nối lại mối dây tình thương đã đứt đoạn trong sự phản bội của Ađam.
“Kính mừng Maria,… bà có phước lạ hơn mọi người nữ …”, phước lạ đó đã phát xuất từ tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Đức Mẹ đã đáp lại trong tự nguyện, tiếng nói yêu thương của Chúa Cha. Tiếng “Xin vâng” ở Na-da-rét được tiếp nối bằng một chuỗi xin vâng suốt cả đời Mẹ; kể cả tiếng xin vâng cuối cùng dưới chân thập giá. Học thưa “Xin vâng” như Mẹ, và cùng với Chúa Giêsu, chúng ta cũng xin vâng mỗi ngày qua cuộc đời gian khổ và bận rộn của chúng ta.
Đức Mẹ là mẫu gương vâng phục, cũng như Chúa Giêsu là mẫu gương vâng phục: “Nầy Con xin đến để thực thi ý Cha”, “Xin đừng theo ý Con mà theo ý Cha”.
Kinh Mân Côi dẫn chúng ta đến sự vâng phục toàn vẹn thánh ý của Chúa Cha.
Chúng ta sợ vâng phục, tưởng rằng đó là nô lệ. Vâng phục loài người thường dẫn đến nô lệ nhưng vâng phục Thiên Chúa lại là một giải thoát. Chúa Giêsu đã vâng phục đến chết trên thập giá, vì thế, “Thiên chúa đã siêu tôn Ngài và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu…” Vâng phục Thiên Chúa không phải là một mất mát mà là một vinh quang.
Mẹ Maria đã vâng phục thánh ý Chúa, và Đức Mẹ đã nên “đầy ơn phước”, đã đem Chúa Giêsu đến cho chúng ta.
Giáo Hội dạy chúng ta cầu khẩn với Đức Mẹ với tính cách là Mẹ Thiên Chúa, như bà Ysave. Đức Mẹ viếng thăm chúng ta, đem Chúa Giêsu đến với chúng ta, chuyển thôngơn Chúa cho chúng ta.
Kính mừng Maria, lời kinh của những đứa con bé nhỏ không tin vào tài năng và sức lực của mình, mà chỉ tin vào quyền năng của Thiên chúa.
Cuộc đời trần thế này nhiều gian nan. Có những lúc chúng ta phải rên siết, có những ngày chúng ta tìm một tia hy vọng mà vẫn không tìm được. Có những ngày con tim chúng ta nổi loạn vì thất vọng… Hãy về với Đức Mẹ.
Bà Mẹ hiền của chúng ta đã can đảm nhìn Con mình chết đau thương trên thập giá, thì cũng cảm thông nỗi khổ của chúng ta. Đức Mẹ sẽ giúp chúng ta can đảm vác thập giá mà không rên siết. Đức Mẹ sẽ dạy chúng ta nhìn Con Đức Mẹ trên thập giá, để chúng ta được bình an, dù gánh nặng vẫn còn. Chúng ta sẽ không chạy trốn, chúng ta sẽ cùng với Đức Mẹ chấp nhận đau khổ như một hồng ân. Chúng ta vẫn còn hy vọng vì Chúa Giêsu, Con Đức Mẹ, đã “thắng thế gian”, thắng cả sự chết và vẫn hiển trị.
Ai yêu mến Đức Mẹ sẽ nhìn thấy đời mình tràn đầy niềm vui, ngay cả trong gian nan thử thách. Có Đức Mẹ, tin vào Đức Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ thất vọng; nhưng vắng Đức Mẹ… cuộc đời sẽ mất vui, vắng Đức Mẹ, ánh sáng sẽ lụn tàn và bóng tối sẽ bao trùm lên đời bạn.
Mầu nhiệm Mân Côi là niềm hy vọng không úa tàn, vì trong Đức Mẹ, chúng ta khám phá ra khuôn mặt yêu thương của Chúa Giêsu, khuôn mặt mà các thế hệ đang mong chờ.
Mừng Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta cùng với Đức Mẹ chiêm ngắm Chúa Giêsu nơi bàn thờ. Ngài đến với chúng ta nhẹ nhàng, khiêm tốn, để ở lại với chúng ta. Cùng với Đức Mẹ, chúng ta tạ ơn Ngài bằng cách đem Ngài vào cuộc sống bận rộn và khổ nhọc của chúng ta. Chúng ta sẽ cùng Ngài, đến với anh chị em của chúng ta, đem lại cho họ quả tim của chúng ta, quả tim đã được gột sạch mọi vết nhơ, đã được thánh hóa bằng chính Thịt Máu Chúa Giêsu trên thập và trên bàn thờ.

10. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Chuỗi Mân Côi mà người Kitô hữu dùng nó mỗi ngày để cầu nguyện là những lời kinh tuyệt hảo. Chuỗi Mân Côi giúp người kitô hữu nhờ Mẹ đến với Chúa Giêsu. Chuỗi Mân Côi giúp chúng ta khám phá công cuộc cứu chuộc nhiệm mầu của Thiên Chúa, khám phá tình thương bao la mà Thiên Chúa dành cho con người chúng ta. Nhân dịp mừng Lễ Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta cùng nhau suy gẫm về tràng hạt Mân Côi và xin Đức Mẹ giúp chúng ta thêm siêng năng chạy đến Đức Mẹ bằng chuỗi kinh Mân Côi.
Kinh Mân Côi được xuất hiện sớm nhất khoảng thế kỷ XII với hình thức suy niệm Năm Sự Vui và Năm Sự Mừng. Đến thế kỷ XIII – XIV, các tu sĩ dòng Phanxicô và dòng Tôi Tớ Đức Mẹ cổ động suy niệm Năm Sự Thương. Thánh Đaminh (1172 – 1221) được coi như người mà Đức Mẹ dùng để truyền bá lần chuỗi Mân Côi, và nhờ các tu sĩ trong dòng hoàn thành chuỗi với 150 kinh Mân Côi (song hành với 150 thánh vịnh) kèm theo nhiều câu suy niệm. Cuối cùng, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thêm vào Năm Sự Sáng. Kinh Mân Côi tuy đơn sơ, bình dân đến nỗi có người coi thường như thể là hình thức cầu nguyện chỉ dành cho những người nhà quê ít học đọc và cầu nguyện.
Sức mạnh của Kinh Mân Côi, sự kỳ diệu của Kinh Mân Côi được thể hiện ở tính lịch sử ngày lễ Mẹ Mân Côi 07 tháng 10 hàng năm được Đức Giáo Hoàng Piô V, xuất thân từ dòng Đaminh lập ra vào năm 1572 để kỷ niệm chiến thắng của hạm đội Công Giáo trên dân Thổ Nhĩ Kỳ ở vịnh Lepanto ngày 07.10.1571, nhờ sự bầu cử của Mẹ, mà là sức mạnh, chống trả cám dỗ, hoán cải tâm hồn, bảo vệ hạnh phúc gia đình, xây dựng hoà bình thế giới.
Vào khoảng thế kỷ 16, anh em Hồi giáo làm một cuộc chinh phục thế giới. Họ đi từ vùng Trung Đông sang Á Châu đến Ấn Độ. Đi đến đâu họ chiến thắng đến đó. Họ đổ bộ lên Âu Châu, đi vào một vịnh của nước Ý. Người Ý bắt đầu lo lắng và khiếp sợ. Lo sợ vì khả năng của mình không thể đối đầu với một đoàn quân thiện chiến như thế. Lo sợ thủ đô của Giáo Hội Công giáo là Rôma cũng biến mất và cả Âu châu cũng bị đe doạ. Trước hoàn cảnh nguy kịch ấy, Đức Giáo Hoàng Piô V lên tiếng kêu gọi cầu nguyện, Ngài kêu gọi mọi người cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng. Kết quả bất ngờ là ngày 7 tháng10 năm ấy quân của Công giáo chiến thắng. Chiến thắng không phải nhờ khả năng quân sự mà là nhờ sự phù trợ của Mẹ Maria. Vì thế Đức Giáo Hoàng đã lấy ngày đó làm ngày lễ Đức Bà chiến thắng. Sau này thành lễ Mân Côi.
Trong Tông Huấn ” Lòng sùng kính Đức Bà Maria” (Marialis Cultus), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: “Kinh Mân Côi là Kinh Tin Mừng”. Là kinh Tin Mừng không chỉ ở chỗ lời kinh Lạy Cha, Kính Mừng được kết nối bằng những lời lẽ trong Thánh Kinh, nhưng nhất là vì lời kinh ấy đưa chúng ta vào nội dung chính yếu của Tin Mừng là mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Vì thế, đối tượng chính yếu của chuỗi Mân Côi không phải là mầu nhiệm Đức Maria, nhưng là mầu nhiệm Chúa Giêsu, trải dài từ biến cố sinh ra tại Bêlem đến nỗi đau thập giá và niềm vui phục sinh, đến ân huệ Thánh Thần. Cùng với cuộc sống ấy là những giá trị căn bản của Tin Mừng được xác quyết: yêu thương, nghèo khó, khiêm nhường, từ bỏ,…Trên nẻo đường Tin Mừng ấy, lại có sự hiện diện của Đức Maria, một người Mẹ đầy tình mẫu tử và cũng là người môn đệ đầu tiên, hoàn hảo nhất của Đức Kitô. Mẹ đã thông hiệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trong suốt cuộc đời: từ khi sinh ra đến khi chứng kiến cái chết trên thập giá, sống lại và lên trời. Chuỗi Mân Côi đưa người tín hữu vào suy niệm về những đoạn đường ấy.
Thánh Bênađô nói: “Kinh Mân Côi có sức xua đuổi ma quỷ, làm cho hoả ngục phải run sợ trước thánh danh Chúa Giêsu và Đức Maria”. Thánh Gioan Kim Khẩu thì nói: “Thiên Chúa cai trị vũ trụ, nhưng dường như Người chịu thua những ai lấy Kinh Mân Côi mà cầu nguyện”.
Có thể nói rằng: Kinh Mân Côi là kinh chú giải chương cuối cùng của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vactican II, chương bàn đến sự hiện diện tuyệt vời của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội. Vì qua những lời kinh trong kinh Mân Côi, những biến cố chính của cuộc đời Chúa Kitô diễn ra trước mắt chúng ta và giúp chúng ta hiệp thông sống động với Chúa Kitô nhờ Mẹ Maria. Đồng thời chúng ta có thể đưa kinh Mân Côi vào tất cả những biến cố trong cuộc sống hàng ngày của từng cá nhân, từng gia đình, xã hội, Giáo Hội và toàn thể nhân loại, những biến cố của chính bản thân anh chị em chung quanh, nhất là với người thân yêu sống gần gũi với chúng ta. Như thế, kinh Mân Côi đơn sơ này sẽ theo nhịp sống của con người” (Gioan Phaolô II, 29. 10.1978).
Tràng chuỗi Mân Côi là một phương thế giúp ta chạy đến với Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình không được an vui hoà thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hoá bạn mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông..”.
Kinh Mân Côi là lời kinh dễ đọc, dễ dùng, nhưng có tác dụng rất thực tế và rất sâu. Trước hết, xét về số lượng lời kinh, đọc ít cũng được, đọc nhiều cũng được. Có người chỉ đọc mười kinh, năm mươi, một trăm, hai trăm kinh,….Đọc ở nhà cũng được, khi đi đường cũng được. Lúc sắp ngủ cũng được, khi thức dậy cũng được; khi mệt nhọc cũng được, lúc khoẻ mạnh cũng đuợc.
Mức độ cơ bản nhất của việc đọc kinh Mân Côi là tay cầm tràng hạt mà lòng nghĩ tới Chúa, nghĩ tới Đức Mẹ. Nhờ kinh Mân Côi, chúng ta tiếp xúc với Mẹ Maria, với Chúa Giêsu. Có khi chỉ là một tiếp xúc của lòng muốn. Có những con người rất yếu đuối và hay chia trí, đầu óc bị chi phối bởi trăm công nghìn việc, cầm tràng hạt với thiện chí muốn gặp Chúa. Có những con người rất cao siêu thanh thoát, tay cầm tràng hạt mà tâm hồn say sưa ngây ngất kết hiệp với Chúa. Đối với những tâm hồn đạo đức thánh thiện, các kinh kính mừng là những nốt nhạc đệm cho bài tình ca của linh hồn.
Lần chuỗi Mân Côi là đọc lại lời kinh Chúa Giêsu dạy (Lạy Cha), lập lại lời chào của thiên thần (Kinh Mừng) liên lĩ. Kinh Mân Côi là một phương tiện hữu hiệu nhất để cổ võ các tín hữu dấn thân chiêm niệm mầu nhiệm Kitô giáo. Kinh Mân Côi cũng là và luôn luôn là lời kinh của gia đình và cho gia đình. Lời kinh này đã một thời hết sức thân thiết với các gia đình Kitô giáo và hẳn đã làm cho các gia đình xích lại gần nhau…Cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi cho con cái và hơn thế nữa, với con cái, dạy dỗ chúng từ thuở ấu nhi biết dừng lại mỗi ngày để cầu nguyện là một trợ giúp thiêng liêng mà ta không thể hạ giá.”
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong những lựa chọn can đảm, trong hành động cụ thể như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Ý thức sự kỳ diệu của của Kinh Mân Côi, chúng ta hãy cầm lấy lại Chuỗi Mân Côi với lòng tin tưởng, tái khám phá Kinh Mân Côi dưới ánh sáng của Tin Mừng, và để nhờ Mẹ biến đổi chúng ta thành những người con ngoan của Chúa.
Chúng ta đừng xem thường, lại càng không nên xem đó là chuyện đạo đức rẻ tiền. Chúng ta hãy cầu nguyện để khám phá ra giá trị tuyệt vời của kinh Mân Côi. Nếu chúng ta không đọc được nhiều, tôi xin đề nghị mỗi ngày chỉ đọc 1 kinh Lạy Cha, 3 kinh Kính Mừng, 1 kinh Sáng Danh. Chúng ta hãy nuôi dưỡng trong tâm trí mình ý nghĩ: khi tôi đọc kinh Mân Côi, đó là phương cách để tôi đào luyện bản thân, để tôi sống đời đức tin tốt hơn.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ, xin cho chúng con siêng năng và bền lòng lần chuỗi Mân Côi để tiếp tục sống đức tin như các bậc tiền nhân đã sống. Amen.

11. Bài ca chiến thắng của người nghèo khó
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Giáo Xứ tôi, được xây dựng vào tháng 10 năm 1973, khi cha Stephano đưa đoàn di dân vào khu khẩn hoang lập ấp. Rừng thiêng nước độc. Nhà Thờ bằng cây rừng, mái tôn, vách ván thô sơ.
Sau tháng 4 năm 1975, Nhà Xứ, Nhà Thờ, trống trước trống sau, và đoàn Giáo Dân nghèo vẫn còn đó, mà chủ chiên thì vắng bóng vì thời cuộc quá nhiễu nhương.
Mỗi Chúa Nhật, bà con đến Nhà Thờ đọc dăm bảy kinh rồi về. Gọi “dăm bảy kinh” là vì bà con không dám ngồi lâu hơn trong Nhà Thờ nằm ngay bên cạnh Ủy Ban Nhân Dân Xã mới được xây dựng ngay trên đất đã qui hoạch cho Nhà Thờ!
Cha GB. Trương Văn Hiếu, chánh xứ Giáo Xứ Hòa Vinh, cách Giáo Xứ tôi 4 cây số, thường xuyên kín đáo thăm bà con và thỉnh thoảng thăm Nhà Thờ, ban Bí Tích Giải Tội tập thể. Rồi dần quen, cha thỉnh thoảng đến dâng Thánh Lễ công khai luôn. Tháng 10 năm ấy, lễ Đức Mẹ Mân Côi, cha tha thiết bảo bà con siêng năng lần hạt Mân Côi với niềm tin rằng Mẹ sẽ ban cho anh em một chủ chiên mới.
Cũng ngày ấy, ngài chính thức đặt tên cho ca đoàn Giáo Xứ gồm những anh chị em nông dân nghèo khổ cái tên gọi thân thương “Ca Đoàn Mân Côi”. Ngài nói: “Kinh Mân Côi là bài ca chiến thắng của những người nghèo khổ của Thiên Chúa”. Ngài giải thích: “Người nghèo khổ của Thiên Chúa là người có lòng khiêm nhượng, khao khát Thiên Chúa với niềm tín thác mạnh mẻ, và nhất là, người biết mình còn có đời sau và cần có đời sau”.
Cả Giáo Xứ ra sức đọc kinh Mân Côi, nhà nhà Mân Côi, người người Mân Côi. Bảy năm đọc kinh Mân Côi. Bà con hiệp lòng ký vào một đơn xin Linh Mục đặt dưới chân Đức Mẹ. Hai ông trong Hội Đồng Giáo Xứ đi ở tù. Nhiều ông khác “được” thăm hỏi, “được” canh phòng cẩn mật…
Tháng 9 năm 1982, Cha PX. Lê Quang Diễn nhận bài sai của Đức Giám Mục Nicolas, từ trại cải tạo về làm quản xứ. Có thể nói, đây là bài sai đổi xứ đầu tiên trong Giáo Phận sau năm 1975, và cũng là trường hợp đổi xứ đặc biệt nhất: từ trại cải tạo ra ngay làm quản xứ, không có thời gian quản thúc, quản chế… Cả Giáo Xứ tạ ơn Mẹ Maria và nhận ra đây là phép lạ của chuỗi Mân Côi mà cha GB. Trương Văn Hiếu đã khuyến khích trong suốt 7 năm ròng.
Cha GB. đã về với Chúa ngày 21.5.2011, nhưng “Bài Ca Chiến Thắng Của Người Nghèo Khổ” từ ngài vẫn luôn là lời nhắn gửi sống động:
– Kinh Mân Côi của người có lòng khiêm nhượng
– Kinh Mân Côi của người có lòng khao khát Thiên Chúa với niềm tín thác mạnh mẻ.
– Kinh Mân Côi của người biết mình còn có đời sau và cần có đời sau.
Thiết tưởng bài ca của người nghèo và phép lạ Mân Côi không chỉ là bài ca và phép lạ của bà con Giáo Xứ tôi, nhưng còn là của mọi tín hữu khắp nơi trên thế giới.
Vâng, trong lịch sử Giáo Hội, bài ca của người nghèo là lời kinh Mân Côi đã từng chiến thắng bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp vào thế kỷ 13, chiến thắng sự bành trướng của ly giáo Cải Cách ở Luxembourg, chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ thế kỷ 16, và đầu thế kỷ 20, chiến thắng phái Tam Điểm phân hóa và chống phá Giáo Hội tại Bồ Đào Nha…
Và ngay đến hôm nay, lời kinh Mân Côi vẫn còn ghi thêm những chiến công lẫy lừng.
– Những chứng từ sống động về lời kinh Mân Côi của những người phụ nữ Công Giáo Nga, ít học, quê mùa đã hết lòng khiêm nhường, tín thác, không chỉ 7 năm Mân Côi mà là gần 70 năm Mân Côi dưới chế độ vô thần cộng sản để niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô vẫn mãnh liệt, sức sống của Chúa Giêsu Kitô vẫn trẻ trung, và Giáo Hội Chúa Kitô vẫn tồn tại và sống động.
– Những chứng từ sống động về lời kinh Mân Côi của những Giáo Hội hầm trú bên Trung Quốc đã khẳng định sức mạnh chiến thắng diệu kỳ của chuỗi Mân Côi trước bao bức bách, cường bạo.
– Những chứng từ sống động gần gũi nhất nơi mỗi biến cố thắp nến cầu nguyện cho Công Lý tại Việt Nam, bài ca chiến thắng của những người nghèo lại cất lên, và phép lạ của kinh Mân Côi phải thấy được bằng con mắt Đức Tin mới nhận ra mình đang được hơn là mất, đang thắng chứ không phải thua, đang bình an và hiệp nhất giữa sóng gió tưởng có thể chòng chành, chao đảo.
Vâng, có thể là không còn tượng Đức Mẹ ở công viên, nhưng sáng sáng chiều chiều ở “công viên mới” vẫn còn lời kinh kính mừng của những người yêu mến Mẹ. Tượng Đức Mẹ người ta đã dẹp đi rồi. Nhưng Mẹ vẫn ở đó. Ai dám nói những người nghèo khổ của Mẹ đang thua? Vẫn những kinh Mân Côi hướng lòng lên Đồi Thánh Giá. Có thể là không còn cây Thánh Giá trên đồi xưa đầy kỷ niệm, nhưng, cây Thánh Giá trên cao quá, ở xa quá, bây giờ người ta đã hạ cây Thánh Giá ấy xuống mà đặt vào ngay trong lòng mỗi tín hữu để tôn kính, để ôm hôn, để làm nhịp cầu cứu rỗi. Ai dám nói những người nghèo khổ của Mẹ đang thua?
Có những chiến công không chỉ thấy bằng con mắt Đức Tin, mà con mắt trần cũng có thể thấy được. Có thể bạn và tôi còn nhớ “bài ca chiến thắng của người nghèo khổ” bởi muôn tấm lòng cất lên rập ràng phía sau trường tiểu học cuối xóm Trúc Lâm nhìn về núi Tàpao nơi Mẹ đang ở đó, bị bắn vỡ đầu, bị đập gãy tay… Vâng, lời kinh Mân Côi ấy đã hiển linh thành Trung Tâm Thánh Mẫu Tàpao cho muôn con cái Mẹ, cho muôn người nghèo khổ thêm niềm xác tín chiến thắng.
– Những chứng từ về kinh Mân Côi, chuỗi Mân Côi, bài ca chiến thắng của người nghèo khổ còn sống động ở nơi mỗi gia đình Công Giáo. Một vòng thăm dò cho thấy những gia đình có giờ kinh chung, lần chuỗi chung sáng hoặc tối, một chục hay đủ năm chục… được nhiều ơn bình an gia đình hơn là những gia đình thiếu giờ kinh chung, vắng kinh Mân Côi chung và riêng, hoặc còn tệ hơn nữa là các thành viên trong gia đình không hề biết… lần chuỗi!
Thực ra, để đọc kinh chung và lần chuỗi chung trong gia đình không phải dễ nếu không có một quyết tâm cùng với những khiêm tốn, từ bỏ. Việc lần chuỗi riêng cũng thế, nếu không có lòng yêu mến Mẹ, tin thác cậy trông nơi Mẹ để vượt qua sóng gió cuộc đời, nhất là vượt qua cám dỗ để nên hoàn thiện thì khó lòng mà thực hiện được. Xin nghe mấy tâm sự:
“Thưa cha, nhà con không đọc kinh chung được, vì khoảng 8 đến 9 giờ là nhà con xỉn rồi! Mấy mẹ con đọc kinh thì ổng nói là… quân Pha-ri-siêu!”
“Mỗi lần lần chuỗi, con phải cất cái chuỗi đi, vừa làm việc vừa lần chuỗi cha ạ! Có chục thiếu, có chục dư! Nhưng chắc Đức Mẹ bỏ qua cho. Ổng thấy con cầm cái chuỗi là ổng chửi: “Đồ đạo đức giả!”
“Đã mấy lần cầm đến chuỗi Mân côi, mà con không thể nào lần chuỗi được, nhớ đến nó, phát ghét!”… “Nó nào?”… “Thằng chồng con!”
Bởi vậy, khi cả nhà thuận tình đọc kinh và lần chuỗi chung với nhau, thiết tưởng, đã là một chiến thắng.
– Chứng từ Mân Côi còn là bài ca chiến thắng của người có niềm tin vào đời sau, còn có đời sau và cần có đời sau. Một lời khẩn khoản thiết tha vì tin yêu Mẹ Maria là Mẹ của mình trong Nước Trời. Mẹ là trạng sư cho những tội nhân cần đến lượng khoan hồng, lòng thương xót. Không chỉ đợi đến lúc lâm chung mới tỉnh ngộ, mà ngay khi các tín hữu đọc kinh Mân Côi sốt sắng, cũng đã mặc lấy tâm tình của “tội nhân sẽ đến giờ lâm tử” nói lên niềm tin vào đời sống vĩnh cửu trong Thiên Chúa, nhờ Mẹ Maria trong tình mẫu tử thiêng liêng.
“Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi. (Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống)
Mừng lễ Mẹ Maria Mân Côi và vào tháng Mân Côi, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con người Mẹ mẫu gương nhân đức tuyệt vời, ban cho chúng con Chuỗi Mân Côi phương thế chiến thắng cám dỗ, thế gian, ba thù và phương thế nên thánh. Xin cho chúng con yêu mến, tin tưởng Mẹ, mà siêng năng lần hạt riêng và lần hạt chung với gia đình.
Xin cho linh hồn cha cố GB. hưởng nhan Chúa. Amen.

12. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Đức Mẹ Mân Côi
1. Tràng hạt Mân Côi
Tất cả chúng ta điều rất quen thuộc với tràng hạt Mân Côi, bởi vì tràng hạt Mân Côi luôn đi đôi với lời kinh Kính Mừng, vốn là một trong những kinh mà chúng ta học và đọc ngay trong gia đình từ thời thơ ấu.
Từ “Mân Côi” phát xuất từ tiếng La-tinh Rosarium, có nghĩa là vườn hoa hồng. Thật là đẹp và đầy ý nghĩa, khi nhìn tràng Mân Côi quen thuộc, nhỏ bé và đơn sơ của chúng ta như là một vườn hoa hồng. Và như thế, tràng hạt Mân Côi mà chúng ta dùng để đọc kinh hàng ngày chính là một vườn hoa hồng, mỗi hạt kinh là một đóa hoa hồng, kính dâng lên Đức Maria, Mẹ của chúng ta. Và ai chúng ta cũng biết, hoa hồng là biểu tượng của lòng mến, của tình yêu. Vậy, chính khi chúng ta lần hạt, là chúng ta dâng hoa cho Đức Mẹ với lòng cảm mến và yêu thương của người con thảo. Với tâm tình này, chúng ta nhận ra rằng, cấu tạo của tràng Mân Côi cũng thật là hay và đầy ý nghĩa, vì tràng hạt có tâm điểm là ảnh Đức Mẹ.
2. Kinh Kính Mừng
Mỗi lời kinh Mân Côi là một đóa hoa hồng diễn tả tình yêu của chúng ta dành cho Mẹ. Thật vậy, vì đó chính là ý nghĩa sâu xa của phần thứ nhất trong kinh Kính Mừng:
Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ.
“Kính Mừng” có nghĩa là chúng ta ca mừng Đức Mẹ một cách kính cẩn; và lời ca mừng này một phần đến từ lời ca mừng của sứ thần Gabrien, khi ngài đến gặp Đức Trinh Nữ Maria trong biến cố Truyền Tin, mà bài Tin Mừng của ngày lễ hôm nay thuật lại cho chúng ta: “Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1, 28)
Và phần còn lại của lời ca mừng Đức Mẹ trong kinh Kính Mừng, đến từ lời ca mừng của bà Elizabet, trong biến cố Đức Mẹ thăm viếng: “Em được chúc phúc (nghĩa là có phúc lạ), hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (nghĩa là cũng có phúc lạ)” (Lc 1, 42).
Thế mà, chúng ta không thể ca tụng Mẹ với cả tâm hồn, nếu chúng ta không yêu mến Mẹ, và chúng ta không thể yêu mến Mẹ, mà không ca tụng Mẹ. Bởi vì, nếu không có lòng mến, lời ca tụng chỉ là giả tạo, hay chỉ có trên môi miệng, chứ không chân thật, không phát xuất từ con tim. Chính tâm tình ca mừng Đức Mẹ với lòng cảm mến, sẽ chuẩn bị cho chúng ta đón nhận những ơn huệ mà Mẹ sẽ chia sẻ cho chúng ta, và cũng chính thái độ ca mừng này sẽ giải thoát chúng ta khỏi thái độ ngược lại là đóng kín, ghen tị và vô ơn, vốn rất tai hại cho mình và cho người khác. Như vậy, khi đọc kinh Kính Mừng, chúng ta dùng lại lời của Sứ Thần Gabriel và lời của bà Elizabeth để ca tụng Đức Mẹ với lòng cảm mến; và chỉ sau khi ca tụng Mẹ, chúng ta chúng ta mới xin ơn:
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.
Trong lời cầu xin với Đức Mẹ, chúng ta tự nhận mình là “kẻ có tội”. Nếu chúng ta đọc lời này với sự chân thành của con tim, thì chắc chắn Mẹ đã cảm thương chúng ta rồi. Giống như khi còn bé, mỗi khi chúng ta thành tâm nhận lỗi, là cha mẹ đã bao dung và ôm chúng ta vào lòng rồi. Hơn nữa, Mẹ được ban ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, chính là để chăm lo cho chúng ta, bao dung chúng ta, chia sẻ cho chúng ta và cầu bầu cho chúng ta.
Lời cầu xin của chúng ta cũng thật là kín đáo và khiêm tốn. Thật vậy, chúng ta xin Mẹ cầu cho chúng ta, khi nay và trong giờ lâm tử. Kín đáo, vì chúng ta không xin điều gì đặc biệt, chỉ xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta thôi. Khiêm tốn, vì chúng ta ý thức về thân phận phải chết của chúng ta. Khi nay và trong giờ lâm tử, chúng ta đâu có biết còn bao xa, và chúng ta cũng không biết mình sẽ lâm tử như thế nào. Đọc lời nguyện xin này, dù chúng ta đang làm gì, ở độ tuổi nào, gặp khó khăn thử thách ra sao, chúng ta cũng được mời gọi chuẩn bị cho giờ lâm tử. Và chắc chắn, Mẹ không chỉ cầu bầu cho chúng ta, nhưng còn ôm chúng ta vào lòng để đưa chúng ta đi, đi trên đường đời và đi ngang qua sự chết để về Quê Trời, xum họp với Mẹ và những người thân yêu trong Nhà của Thiên Chúa.
Tóm lại, ca tụng rồi mới xin ơn, đó chính là qui tắc mà kinh Kinh Mừng dạy cho chúng ta, khi chúng ta cầu nguyện trong mọi trường hợp. Và để ca tụng, chúng ta được mời gọi ra khỏi mình để nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban cho mình và cho người khác nữa.
3. Đức Mẹ Mân Côi
Chúng ta hãy trở lại nhìn ngắm một lần nữa tràng hạt của chúng ta. Như chúng ta đã nói, tràng hạt Mân Côi có trung tâm là ảnh Đức Mẹ, nhưng ảnh Đức Mẹ lại hướng tới Thập Giá của Đức Ki-tô. Thật vậy, Năm Sự Vui, Năm Sự Sáng, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng, phác họa lại cho chúng ta toàn bộ cuộc đời của Đức Ki-tô, từ lúc được hoài thai trong cung lòng Đức Mẹ, cho đến cuộc Thương Khó, chết trên Thập Giá, và sau đó sống lại và lên trời.
Trong năm phụng vụ, chúng ta có nhiều lễ kính nhớ Đức Mẹ, vì những ân huệ lớn lao Mẹ đã nhận được, chẳng hạn Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ hồn xác lên trời, Đức Mẹ Nữ Vương, hay vì những biến cố đặc biệt trong cuộc đời của Đức Mẹ, chẳng hạn, Sinh Nhật Đức Mẹ, Đức Mẹ Dâng Mình, Lễ Truyền Tin, Đức Mẹ Thăm viếng, Lễ Giáng Sinh, hoặc vì những ơn huệ đặc biệt Đức Mẹ ban cho loài người chúng ta hay cho riêng một Hội Dòng, chẳng hạn Đức Mẹ Phù Hộ, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Dòng Tên.
Nhưng Lễ Đức Mẹ Mân Côi, mà chúng ta mừng kính không chỉ một ngày, nhưng suốt một tháng, có điểm này đặc biệt, so với tất cả các lễ khác: đó là lễ Đức Mẹ Mân Côi tôn vinh sự gắn bó sâu xa và trọn vẹn của Mẹ đối với ngôi vị và cuộc đời của Đức Giêsu, từ lúc ngài được hoài thai trong lòng dạ của Mẹ, cho đến khi Ngài chịu đóng đinh trên Thập Giá, và sau đó Phục Sinh và Lên Trời. Thế mà, tất cả những ơn huệ lớn lao mà Mẹ nhận được đều đến từ tương quan thiết thân của Mẹ với Đức Ki-tô. Thật ra trong lời ca mừng của lời kinh Kính Mừng, chúng ta đã tôn vinh sự gắn bó của Mẹ với Đức Ki-tô rồi, đi đọc: “Con lòng bà gồm phúc lạ”.
Như vậy, khi chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ Mân Côi, là chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ đón nhận Đức Ki-tô vào cung lòng và vào cuộc sống của mình, là chiêm ngắm Đức Mẹ đi theo và gắn bó thiết thân với Đức Ki-tô đến cùng. Và đó cũng chính là ơn gọi Ki-tô hữu của chúng ta: đó là đón nhận Đức Ki-tô, vốn là Đường là Sự Thật, là Sự Sống và là Ánh Sáng vào cuộc đời của chúng ta, vào trong gia đình của chúng ta, vào trong cộng đoàn và Hội Dòng của chúng ta.
* * *
Đức Mẹ cầu bầu, phù hộ và ban ơn cho chúng ta về nhiều phương diện của cuộc sống, nhưng Đức Mẹ đặc biệt chăm sóc, phù hộ chúng ta trong cách thức chúng ta đón nhận, hiểu biết, yêu mến và đi theo Đức Ki-tô đến cùng, và Mẹ phù hộ chúng ta, trước tiên là bằng cách dạy dỗ chúng ta, ngang qua chính đời sống của Mẹ.

13. Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc”)
Trong muôn loài muôn vật Thiên Chúa dựng nên. Chúng ta thấy, không có một tạo vật nào được Giáo hội dành nhiều ưu ái cho bằng Mẹ Maria. Nói đến Mẹ, giáo hội luôn dành cho Mẹ muôn vàn tước hiệu, tước hiệu nào cũng cao quí, cũng đặc biệt. Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ Maria với tước hiệu Mẹ Mân côi. Sở dĩ có ngày lễ hôm nay vì có liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Và đúng như lời “xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời” đã ứng nghiệm, với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Để ghi ơn Đức Mẹ, ĐGH Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi. Tuy nhiên, ngày nay Giáo hội không kêu gọi chúng ta nhớ lại một biến cố xa xưa cho bằng mời gọi chúng ta khám phá ra vị trí của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và nhắc nhở về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống của người tín hữu kitô chúng ta.
Thật vậy, khi chương trình sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa bị tội lỗi con người làm cho đổ vỡ, thì nay Thiên Chúa thay thế bằng một chương trình mới, khởi đi từ một cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa thần sứ Gabriel với cô thôn nữ Maria. Như bao cô gái nhà quê khác, Maria cũng từng ấp ủ những mộng ước, những dự phóng thật bình thường cho đời mình. Nhưng Thiên Chúa đã xen vào, đã khuấy động đời cô và đã làm thay đổi tất cả. Với lời thưa “Xin vâng” thật đơn sơ cô đã trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, và trở nên người đầy ân phúc. Đầy ân phúc không chỉ vì Chúa đã chọn Mẹ, nhưng còn vì Mẹ đã luôn chọn đứng về phía Thiên Chúa, lấy Ý Chúa làm ý của mình, luôn cố gắng để cho chương trình của Ngài thành hiện thực. Mẹ đẹp lòng Chúa không vì những thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với tất cả con người bé mọn của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban. Nhờ đó, Mẹ trở nên như mẫu gương, như người hướng dẫn và như sự nối kết những tâm hồn thành tâm kiếm tìm, lắng nghe và thực thi Thánh Ý của Thiên Chúa.
Do đó, mừng lễ Mân Côi hôm nay, mỗi người trong chúng ta hướng nhìn lên Mẹ Maria, để noi theo Mẹ, chúng ta biết lắng nghe và tuân hành thánh ý Chúa, để như Mẹ, chúng ta vượt qua được những gian nan, thách đố, những lo âu, khắc khoải của dòng đời, để sống tốt lành thánh thiện, sống tươi vui và tử tế với nhau hơn. Muốn được như vậy, giáo hội mời gọi chúng ta hãy đến với Mẹ, hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi như là phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời. Vì lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng lớn lao hơn. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, mà muốn có chiến thắng thì không thể xao lãng việc lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Cho nên, ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Ước gì mỗi người chúng ta hãy thử một lần để nhận ra được giá trị của kinh Mân côi, để khi gặp những khúc quanh, gánh nặng, khổ đau, những lúc mây mù giăng kín cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu xin Mẹ: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử”. Amen.

14. Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
KINH KÍNH MỪNG LỜI KINH CẦU CHO HÒA BÌNH
Một hình ảnh rất truyền thống trình bày Ðức Mẹ Mân Côi, một tay bồng Chúa Giêsu Hài Ðồng, còn tay kia thì trao tràng chuỗi Mân Côi cho thánh Ðaminh. Hình ảnh ý nghĩa này chứng tỏ rằng kinh Mân Côi là một phương thế được Ðức Mẹ ban cho nhân loại qua thánh Đaminh, để nhờ chiêm ngắm và suy niệm về cuộc đời của Chúa, mà yêu mến Chúa và theo Chúa mỗi ngày một trung thành hơn.
1. Kinh Kính Mừng
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”
Đó là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường xuyên đọc nhất là trong tháng Mười. Nhưng nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel khi chào kính Đức Maria lúc truyền tin (Lc1,28). Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần nói, vì có Thiên Chúa ở cùng. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận: ” Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc”. Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy được đầy ơn phúc. Đức Maria là người diễm phúc không chỉ Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, mà Mẹ còn cưu mang Thiên Chúa ngay trong lòng mình nữa.
Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Ê-li-sa-bet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời Giáo hội thêm vào đó lời cầu khẩn Mẹ thương nâng đỡ phù trì “Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời… và trong giờ lâm tử”.
Phụng vụ mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) lại dìu ta về với “Đức Maria đầy ơn phúc”. Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, và Con lòng Mẹ gồm phúc lạ. Thế nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” để tôn vinh Mẹ Maria. Đức Maria là người hạnh phúc vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc, được tuyển chọn để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ Thiên Chúa. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria cũng rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.
Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ: “Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi”. Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn.
2. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng
Chính Mẹ đã dạy chân-phước Alanô: “Bất-cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết”.
Thánh Bênađô nói: “Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ”.
Còn thánh Bônaventura nói: “Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng”.
Theo thánh Montfort “Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị Kinh Kính Mừng, là những người có dấu bị trầm luân Hỏa-Ngục. Không có gì có hiệu-lực được lên Nước Thiên Chúa bằng đọc Kinh Mân Côi”.
Thánh Anphongsô “Nhờ Kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng”.
Kinh Mân côi là kinh chính Ðức Trinh Nữ đã khuyến khích khi hiện ra với Cô Bernardette ở Lộ đức (1858) cũng như trong các lần hiện ra với ba em mục đồng Lucia, Phanxicô và Giaxinta 6 lần từ 13 tháng 5 tới 13 tháng 10 năm 1917. Cả 6 lần Đức-Mẹ đều thúc-dục: “Các con hãy tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày”. Và nhất là: “Các con hãy đọc kinh Mân côi để cầu nguyện cho hòa bình”.
3. Lời kinh cầu cho hòa bình
Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, càng ngày càng gia tăng, khiến ngày mùng 07 tháng 9 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô phải mời gọi cả Hội Thánh ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Syria và những nơi bạo lực đang hoành hành. Lời cầu của Hội Thánh đã được nhận lời, chiến tranh đe dọa Damacus đang qua đi, nhưng tại Trung Đông, Ai Cập, Triều Tiên và cả Thánh Địa xem ra Hòa Binh vẫn vắng bóng. Năm nay, năm 2014, Đức Thánh Cha đã kêu gọi thế giới nhiều lần cầu nguyện cho Irắc, không những kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình tại Israel và Palestin mà còn tổ chức cầu nguyện với nguyên thủ quốc gia cả hai nước. Trong tình hình hiện nay, chỉ biết chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin hòa bình cho thế giới và. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại. Chúng ta hướng về Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, và khẳng định rằng, nơi nào thiếu hòa bình, nơi nào con người tỏ ra bất lực hay không muốn dẹp đi mầm mống thù ghét và chết chóc, thì việc trợ giúp phải đến từ Trời. Chính Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, Ðấng đem chúng ta trở lại với Chúa Cha.
Trước những thế lực mạnh hơn, chúng ta thường cảm thấy bất lực. Khi nghĩ đến sức mạnh của những thế lực trên trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực, chúng ta chỉ biết tin tưởng vào lời cầu nguyện mà thôi, chúng ta tin cậy vào một sức mạnh lớn hơn, là Thiên Chúa. Ðức Maria, như gương mẫu của sự phó thác hoàn toàn cho thánh ý Chúa. Và với tình mẫu tử, Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Kitô, theo dõi chúng ta trên đường đến với Chúa Cha, Ðấng có thể cải hóa và làm cho các tâm hồn con người tùng phục thánh ý của Người.
Vậy kinh Mân Côi càng có lý do hơn nữa để xúc tiến hòa bình, một hoà bình cho tới nay vẫn chưa trở lại. Với lời Mẹ Maria dạy và kinh nghiệm của các thánh về ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta hãy sốt sáng đọc kinh Mân Côi, để cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội, cho quê hương và cho toàn thế giới.
Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con.
Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.

15. Suy niệm của Lm. Đaminh Hương Quất
DÙNG CHUỖI MÂN CÔI ĐỂ CHIẾN THẮNG SỰ DỮ, GÓP PHẦN XÂY DỰNG NÊN HÒA BÌNH THẾ GIỚI
Từ năm 1570, vua Hồi giáo gọi là Selim đã chiến thắng nhiều nơi cướp được nhiều thành, đã dự tính đem quân sang chiếm nước Ý và các nước Tây phương. ĐTC Grêgôriô XIII thấy nguy cơ Hồi giáo đe dọa phương Tậy, liền đứng lên kêu gọi các nước Tây phương đoàn kết để chống địch quân, song kết quả không khả quan, chỉ có Vua Tây Ban Nha hưởng ứng. Mặc dầu quân ít, Ðức Thánh Cha cũng đặt hết niềm tin vào Ðức Mẹ, truyền cho giáo dân siêng năng lần hạt nài xin Mẹ cứu chữa, và đặt tướng Joan là người đạo đức chỉ huy mặt trận. Theo lệnh Ðức Thánh Cha, binh sĩ xưng tội rước lễ trước khi trẩy tàu sang giao chiến, bê bối về tình và về tiền đều bị loại. Ngài còn trao cho tướng quân một lá cờ lớn đã làm phép, thêu hình Thánh Giá, và ảnh Mẹ bế Chúa Con; và phái thêm hai linh mục dòng Phanxicô để khuyên bảo binh sĩ, giải tội, làm các phép bí tích lúc cần.
Tầu chiến của Công Giáo đến vịnh Lê-pan nhằm ngày 7/10/1571, thì gặp tàu địch hãm giữ. Tướng Joan liền kéo cờ Thánh giá lên cao, binh sĩ Công Giáo vừa trông thấy cờ liền đồng loạt cúi đầu kính lạy, kêu tên cực trọng Chúa và Mẹ, nài xin ơn phù giúp rồi đeo tràng hạt vào cổ mà giao chiến. Bên địch có 300 tàu, quân đông nghẹt, lại được xuôi gió, nên cầm chắc chiến thắng trong tay
Nhờ ơn Đức Mẹ Hạm đội Công giáo chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Lépante lạ kỳ, vì so với quân lực, sự hung hãn- hiếu chiến, tính quá khích chiến sĩ Kitô giáo thua xa quân Hồi Giáo.
Ðể tạ ơn Mẹ đã cho chiến thắng vịnh Lê-pan, Ðức Thánh Cha Grêgôriô XIII đã truyền cho vào kinh cầu Ðức Bà câu ” Ðức Bà phù hộ kẻ có đạo, cầu cho chúng tôi”, và lập ra lễ Mân Côi ngày 7/10 hàng năm để ghi nhớ ơn Ðức Mẹ. Kỷ niệm Biến cố này Đức Thánh Cha Piô V đã cho phổ biến lễ Mân côi một cách rộng rãi trong Hội Thánh toàn cầu (sưu tầm)
Đấy là một phần nguồn gốc của Lễ Mân Côi. Mân là tên của một loại ngọc, Côi là một thứ ngọc tốt, ngọc quí lạ. Kinh Mân Côi là “Kinh Ngọc”, là ”chuỗi ngọc Mân và ngọc quí lạ”.
Ngày nay, tại Trung Đông (Irac, Syrya), nhân loại đang trực diện nhóm Hồi giáo Issis qua khích tự xưng Nhà Nước Hồi giáo lộng hành. Ai theo dõi truyền thông sẽ hết sức phẫn nộ trước việc giết người hết sức dã man của nhóm Hồi giáo quá khích này. Họ nhân dân Thiên Chúa- Đấng Alla mà giết người hàng loạt, đó là điều xúc phạm nặng nề đến Chúa; điều cho thấy rõ họ đang lạm dụng danh Thiên Chúa để làm tay sai sự dữ. LHQ đã thống nhất 100% việc nên án nhóm Nhà nước Hồi giáo này. Liên quân gồm nhiều chục nước, đứng đầu là Mỹ đang chiến đấu loại trừ sự dã man của nhóm Hồi giáo quá khích này.
(giữa hai diều xấu không thể tránh, ta có quyền được chon lựa chon cái xấu ít hơn).
Như vịnh Lephan ở thế kỷ 16, vũ khí để chiến thắng nhóm Hồi giáo Isis chính là Chuỗi Mân Côi. Mỗi người chúng ta trong Giáo hội hiệp thông và sứ vụ, hiệp công cùng với mọi người thiện chí trên thế giới hãy dung chuỗi Mân côi để chiến thắng sự dữ, không chỉ nhóm Hồi giáo quá khích Isiss, mà còn ở khắp nơi trên thế giới, bởi ở đâu cũng có sự dữ hiện diện, bất công tồn tại, công lý và sự thật bị chà đạp, nhất là ở những nơi dộc tài chuyên chế, sự sống không được tôn trọng, nhân phẩm con người bị hạ xuống ngan hàng với xúc vật, tệ hơn xúc vật.
Và không nói đâu xa, trong mỗi chúng ta cũng thường xuyên trực diện với cám dỗ sự dữ, và chắc chắn ta cũng đã nhiều lần bị sự dữ đánh gục và nhờ ơn Chúa biết trỗi dậy vì còn tín thác vào lòng Thương xót của Thiên Chúa.
Chuỗi Mân Côi được Mẹ Thiên Chúa trao cho Thánh Đaminh lưu truyền như là phương dược tuyệt vời để chũa lành vết thương tâm hồn; sóng gió gia đình, nhất là chiến thắng sự dữ mà kẻ cầm đầu là ma quỷ. Đức Mẹ đảm bảo chắc chắn phần thưởng Thiên đàng cho những ai biết siêng năng lần chuỗi Mân côi, để cùng Mẹ Maria đến với Thiên Chúa.
Năm 1917, nhiều lần Mẹ Thiên Chúa đã hiện ra với ba trẻ nhỏ làng Fatima: Luxia, Phanxico và Giaxinta và trao cho ba trẻ sứ điệp từ trời: ăn năn đền tội, đổi mới cuộc sống- tôn sùng Mẫu Tâm- năng lần hạt Mân Côi.
Hàng ngày, khi lần chuỗi Mân Côi, chúng ta cùng Mẹ Maria sống lại những biến cố quan trọng cuộc đời của Chúa Giêsu từ Nhập thể- Nhập thế và chết trên cây Thánh giá, sống lại và lên trời.
Tin Mừng hôm nay, biến cố Truyền tin đưa ta chiêm ngắm- sống lại biến cố đầu tiên trong hành trình Thiên Chúa làm người: Ngôi Lời Nhập Thể.
Trong biến cố Truyền tin này, ta thấy nổi bật Đức Vâng Lời theo ý Chúa của Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha nên đã Nhập Thể làm người, bước vào một bước ngoặc mới, như thánh Phaolô nóiThánh Phaolô quả quyết ‘Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hành với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn chút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế’ (Pl 2,6-7).
Đức trinh nữ Maria “này tôi là tôi tá Chúa, xin Vâng như lời Sứ Thần truyền”. Tiếng ‘xin vâng’ đưa Mẹ đên một bước ngoạc mới: Từ một thôn nữ đạo đức, quyết sống đời tận hiến cho Chúa giờ trở nên làm Mẹ Chúa Giêsu.
‘Xin vâng’ đấy là phương cách sống chứng nhân Tin Mừng ta học nơi Chúa Giêsu và Mẹ Maria để nên thánh.
Ơn gọi chung của mọi Kitô hữu là nên Thánh trong những bậc sống của mình. Cuộc sống con người được dựng nên theo Hình ảnh Thiên Chúa, nhất là người môn đệ theo Chúa Giêsu chỉ có ý nghĩa giá trị khi ta biết nên Thánh. Chỉ tìm được bình an- phúc thật khi ta biết nên Thánh.
Và như vậy, nhờ nên Thánh, hành trình vác thập giá theo Chúa Giêsu là hành trình Tin Mừng chứ không phải tin buồn; nhờ nên Thánh không phải đợi đên đời sau, mà ngay ở đời này ta đã được nêm phúc Thiên đàng.
Lạy Mẹ Maria, trong tháng Mân côi, xin cho chúng con, gia đình chúng con biết lần chuỗi Mân Côi. Chúng con xin trao dâng Mẹ Năm Thánh Giáo phận, Thượng Hội động thế giới về gia đình đang diễn họp.
Xin Mẹ chúc lành và giúp chúng con. Amen.

16. Xin Vâng
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Hai tiếng “Xin Vâng” thật đơn sơ nhỏ bé, nhưng lại có ảnh hưởng lớn lao.
Trước hết hai tiếng “Xin Vâng” có ảnh hưởng tới chương trình của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho loài người. Nhưng để chương trình ấy thành công, cần có sự tham gia, đồng thuận, vâng phục của con người. Chúa muốn con người được hạnh phúc. Nhưng nếu con người từ chối, Thiên Chúa không thể ban hạnh phúc cho con người. Chương trình đầu tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà nguyên tổ không vâng lời Chúa. Ông bà nguyên tổ đã nghe ma quỷ hơn nghe Chúa. Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý riêng hơn làm theo ý Chúa. Trái lại Đức Mẹ đã tham gia, đã đồng ý, đã vâng phục, nên chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Kế hoạch cứu độ loài người của Thiên Chúa nhờ hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ mà thành công.
Hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ vọng lại hai tiếng “Xin Vâng” của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Vì vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã vui lòng xuống thế làm người. Hôm nay, khi Đức Mẹ nói tiếng “Xin Vâng” với thiên thần, Đức Giêsu cũng nói “Xin Vâng” với Đức Chúa Cha. Với hai tiếng “Xin Vâng”, Đức Mẹ khai thông chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Sau hai tiếng “Xin Vâng”, Ngôi Hai xuống thế làm người, tượng thai trong lòng Đức Mẹ.
Hai tiếng “Xin Vâng” có ảnh hưởng tới cả cuộc đời
Hai tiếng “Xin Vâng” nghe thật bé nhỏ, khiêm tốn, nhưng ảnh hưởng tới cả cuộc đời Đức Giêsu và Đức Mẹ. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã từ trời xuống thế, như lời thánh vịnh: “Máu chiên bò, Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu, Chúa không nhận. Thì này Con đến để làm theo ý Cha”. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã chấp nhận con đường bé nhỏ, khiêm nhường. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu vui lòng chịu chết, chết nhục nhã trên cây thánh giá: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý Con, chỉ xin vâng ý Cha mà thôi”.
Cũng vậy, khi nói tiếng “Xin Vâng” với thiên thần, Đức Mẹ ràng buộc tất cả đời mình vào chương trình của Thiên Chúa. Vì xin vâng mà phải sinh con trong hang đá nghèo nàn. Vì xin vâng mà phải trốn chạy sang Ai Cập. Vì xin vâng mà chấp nhận lời tiên tri Simêon: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim bà”. Vì xin vâng mà theo Đức Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo. Vì xin vâng mà phải đứng dưới chân thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ nhục với con, dường như cùng chết với con vậy.
Như thế, để nói tiếng “Xin Vâng” với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ đã phải nói “không” với chính mình. Để một lần nói “Xin Vâng với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ phải nhiều lần nói “không” với chính mình. Tiếng “Vâng” lớn thành hình nhờ những tiếng “không” nhỏ bé. Ý Chúa được thể hiện nhờ biết bỏ ý riêng. Chương trình lớn thành công nhờ những hy sinh bé nhỏ âm thầm.
Khi tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương trình cho mỗi người chúng ta. Đó chính là chương trình tốt đẹp nhất. Nhưng nếu ta không cộng tác, thì chương trình ấy không thực hiện được. Để chương trình của Chúa được thực hiện, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nói tiếng “Xin Vâng” với Chúa. Hãy biết bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Hãy biết bỏ chương trình riêng để đi vào chương trình của Chúa. Hãy xin vâng khi vui. Hãy xin vâng khi buồn. Hãy xin vâng khi hạnh phúc. Hãy xin vâng khi đau khổ. Hãy noi gương Đức Mẹ, xin vâng trong ngày truyền tin vui tươi, và xin vâng cả khi đứng dưới chân thập giá đau buồn. Xin vâng từng giây phút trong cuộc đời. Khi chương trình của Chúa được thực hiện, ta sẽ được hạnh phúc và đem hạnh phúc cho những người chung quanh ta.
Lạy Mẹ, xin dạy con hai tiếng “Xin Vâng” như Mẹ. Amen.

17. Suy niệm của Đức Cha GB. Bùi Tuần
Tháng Mân Côi và NHỮNG BÔNG HỒNG NGOẠI
Hằng năm, tháng 10 là thời gian Hội Thánh dành riêng để tôn kính Đức Mẹ. Cách tôn kính truyền thống trong tháng này là cầu nguyện theo kinh Mân Côi.
Năm nay, thời cuộc gợi ý cho tôi tôn kính Đức Mẹ trong tháng Mân Côi này một cách hơi độc đáo. Đó là dâng lên Mẹ những bông hồng thiêng hái từ vùng đất ngoài công giáo.
Xưa, nhiều người ngoại đạo đã được Chúa Giêsu khen ngợi vì họ ngoại đạo mà sống đạo rất tốt. Thực là phải lẽ, nếu coi những người ấy là những bông hồng ngoại trong Nhà Chúa.
Nay, nhiều người ngoại đạo cũng rất đáng được khen ngợi, vì họ sống Phúc Âm còn tốt hơn người công giáo. Chúng ta nên coi họ là những bông hồng ngoại trong Nước Trời.
Ở đây, tôi chỉ nêu lên vài trường hợp người ngoại, mà Chúa Giêsu đã khen, và tôi gọi là bông hồng ngoại. Từ đó mỗi người chúng ta sẽ nhận ra những người ngoại giống như họ đang sống xung quanh ta. Tìm ra rồi, ta sẽ cùng Đức Mẹ dâng những bông hồng thiêng đó lên Chúa với lòng cảm tạ ngợi khen.
1/ Bông hồng ngoại toả hương thơm đức tin
Phúc Âm thánh Matthêu kể: “Khi Đức Giêsu vào thành Caphácnaum, có một viên đại đội trưởng đến gặp Ngài và nài xin: ‘Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm’. Chúa Giêsu nói: ‘Chính tôi sẽ đến chữa nó’. Viên đại đội trưởng đáp: ‘Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi sẽ được khỏi bệnh. Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: Đi, là nó đi, bảo người kia: Đến, là nó đến, bảo người nô lệ của tôi: Làm cái này, là nó làm’. Nghe vậy, Đức Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Ngài rằng: ‘Tôi bảo thật các ông, tôi không thấy một người Ítraen nào có lòng tin như thế. Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Còn con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng vào chỗ tối tăm bên ngoài. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng’. Rồi Đức Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng: ‘Ông cứ về đi. Ông tin thế nào thì được như vậy’. Và ngay giờ đó, người đầy tớ ông được khỏi bệnh” (Mt 8,5-13).
Trong câu chuyện trên đây, chính Chúa Giêsu đã tôn vinh đức tin viên sĩ quan ngoại giáo. Một đức tin khiêm tốn, một đức tin đơn sơ, một đức tin mạnh mẽ vững bền.
Đức tin như thế vẫn nhận thấy hiện nay nơi nhiều người ngoài công giáo. Họ có thể là những người quyền quý. Nhưng phần đông họ sống cảnh nghèo, bệnh tật. Có người như chìm sâu dưới đáy vực thẳm thất vọng hoặc trong đường hầm tăm tối. Nhưng một số người trong họ vẫn can đảm phấn đấu. Sau cùng họ đã tìm được lối thoát. Nhờ niềm tin vào Đức Mẹ.
Họ biết rất sơ sài về Đức Mẹ. Nhưng họ tin tuyệt đối vào Đức Mẹ. Tôi nghĩ là chính Đức Mẹ đã ban cho họ niềm tin. Niềm tin ấy ví tựa cây hoa hồng, mà Đức Mẹ gieo trồng và chăm sóc. Chúng ta hãy đứng bên họ, để cùng họ ca ngợi tình Mẹ xót thương.
2/ Bông hồng ngoại toả hương thơm đức ái
Trong Phúc Âm thánh Luca, khi nêu gương sáng về bác ái, Chúa Giêsu đã chọn một người ngoại giáo. Người đưa ra dụ ngôn với những chi tiết cụ thể.
Một người bị bọn cướp trấn lột, bị trọng thương, nằm bất động bên vệ đường. Mấy vị chức sắc tôn giáo đi qua, nhìn thấy cảnh đó, nhưng bỏ đi. Sau cùng, một người ngoại đạo cỡi ngựa đi qua, thấy vậy, đã xuống ngựa, và chăm sóc cho nạn nhân một cách rất chu đáo (x. Lc 10,30-35).
Hồi đó, dụ ngôn trên đây có lẽ đã làm buồn lòng những người theo đạo Chúa, vì Chúa Giêsu không tìm gương bác ái nơi họ, mà lại đưa một người ngoại để làm gương.
Thời nay, tình hình có khác. Người có đạo vốn coi việc thực thi bác ái là bổn phận căn bản của đạo. Nhưng không vì thế, mà khẳng định được rằng: Trên thực tế, mọi người công giáo, mọi miền công giáo, đều nêu gương sáng về bác ái.
Phải thành thực mà nhận rằng: Hương thơm bác ái đã và đang toả ra một cách rõ ràng và hấp dẫn từ nhiều cá nhân, nhiều nhóm, nhiều tổ chức ngoài công giáo.
Không thiếu người kể cả người công giáo, tại Việt Nam hôm nay, dám làm chứng rằng: Trong nhiều trường hợp khó khăn, họ đã nhận được tình yêu thương giúp đỡ từ những người ngoài công giáo. Họ tưởng mình đã bị loại trừ, nhưng họ đã gặp được những cái nhìn, những bàn tay, những tình nghĩa chân thành cứu họ từ một thế giới không phải là công giáo.
Riêng tôi, tôi nhìn những chứng nhân bác ái đó là những bông hồng thơm đẹp. Thời nay việc bác ái là cách sống đạo có sức thuyết phục. Chúng ta hãy cùng Đức Mẹ mà dâng họ lên Chúa là nguồn tình yêu.
3/ Bông hồng ngoại toả hương thơm biết ơn
Phúc Âm thánh Luca thuật lại rằng: “Lúc Chúa Giêsu vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: ‘Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!’ Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: ‘Hãy đi trình diện với các tư tế’. Đang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari. Đức Giêsu mới nói: ‘Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17,12-18).
Biết ơn là một đức tính nhân bản rất được tôn trọng khắp nơi. Riêng tại Việt Nam, lòng biết ơn được coi như một yếu tố tôn giáo truyền thống.
Biết ơn phải được thực hiện bằng những việc cụ thể, với những nhân tố cụ thể.
Mọi người công giáo Việt Nam hôm nay đều ý thức điều đó và cố gắng thực thi điều đó. Nhưng, biết đâu lời Chúa Giêsu phiền trách xưa vẫn còn đúng một cách nào đó nơi này người nọ tại Hội Thánh ta.
Trái lại, lòng biết ơn lại là một thứ bông hồng thơm đẹp dễ gặp được ở nhiều người ngoại đạo. Chính vì thế, mà chúng ta sát lại bên họ, để hiệp thông, và để cùng Đức Mẹ cảm tạ Thiên Chúa là Cha chung mọi người.
Tới đây, chắc mọi người đã hiểu được ý hướng của tôi về tháng Mân Côi năm nay. Hình thức vẫn như cũ. Nhưng tinh thần thì mở rộng ra. Mục đích để chúng ta gần lại các người ngoài công giáo với tinh thần trân trọng khiêm tốn. Thời sự hiện nay mời gọi chúng ta thực thi điều đó.

18. Kinh Mân Côi
LỜI KINH CỦA QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC
Trong một vài phút ngắn ngủi này tôi muốn trình bày về ảnh hưởng của kinh Mân côi đối với quê hương đất nước. Trước hết tôi xin đưa ra một vài biến cố lịch sử
Biến cố thứ nhất đó là cuộc chiến thắng tại Lépante.
Vào năm 1571 dưới thời Đức Thánh Cha Piô V, vua Sélim nước Thổ nhĩ kỳ đem quân thôn tính Âu châu, trước tai họa thảm khốc này, Đức Thánh Cha một mặt liên kết các quốc gia Âu châu, một mặt kêu gọi mọi người ăn chay cầu nguyện và nhất là lần hạt Mân côi.
Chính nhờ kinh Mân côi, đoàn quân ô hợp của các nước công giáo đã chiến thắng đoàn quân tinh nhuệ của Thổ nhĩ kỳ tại Lépante. Và để tạ ơn Mẹ Maria, Đức Thánh Cha đã thiết lập ngày lễ Mân côi hôm nay.
Biến cố thứ hai là trường hợp của Bồ Đào Nha.
Bồ Đào Nha là một quốc gia đạo đức và sùng kính Đức Mẹ. Thế nhưng đã rơi vào tay bọn Tam điểm từ năm 1910. Trong suốt 16 năm nắm chính quyền, họ đã gây nên biết bao cảnh xáo trộn lầm than. Nào là giết chết các linh mục tu sĩ., phá hủy các dòng tu, cướp bóc các cơ sở từ thiện của Giáo hội. Cũng trong thời gian ấy đã xảy ra tất cả 16 lần đảo chánh, 45 lần thay đổi chính phủ và tiền nợ nước ngoài lên tới hai tỷ mỹ kim.
Thế nhưng, vào năm 1917, Đức mẹ đã hiện ra tại Fatima và đã hứa với ba em nhỏ:
– Bồ Đào Nha sẽ giữ vững được đức tin.
Và sự thật đã xảy ra như thế. Dân công giáo Bồ Đào Nha đã vùng lên, đập tan xiềng xích của bọn Tam điểm, lòng đạo đức được phục hồi và ngày 12. 6. 1925 chính phủ và toàn thể nhân dân Bồ Đào Nha đã long trọng dâng kính đất nước mình cho Mẹ Fatima.
Sau cùng là trường hợp của Tây Ban Nha.
Cũng vậy, Tây Ban Nha là một quốc gia đạo đức nhưng đã bị rơi vào tay những kẻ chống đối tôn giáo. Dưới sự hướng dẫn của tướng Franco một mặt trận giải phóng được thành lập và mãi tới năm1939 mới lật đổ được chính quyền.
Ông đã tiết lộ như sau:
– Chúng ta đã nắm được những tài liệu của kẻ thù cho hay: họ định triệt hạ các thánh đường, biến đất nước chúng ta trở thành một quốc gia không còn tôn thờ Thiên Chúa nữa.
Qua những sự kiện lịch sử ấy, chúng ta thấy Mẹ Maria luôn sẵn sàng can thiệp để giúp đỡ mỗi khi chúng ta gặp phải khó khăn và thử thách. Phương thế mẹ muốn chúng ta sử dụng đó là kinh Mân côi, như lời mẹ tỏ lộ tại Fatima:
– Thế chiến lần thứ nhất sắp kết thúc, nhưng nếu người ta không lo cải thiện đời sống, tôn sùng trái tim Mẹ và lần hạt Mân côi thì rồi chiến tranh sẽ lại bùng nổ một cách tàn khốc hơn.
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta không khỏi bi quan khi nhận thấy rằng:
– Bất công và bạo động, hận thù và đàn áp đang xảy ra khắp nơi, những chiếc ngòi của một cuộc chiến tranh thảm khốc vẫn sẵn sàng bùng nổ. Rồi nghèo đói, bệnh tật và những tệ nạn xã hội luôn liên tục phát triển, không một phần đất nào mà lại không có.
Riêng tại Việt Nam, mặc dù hòa bình đã trở về trên quê hương chúng ta gần ba chục năm rồi, thế nhưng vẫn còn biết bao nhiêu khó khăn cần phải tháo gỡ, biết bao nhiêu vấn đề cần phải giải quyết nhất là về phương diện kinh tế và đạo đức.
Chiến tranh như một cơn ác mộng đã qua đi, nhưng hậu quả đắng cay và nghiệt ngã của nó vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Bởi đó, là người dân Việt Nam, chúng ta phải cố gắng góp phần vào việc phát triển đất nước bằng chính công sức lao động sản xuất của mình. Tuy nhiên, là người tín hữu, chúng ta còn có những phương thế siêu nhiên. Và một trong những phương thế siêu nhiên đó là sự cầu nguyện. Đồng thời, một trong những cách thức cầu nguyện đắc lực và hiệu nghiệm hơn hết, đó chính là kinh Mân côi.
Bởi vậy, hãy dâng lên Mẹ những lời kinh Mân côi sốt sắng để xin mẹ nâng đỡ và phù trợ cho đất nước Việt Nam, quê hương yêu dấu của chúng ta.

19. Mẹ Mân Côi – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Có một gia trưởng trẻ, trước đây, anh ta rất ít đi lễ, nếu có đi lễ, anh cũng thường đứng dưới góc sân nhà thờ. Gần đây, anh ta có dấu hiệu thay đổi, anh thường xuyên đi lễ và sau lễ còn đứng lại viếng Đức Mẹ rất lâu. Cha ngạc nhiền hỏi sở lấy làm thăm anh: Gia đình có chuyện gì mà thời gian gần đây thấy anh đi đễ và viếng Đức Mẹ sốt sắng quá? Anh trả lời: Thưa cha, con đi Tapao và được thấy Đức Mẹ. Từ đó đến nay, mỗi tháng con đều đi Tapao vào ngày mười ba trong tháng. Ngày nào vợ chồng con trước khi đi ngủ cũng lần chuỗi. Hôm nào chưa lần chuỗi thì con không thể ngủ được. Sau khi nghe anh kể, cha sở suy nghĩ: Không biết anh có nhìn thấy Đức Mẹ thật hay không, nhưng việc anh thay đổi một cách nhanh chóng như thế quả là một phép lạ Đức Mẹ đã thực hiện trên cuộc đời của anh. Ai cũng ngạc nhiên khi thấy anh từ một người hờ hững trở thành một người sốt sắng, từ một người dửng dưng với giáo xứ, nay trở thành một tông đồ nhiệt thành.
Trong lịch sử Giáo hội đã có biết bao người nhận được ơn biến đổi cũng như những phép lạ từ Đức Maria qua tràng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân côi là lời kinh đơn sơ, bình dân, ai cũng có thể thuộc và có thể đọc ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và cũng là lời kinh đem bao nhiêu ơn Chúa và phép lạ đến cho người tín hữu. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II là một bằng chứng về sự can thiệp của Mẹ Maria. Ngài hết lòng yêu mến Đức Mẹ và yêu mến việc lần chuỗi Mân Côi. Ngài cổ vũ và mời gọi mọi người cùng đọc kinh Mân Côi. Chính Ngài đã thiết lập thêm Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Mân Côi để mọi người cùng suy gẫm.
Có một biến cố lớn trong cuộc đời của Ngài liên quan đến Đức Mẹ mà chúng ta không thể quên. Đó là vào ngày 13/5/1981, ngày lễ Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Trong khi Đức Thánh Cha chào thăm khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, thì một loạt đạn đã bắn vào Ngài. Đức Thánh Cha ngã xuống, cả quảng trường Thánh Phêrô rung động bởi tiếng khóc và lời kinh Mân Côi. Thật là phép lạ khi các viên đạn chỉ cách trái tim của ngài vài centimet. Mọi người đều tin rằng, đó là nhờ sự che chở của Đức Mẹ,
Ai đã đến các trung tâm hành hương Đức Mẹ, sẽ thấy rõ lòng yêu mến của người tín hữu dành cho Mẹ. Biết bao người đã được ơn của Đức Mẹ, trong đó có cả những người không phải là Kitô hữu. Điều đó cho thấy rằng, Đức Maria thực sự là người Mẹ thiêng liêng của tất cả mọi người. Nếu trong đời sống thường ngày, mỗi khi gặp khó khăn, chúng ta chạy đến với mẹ của mình, thì trong đời sống đức tin cũng vậy, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ Maria, chắc chắn Mẹ không bao giờ từ chối chúng ta.
Mẹ là Đấng quyền thế trước mặt Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn dâng trọn cuộc đời cho chương trình cứu độ của Chúa. Mẹ không tiếc gì với Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa cũng không tiếc gì với Mẹ. Vì được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và gìn giữ, Mẹ trở nên như bông hoa trinh trong trước toà Thiên Chúa. Trong ngày sứ thần truyền tin, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Mẹ, đã mời Mẹ cộng tác vào chương cứu chuộc của Thiên Chúa. Mặc dù không hiểu hết ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Mẹ vẫn sẵn sàng xin vâng để cho Thiên Chúa thực hiện.
Câu chuyện truyền tin cho thấy, Sứ thần Gabriel hết sức cung kính khi gặp Mẹ. Sứ Thần đã chào Mẹ: Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Điều đó nói lên rằng, Mẹ là người luôn được sống trong ân phúc của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã nhìn đến Mẹ ngay từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ trong trắng tuyệt vời và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa là Đấng Thánh, Ngài cư ngụ ở nơi thánh và nơi nào Ngài cư ngụ, Ngài sẽ làm cho nó nên thánh. Điều đó thật đúng nơi Đức Maria. Vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ, nên Ngài đã biến tâm hồn và con người của Mẹ nên đền thánh của Ngài. Trong biến cố truyền tin, Thiên Chúa đã hết sức tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài đã sai Sứ Thần hỏi ý kiến Mẹ, để chọn cung lòng Mẹ làm nơi cho Con Thiên Chúa làm người.
Dù không hiểu hết những gì sẽ xảy ra, không hiểu việc mang thai và sinh con sẽ như thế nào, tương lai sẽ ra sao, nhưng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã sẵn sàng thưa xin vâng: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền. Mẹ đã khiêm tốn để cho Thiên Chúa sử dụng trọn cuộc đời của mình, Mẹ đã dâng cho Chúa cung lòng mình làm nơi cho Con Thiên Chúa cư ngụ.
Kể từ khi thưa tiếng xin vâng, cuộc đời của Mẹ bước qua giai đoạn mới, đó là giai đoạn phục vụ Chúa Cứu Thế, cũng là người con bé nhỏ trong bụng Mẹ. Với một người mẹ bình thường thì công sinh dưỡng là trời bể. Mẹ thì không dám kể công sinh dưỡng Đấng Cứu Thế, nhưng chắc chắn, Chúa Cứu Thế sẽ không thể quên công ơn trời biển này được. Vì thế, lời chuyển cầu của Mẹ quả là có thần thế trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa không thể từ chối lời Mẹ khẩn xin.
Lời kinh Kính Mừng Maria là lời Giáo hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng Mẹ, cũng đồng thời là lời tán dương Thiên Chúa về sự kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời Mẹ. Do đó, Kinh Kính Mừng là lời kinh phù hợp nhất, tốt đẹp nhất mà cả Giáo hội tạ ơn Thiên Chúa và chiêm ngắm những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ.
Tràng chuỗi Mân Côi là sự tóm kết tất cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua từng biến cố, trong đó, Mẹ Maria là cộng tác viên đắc lực của Chúa. Khởi đầu từ màu Nhiệm Nhập thể, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Đức Maria được chia sẻ vào niềm vui vì ơn cứu độ đã được thực hiện. Niềm vui ấy được đầy tràn trong tâm hồn Mẹ, vì Mẹ đã đón nhận Đấng Cứu Thế, đã sinh hạ Con Thiên Chúa, được bồng ẵm Ngài trên tay và nuôi dưỡng Ngài bằng dòng sữa của Mẹ. Mẹ Maria âm thầm theo Chúa suốt hành trình truyền giáo như một người môn đệ. Những lúc Chúa thành công, được nhiều người ca tụng, Mẹ chỉ đứng lẫn vào đám đông như mọi người. Nhưng khi Chúa Giêsu gặp thất bại, bị người đời chống đối, Mẹ Maria đã đứng ra như một người Mẹ, hết sức can đảm để hiện diện và an ủi Chúa Giêsu. Đặc biệt trong hành trình thập giá, khi mọi người gào thét tìm cách giết Chúa, các môn đệ bỏ trốn, thì một mình Mẹ đã theo Chúa đến chân thập giá để cùng chia sẻ và đón nhận đau khổ của Chúa vào tâm hồn Mẹ.
Vì theo sát Chúa trên hành trình thập giá, nên trong ngày vinh quang phục sinh, Mẹ cũng chính là người được hưởng niềm vui và ơn phúc Phục sinh đầu tiên từ Chúa Giêsu, con của Mẹ. Mẹ đã hiện diện trong nhà Tiệc ly với các tông đồ như người Mẹ của Giáo hội và cũng là người tín hữu, để cùng cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống. Với cả một cuộc đời trung thành trọn vẹn với Chúa trong lời thưa Xin vâng, Thiên Chúa đã trọng thưởng cho Mẹ đặc ân được đưa về trời cả hồn và xác trước thời hạn, và còn tặng ban cho Mẹ vinh dự làm Nữ Hoàng Thiên Quốc, để Mẹ tiếp tục cầu bầu cho Giáo hội và cho mỗi chúng ta.
Mừng lễ Đức Maria Mân Côi hôm nay, chúng ta cùng với Mẹ tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm cộng tác viên của Ngài và còn trao ban cho Mẹ vinh quang và danh dự, để từ nơi toà thiên Chúa, Mẹ vẫn tiếp tục che chở chúng ta. Tin tưởng như thế, để mỗi người hãy cầm lấy tràng chuỗi Mân Côi để ca tụng Chúa và khấn xin Đức Mẹ che chở chúng ta trên hành trình dương thế này. Đừng bao giờ nghĩ kinh Mân Côi là nhàm chán, cũng đừng cho đó là lời kinh của người già, nhưng Kinh Kính Mừng là lời kinh thích hợp cho tất cả mọi người và là lời kinh hiệu quả nhất cho mọi lời cầu xin.
Khi đọc Kinh Kính Mừng là chúng ta tin tưởng chạy đến với Thiên Chúa qua Mẹ Maria, chúng ta nại đến lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa và công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Do đó, Thiên Chúa không thể không đón nhận lời Mẹ chuyển cầu cho chúng ta. Hãy chuyên chăm đọc Kinh Kính Mừng mỗi ngày, Mẹ sẽ chỉ cho chúng ta biết noi gương Mẹ sống đẹp lòng Chúa. Kinh Kính Mừng sẽ đem lại cho các gia đình sự bình an, êm ấm, sẽ xua tan sự dữ và ma quỷ trong gia đình, vì có Chúa và Đức Mẹ hiện diện, thì không có ma quỷ hay sự dữ nào có thể làm hại chúng ta được. Amen.

20. Lá sầu riêng – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất, cao cả nhất. Nếu không có tình mẹ, có lẽ chúng ta khó có thể cảm nghiệm được thế nào là một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không một toan tính ích kỷ nhỏ nhoi nào. Tình mẹ là một tình yêu vô vị lợi, sống hết mình vì con. Ca dao đã nói rất nhiều về những hy sinh của mẹ như:
“Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn”.
Và rồi khi trái gió trở trời, lòng mẹ cũng quặn đau vì con:
“Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi”.
Có lẽ chúng ta đều biết đến câu chuyện “Lá sầu riêng” của sân khấu cải lương đã từng trình diễn. Đó là câu chuyện thật cảm động về tình thương của người mẹ hết mình vì tương lai và hạnh phúc của con. Truyện kể về một người mẹ nhà quê, nghèo nàn. Cuộc đời cơ cực với cảnh mẹ goá con côi. Cuộc sống bữa no bữa đói, khiến bà lo sợ cho tương lai của đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia đình giầu có trong làng, và rồi bà tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm sóc nó với tư cách là một vú nuôi. Năm tháng trôi qua, khi bà đã già yếu, và đứa con do tay bà chăm sóc đã thành danh giữa đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con biết sự thật về nguồn gốc của nó, và chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có một người mẹ đã quên cả bản thân mình để lo cho con. Bà nghĩ rằng, lúc đó những giọt nước mắt sung sướng của hai mẹ con nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc thay, điều đó đã không xảy ra! Đứa con không chấp nhận sự thật ấy. Nó đã xua đuổi bà. Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó sợ điều này sẽ ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp nó ở đời. Thay cho những giọt nước mắt sung sướng là những giọt nước mắt tủi nhục đắng cay. Bà đã thốt lên trong tiếng nấc nghẹn ngào: “Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?”.
Tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Tình thương của người Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con đã không nhìn nhận sự trợ giúp của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của con.
Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: “Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ – Năm canh dài thức trọn năm canh”.
Thế nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không? Nếu vui tại sao mỗi khi Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm ngâm, đều lo lắng cho sự an nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay trở về. Phải chăng mẹ cũng đang đau khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng ở đời, vì vinh hoa phú quý mà đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản “lá sầu riêng” đang diễn tả nỗi lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang bảo chúng ta: “Con ơi! Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà con đã vội quên tình mẹ? Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế mau qua mà con đã từ chối mẹ sao? Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con”.
Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi lầm của mình. Xin giúp chúng ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Amen.

21. Nhớ lời Đức Mẹ nhắn nhủ
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Quan sát những gì đang xảy ra trong thế giới hôm nay, chúng ta nhận thấy điều gì? Tội ác gia tăng. Cá nhân cũng nhiều và tập thể cũng không ít. Đạo đức ngày một suy thoái dẫn đến một đời sống của giới trẻ suy đồi trầm trọng. Khoa học tiến bộ thực sự nhưng dường như lại tiếp tay cho sự ác hoành hành. Nguy cơ giết người hàng loạt luôn ở mức báo động cao. Con người hôm nay đang tự hủy chính mình và hủy hoại cuộc đời nhau bằng nhiều phương tiện rất tối tân và hiện đại. Trong suốt thời gian qua, công an đã tịch thu hàng ngàn, hàng triệu viên thuốc lắc tổng hợp đang được giới trẻ buôn bán, chuyền tay nhau. Kẻ có tiền thì tìm đến để rửa tiền, để sống thác loạn, nhằm thỏa mãn thú tính của mình. Kẻ không có tiền thì buôn bán trao đổi nhằm vun quén những đồng tiền bất chính. Nhiều gia đình đang có nguy cơ tan rã vì chẳng ai tin tưởng nhau, chẳng ai chịu nhường nhịn nhau. Quyền uy của cha mẹ trong gia đình đang lu mờ dần. Câu phong dao “chồng xướng vợ tùy” dường như đã không còn. Sự ác xem ra đã thắng sự thiện. Người ta vì tiền, vì tình và vì danh vọng mà sẵn sàng làm tay sai cho ma quỷ, bán linh hồn mình cho quỷ dữ sai khiến, miễn sao mình có được những danh lợi thú trần gian.
Trước viễn cảnh bi đát của thế giới, những ai có đạo đức không khỏi những lo âu trăn trở. Làm sao cứu được thế giới khỏi sự diệt vong bởi suy đồi đạo đức? Làm sao đẩy lùi sự ác ra khỏi thế gian?
Phải chăng lịch sử của những năm đầu thế kỷ 20 đang được lặp lại nơi những năm đầu thế kỷ 21 này? Nếu đúng vậy thì những thị kiến mà Đức Mẹ Fatima đã cho ba 3 trẻ nhỏ được xem thấy cũng đang lập lại trong thế giới hôm nay! Thị kiến đó đã được chị nữ tu Lucia kể lại như sau:
“Đức Mẹ cho chúng con thấy một biển lửa lớn lao xem ra như là nằm dưới lòng đất. Nhào lặn trong biển lửa này là các quỉ dữ và các linh hồn mang hình dạng con người, giống như những cục than hồng đang cháy trong suốt, tất cả đều đen đủi hay mầu đồng đánh bóng, đang vật vờ trôi nổi giữa vùng hỏa hoạn, lúc thì bị tung lên không trung do những ngọn lửa hồng phát ra tự chính bản thân họ cùng với những đám khói khổng lồ, lúc thì té xuống tứ phía như những đốm lửa trong một biển lửa vĩ đại, không trọng lượng cũng chẳng thăng bằng, và giữa những tiếng la hét và rên siết của đau đớn và tuyệt vọng làm chúng con kinh hoàng và khiến chúng con run rẩy vì sợ hãi.
Rồi chúng con nhìn lên Đức Mẹ, Ngài đã nói với chúng con bằng một giọng rất êm đềm và buồn bã:
“ Chúng con đã nhìn thấy hỏa ngục nơi các linh hồn của những tội nhân khốn nạn phải tới. Để cứu vớt họ, Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới việc tôn sùng Trái-tim Vô-nhiễm Nguyên-tội của Mẹ.
Thực vậy, những lần Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, hay tại Fatima, Đức Mẹ đều báo trước những tai hoạ khủng khiếp sẽ xảy ra do tội lỗi chồng chất của thế giới gây nên. Và để làm nhẹ đi những tai hoạ này, Đức Mẹ nhắn bảo các con cái Mẹ hai điều:
Một là hãy siêng năng cầu nguyện bằng kinh Mân Côi
Hai là hãy ăn năn sám hối.
Nhưng xem ra nhiều người vẫn coi thường lời cảnh báo. Họ không những chẳng cầu nguyện mà còn coi thường việc cầu nguyện. Có những người cầu nguyện nhưng lại đòi Thiên Chúa làm theo ý mình chứ không phải là cầu nguyện để tìm ra ý Chúa. Có những người cầu nguyện nhưng lại không cải thiện đời sống. Họ cầu nguyện nhưng vẫn chất chứa trong lòng biết bao mối tội đầu như: dâm ô, ghen ghét, gian dối và kiêu căng tự mãn.
Cầu nguyện thường đưa đến sự cải thiện đời sống. Vì cầu nguyện là đỉnh cao của đời sống đức tin. Tin vào Thiên Chúa. Người có đức tin tất sẽ ăn ngay ở lành. Họ sống và làm việc dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Họ không thể sống phật ý Thiên Chúa hay đi ngược với giới răn và giáo huấn của Chúa.
Hệ quả của cầu nguyện không chỉ giúp ta biết ăn năn sám hối mà còn khơi dậy trong ta tinh thần đền tội. Chính nhờ nhận ra sự gớm ghê của tội lỗi là xúc phạm đến Chúa, là hủy diệt mình trong cõi trầm luân, sẽ giúp chúng ta gia tăng việc hy sinh hãm mình, tránh xa mọi thói hư tật xấu, những ước muốn tội lỗi. Như thế, cầu nguyện sẽ giúp chúng ta đứng vững trước những cám dỗ và cải thiện đời sống theo tinh thần phúc âm.
Người ta kể rằng: “Một hôm Satan đem bày bán những dụng cụ làm việc của hắn. Có rất nhiều món, được dán nhãn hiệu rõ ràng: nào là giận hờn, ganh ghét, dâm dục, nào là kiêu ngạo, nói dối, tham lam v.v. Và món nào cũng có ghi giá. Nhưng có một món được để riêng một bên, không dán nhãn nhưng giá lại cao nhất. Một người hỏi:
– Đó là cái gì mà cao giá dữ vậy?
– Đó là sự ngã lòng.
– Tại sao nó cao giá thế?
– Vì nó hữu hiệu hơn tất cả những dụng cụ khác: khi tôi không thể dùng những dụng cụ kia để đến gần người ta thì tôi dùng nó để xâm nhập tận cõi lòng người ta. Một khi tôi đã đặt nó vào lòng người ta rồi thì tôi có thể xúi người ta làm bất cứ điều gì tôi muốn. Mà đặt nó vào lòng ta rất dễ, bởi vì ít ai biết dụng cụ đó là của tôi”.
Trong tháng Mân côi, giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin Chúa ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin cho chúng ta ơn can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ sống gắn bó và tuân hành thánh ý Chúa.
Ước gì mỗi người trong chúng ta biết dâng những hy sinh, những lời kinh Mân côi để đền bù lại những tội lỗi của con người hôm nay. Amen.

22. Nhớ Lời Mẹ Dặn – Lm Jos Tạ Duy Tuyền
Hồi nhỏ tôi rất thích những lời ru của mẹ. Lời ru êm đềm đưa tôi vào giấc ngủ. Lớn lên tôi lại càng thích thú lời ru ấy, vì nó chất chứa bao lời dạy của mẹ gửi cho con qua lời ru à ơi.
Vâng, có lẽ mỗi người chúng ta đều có những ấn tượng về những lời dạy của mẹ. Lời dạy của mẹ không chỉ dạy con lúc tuổi thơ mà có khi theo con đi suốt cuộc đời. Lời mẹ sẽ mãi mãi là kim chỉ nam cho con bước vào đời.
Ngày xưa Phùng Quán khi còn nhỏ đã từng nói dối, thế mà lời mẹ dạy đã theo ông suốt cuộc đời. Đến nỗi khi đã trưởng thành ông vẫn không quên “Lời mẹ dặn”:
“Tôi mồ côi cha năm hai tuổi/
Mẹ tôi thương tôi không lấy chồng…/
Ngày ấy tôi mới lên năm/
Có lần tôi nói dối mẹ/
Hôm sau tưởng phải ăn đòn /
Nhưng không mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc…
Con ơi…trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật. Mới lên năm mà Phùng Quán vẫn nhớ như in lời mẹ dặn. Lời mẹ dặn từ thuở nhỏ đã trở thành kim chỉ nam cho đời sống của mình, đến nỗi có người hỏi Phùng Quán: “Bé ơi, bé yêu ai nhất?” Phùng Quán trở lời: “Bé yêu những người chân thật”.
Hóa ra làm người phải sống chân thật và còn phải yêu người chân thật. Vì họ là người không dối lòng, có sao nói vậy, chẳng quanh co giả dối:
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc
Chân lý tưởng như đơn giản nhưng để sống được nó thật là khó. Vì nhiều người luôn sống ngược lại với ý nghĩ của mình, không dám nói thật ý nghĩ của mình. Có khi vui mà dối lòng không cười được. Khi buồn lại nén lòng mà cười để mong làm vui lòng người khác. Sống dối lòng như thế con người dần dà bị biến thành một kẻ dối trá! Một người dối trá. Trăm người dối trá. Triệu người dối trá. Một xã hội người dối trá!
Thế nên, làm người chân thật thì phải:
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét.
Và cho dù có được bổng lộc hay hiểm nguy cũng không được sống dối với lòng mình.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu Và rồi lời mẹ dặn vẫn ghi tạc trong ông:
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏCuộc đời người tín hữu cũng có một người mẹ. Một người mẹ luôn dặn chúng ta sống sao cho nên người. Lời Mẹ dặn thật đơn sơ: “Người bảo gì, các con cứ làm như vậy”. Làm theo Lời Chúa là để cho ý Chúa thực hiện trong cuộc đời mình. Làm theo lời Chúa là đi ngược lại với lời dẫn dụ ngọt ngào của ma quỷ. Làm theo lời Chúa là tránh xa mưu chước ma quỷ.
Cách thức để có thể thực hiện lời Chúa chính là siêng năng lần hạt Mân Côi. Đây còn là vũ khí mà Mẹ dặn chúng ta mang theo bên mình để có thể chiến thắng cám dỗ. Đây là vũ khí đã đẩy lùi sự dữ để mang lại an bình cho Giáo hội thời Thập Tự Chinh. Đây là vũ khí đã mang lại hòa bình cho thế giới trong chiến tranh lần thứ nhất của thế kỷ 20. Đây là vũ khí đã lập lại trật tự cho thế giới. Đây cũng là vũ khí đã cứu vớt biết bao linh hồn nhờ trung thành sống theo lời Mẹ dạy,
Hôm nay ngày lễ Mẹ Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng lần hạt Mân Côi theo lời Mẹ dặn. Vì kinh Mân Côi sẽ mang đến cho chúng ta một kho tàng ân phúc của Chúa. Kinh Mân Côi chính là chìa khóa vạn năng để chúng ta mở kho ân sủng vô biên của Chúa.
Theo Chân Phước Alan cho rằng: ‘Sau Hy Tế trong Thánh Lễ, một Hy Tế cao trọng nhất, cùng những kỷ niệm sống động của những đau khổ của Chúa Kytô, thì không còn loại sùng kính nào tốt hơn, đem ích lợi nhiều cho các Linh Hồn bằng Kinh Mân Côi, một kinh cũng nhắc lại những kỷ niệm và diễn lại cuộc đời, sự đau khổ của Chúa Giesu Kytô’.
Đức Pi-ô X: “Nếu muốn gia đình được yên lành hạnh phúc thì các con hãy lần hạt Mân Côi mỗi buổi tối trong gia đình các con”.
Đức Gioan XXIII: “Kinh Mân Côi phải trở nên như hơi thở của mọi tâm hồn, đồng thời cũng là kinh riêng của các gia đình Công Giáo”.
Mỗi người chúng ta đều ao ước hòa bình. Mỗi người chúng ta đều mong cho gia đình chúng ta được thuận hòa, cho cuộc đời bình yên. Thiết nghĩ phương thế để chúng ta nhận lãnh ơn Chúa không gì hữu hiệu bằng lời kinh Mân Côi.
Xin cho chúng ta biết siêng năng lần hạt Mân Côi và nhờ Kinh Mân Côi chúng ta được soi sáng sống theo lời Mẹ dặn chúng ta: “Người bảo gì anh em hãy làm theo như vậy”. Amen.

23. Kinh Mân Côi
Nguồn gốc kinh Mân Côi là những bông hồng kết thành triều thiên, mà những tín hữu Bắc Âu thời Trung cổ đội lên đầu Đức Mẹ, trong những tiếng đàn ca và múa hát. Tiếc thay, ngày nay kinh Mân Côi đã trở thành một kinh đơn điệu nhàm chán và máy móc, mà chỉ có ông già bà già cùng những người đạo đức mới đọc, để ăn mày ân xá, còn giới trẻ và đặc biệt là phía đàn ông con trai, chẳng cảm thấy vui vì khi lần hạt.
Mặc dầu vậy, cứ đến tháng mười, các đấng các bậc trong Hội Thánh cũng lại hết lời khuyên bổn đạo “Hãy ăn năn sám hối và lần hạt Mân Côi”. Nhưng thực tế cho thấy ít có ai sám hối thật lòng, còn lần hạt thì cũng luôn luôn chỉ có mấy cụ già và người lớn tuổi. Ai không tin thì cứ thử làm một cuộc điều tra.
Trong khi đó vào tháng năm, thì người ta lại rầm rộ thi đua tổ chức Dâng Hoa. Rõ ràng là râu ông nọ cắm cằm bà kia. Vì đáng lẽ cái thứ “phụng vụ dân gian” này phải được kết hợp với kinh Mân Côi, thì mới đúng về nguồn gốc và ý nghĩa của nó.
Thật vậy, người Kitô hữu Bắc Âu, sống vào koảng từ thế kỷ XI tới XIII, vì không hiểu gì về phụng vụ bằng tiếng Latinh, nên đã sáng tạo ra một thứ phụng vụ dân gian, là sáng tác những bài ca bằng tiếng bản xứ, đôi khi rất lãng mạn và trữ tình, đồng thời kết những triều thiên hoa hồng, vừa đội lên đầu Đức Mẹ, vừa hát vừa múa.
Theo truyền thuyết thì có một anh lái buôn, vì phải đi rong ruổi đó đây, không thể tham dự những buổi họp mừng Đức Mẹ với anh chị em tín hữu, nên đã nghĩ ra cách đọc đi đọc lại những câu kinh mà ban đầu chỉ có lời chào của sứ thần Gabriel cộng với lời chúc mừng của bà Elisabeth.
Thánh Đaminh đã dùng cái nên tảng của lòng sùng kính này để xây dựng nên truyền thống suy niệm những mầu nhiệm cứu độ, bằng cách giảng dạy cho các tín hữu nghe biết về những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu. Có thể nói, thánh nhân đã biến đổi một hình thức sùng kính chỉ có tính cách tình cảm trở thành một phương tiện loan báo Tin Mừng. Đối với thánh nhân, điều quan trọng không phải là múa hát hay đội triều thiên cho Đức Mẹ, mà là hái cho bằng được những bông hoa của ơn cứu độ từ cây hồng ân sủng được trồng trong vườn thiêng là cõi lòng Đức Trinh Nữ.
Chính nhờ nghe lời rao giảng mà người ta sám hối và tin vào Phúc Âm. Sám hối phải được liên kết với việc tin vào Phúc Âm, chứ không phải sám hối rồi chỉ đọc kinh. Đọc kinh mà không biết, không hiểu Tin Mừng thì làm sao đạt được niềm tin. Và không tin thì đọc kinh làm gì cho uổng công.
Bởi thế, cần phải bớt kinh, bớt việc làm của cái miệng, để tăng thêm việc làm cho trái tim, cho cái tâm. Thật ra thì sự suy niệm này đã được chính Đức Mẹ thực hiện và làm gương cho chúng ta. Thánh Luca đã ghi lại những hai lần thái độ của Đức Mẹ, đó là luôn để tâm suy niệm những biến cố liên quan tới Chúa Giêsu, người Con của Mẹ. Vậy thì đối với chúng ta, suy niệm những mầu nhiệm của Tin Mừng, đó chính là cách hữu hiệu nhất để hái được những bông hồng tươi thắm mà cài lên áo Mẹ hiền.

24. Năm đóa hồng xanh dâng Mẹ – AM Trần Bình An
Trong cuốn Niên Sử của Bộ Truyền Bá Đức Tin, người ta đọc câu chuyện sau đây xảy ra tại nước Somalia thuộc đại lục Phi Châu. Hôm ấy, các Thừa Sai cùng với nhóm Giáo Lý Viên trực chỉ Abal, một làng nhỏ thuộc tỉnh Bakool bên nước Somalia, để rao giảng Tin Mừng của Đức Chúa GIÊSU KITÔ.
Khi đến một ngã rẽ, đoàn truyền giáo bỗng phân vân không biết phải chọn con đường bên trái hay rẽ sang bên phải? Sau cùng, mọi người đồng ý để rơi xuống đất Ảnh Vảy Phép Lạ (Ảnh Đức Mẹ Ban Ơn). Khi rơi xuống, Ảnh Vảy Phép Lạ chỉ về hướng bên trái. Mọi người vui vẻ tiếp tục cuộc hành trình.
Tuy nhiên khi đến nơi, mới biết đây là Ulfunga, một làng nhỏ nằm đối ngược với làng Abal mà đoàn thừa sai muốn đi tới. Khi biết như vậy thì đã quá trễ vì trời đã tối. Vã lại, thật nguy hiểm khi quay trở lại đàng sau. Các vị truyền giáo quyết định dừng lại qua đêm tại làng Ulfunga.
Nơi làng, chỉ tìm thấy duy nhất một cụ bà ngoại giáo cùng với mấy đứa trẻ đang quây quần sưởi ấm chung quanh đám lửa cháy. Sau bữa ăn tối sơ sài, đoàn thừa sai đạo đức bắt đầu lần hạt Mân Côi chung. Buổi lần hạt chấm dứt, cụ bà Somalia tiến lại gần vị Linh Mục thừa sai và hỏi:- “Ông đọc “Ave MARIA – Kính Mừng MARIA” phải không?” Vị thừa sai đáp:- “Đúng thế! Cụ biết “Lời Kinh” này phải không? Phải chăng cụ là tín hữu Công Giáo?” Cụ bà liền giơ cho vị Linh Mục xem Ảnh Vảy Phép Lạ đang mang nơi cổ và nói:
– “Cách đúng 20 năm, đứa con trai duy nhất của tôi trở về làng sau một chuyến đi lâu thật lâu. Rồi con trai tôi ngã bệnh nặng. Trước khi chết, con nói với tôi: “Má à, con ra đi về một xứ sở mà Má không biết. Nhưng con mong muốn rằng một ngày kia Má cũng đến xứ sở này với con. Nơi đó, chúng ta cùng chung hưởng hạnh phúc. Ngay bây giờ, con không thể dạy cho Má biết điều phải làm để đến được xứ sở đó, như con từng học biết nơi xứ sở của người da trắng. Nhưng Má hãy lấy Ảnh Vảy con đang mang nơi cổ và hàng ngày Má luôn luôn đọc: “Ave MARIA”. Nói xong, con trai tôi tắt thở. Kể từ ngày đó, tôi luôn luôn đọc “Kính Mừng MARIA”. Nhưng MARIA là Ai vậy?” Vị Linh Mục thừa sai vui mừng nói cho cụ bà Phi Châu biết MARIA là thánh danh của Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA.
Rồi Cha dạy cho cụ bà biết các điều căn bản phải TIN theo giáo lý đạo Công Giáo. Tối hôm sau, vị Thừa Sai rửa tội cho bà cụ với tên thánh là MARIA. Suốt đêm ấy, các thừa sai nghe bà cụ liên tục lập đi lập lại “Ave MARIA”. Ngày tiếp theo, cụ bà êm ái trút hơi thở cuối cùng, trên đôi môi, điểm nụ cười hạnh phúc và đôi tay đặt trên ngục trong đó siết chặt Ảnh Vảy Đức Mẹ Ban Ơn. Cụ bà Maria hân hoan ra đi gặp lại đứa con trai thân yêu trên thiên quốc, dưới áo choàng của Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA. Đó là danh thánh cụ hằng kêu cầu và chào kính mà không hề biết rằng ngài chính là Hiền Mẫu MARIA! (Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt, Ave Maria ban ơn cứu rỗi, La Mia Messa, Volume II, Marzo Aprile, Maggio/2009, Anno III, Anno B, Casa Mariana Editrice)
Mẹ luôn là nguồn hy vọng cho bất cứ ai trông cậy vào Mẹ, kể cả những người chưa nhận biết Chúa. Tại các linh địa Đức Mẹ, như La Vang, TàPao, không hiếm những người khác tôn giáo đến khấn xin Mẹ những ơn lành.
Năm đóa hoa xanh hôm nay kính dâng lên Mẹ trong niềm hy vọng chan chứa, trong niềm cậy trông vô bờ, vì Mẹ như Sao Biển sáng chói giữa đêm đen sóng gió bão bùng.
Đóa hồng Tái sinh
Ðức Chúa Giêsu sống lại. Ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn.
Đức Chúa Giêsu đã sống lại như lời Người đã phán.Alleluia. Người mời gọi mọi người hãy tái sinh với Người, bằng cuộc đời mới là sám hối và tin vào Tin Mừng, như khi Người bắt đầu Người rao giảng ba năm trước đó.
Thánh Phaolô mời gọi tín hữu Êphêsô tái sinh: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát, vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện. (Ep 4, 22-24)
“Con phải canh tân tâm hồn quảng đại, đơn sơ đối với Chúa: “Chúa muốn gì con cũng cho hết,” và đừng quên điều thứ hai: “Chúa cho con gì con cũng nhận hết.” (Đường Hy Vọng, số 642)
Đóa hồng Quy Thiên
Ðức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời.
Trước cuộc khổ nạn, Đức Giêsu nói lời cáo biệt với các tông đồ: “Anh em đừng xao xuyến! Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14, 2-4)
Đức Mẹ đã biết bao lần khuyên nhủ con cái ăn năn, sám hối để được hưởng phúc Thiên Đàng, đoàn tụ với Người Cha Nhân Từ, hằng thương yêu con cái trần thế, nên đã cho Con Một xuống cứu chuộc.
“Con hãy sẵn sàng cầm đèn sáng đợi chờ giờ Chúa trở lại, như Chúa muốn, nơi Chúa muốn, lúc Chúa muốn. (Đường Hy Vọng, số 670)
Đóa hồng Ân sủng
Ðức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Ta hãy xin cho được lòng đầy dẫy mọi ơn Ðức Chúa Thánh Thần.
Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống khai mở lòng trí các tông đồ, để các ngài nhớ lại những gì mà Chúa Giêsu đã dạy các ông, và từ đó các tông đồ đã mạnh dạn ra đi rao truyền Phúc Âm cho mọi người. Đức Mẹ Maria cũng đã hiện diện giữa các tông đồ trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Mẹ cũng được diễm phúc đón nhận Chúa Thánh Thần ngay từ khi Mẹ thưa hai tiếng “Xin Vâng.” Từ nay Đức Mẹ Maria có một vị thế rất quan trọng trong Giáo Hội của Chúa Kitô ở trần gian. Mẹ đã trở nên Đấng cầu bàu cho toàn thể Kitô hữu
“Động lực và tác giả mọi cuộc canh tân trong Hội Thánh là Chúa Thánh Thần, Đấng canh tân mặt đất. Mỗi cuộc canh tân là một lễ Hiện Xuống mới và không thể có lễ Hiện Xuống mới, ngoài Chúa Thánh Thần. Con không thể canh tân ngoài Chúa Thánh Thần.” (Đường Hy Vọng, số 660)
Đóa hồng Lâm chung
Ðức Chúa Trời cho Ðức Mẹ lên trời. Ta hãy xin ơn chết lành trong tay Ðức Mẹ.
Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố trong ngày lễ Các Thánh Nam Nữ 01/11/1950: “Ta tuyên xưng, công bố và xác nhận tín điều được Thiên Chúa mạc khải là Mẹ Thiên Chúa Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trinh Nguyên, khi thời gian sống tại thế hoàn tất, cả hồn lẫn xác của Người đã được đưa về trời trong vinh quang thiên quốc.” (TCF, 207)
Khấn xin Mẹ ban ơn chết lành cho những ai đặt hết niềm cậy trông nơi Mẹ hiền. Một cái chết nhẹ nhàng như người ngủ say, không phiền muộn đến người thân chung quanh. Một cuộc ra đi về quê Trời với đầy đủ hành trang là những hồng phúc từ các bí tích sau cùng.
“Con nhìn thấy những giọt nước lã chã rơi trong một chiều đông. Mỗi ngày bao nhiêu người cùng vào cõi đời đời, như hạt nước kia không ai để ý, mà một giây phút nào đó, một hạt nước rơi ây chính là con.” (Đường Hy Vọng, số 666)
Đóa hồng Hy vọng
Ðức Chúa Trời thưởng Ðức Mẹ trên trời. Ta hãy xin Ðức Mẹ phù hộ cho ta được thưởng cùng Ðức Mẹ trên nước Thiên đàng.
Đức Mẹ Maria là kho tàng ân sủng của Thiên Chúa, có nghĩa là Mẹ cũng được Thiên Chúa cho phép được chia sẻ một phần nhỏ vào vinh quang và quyền năng của Ngài, để qua Mẹ mà nhân loại dễ dàng đến với Chúa hơn.
“Không có Mẹ, dù mọi người lo lắng bảo đảm đến đâu, em bé cũng không đi theo. Nhưng đi với Mẹ, băng rừng, vượt suối, đói rét, em vẫn đi. Trong cuộc chiến, bao nhiêu bà mẹ chết rồi, con vẫn la lết nằm một bên. Trên đường hy vọng, con nắm tay Mẹ Maria; có Mẹ, con không cô đơn. Mẹ là nguồn sống, là an vui, là hy vọng của chúng con.” (Đường Hy Vọng, số 910)
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, chúng con đặt hết niềm hy vọng vào Chúa trong cuộc lữ hành trần thế. Kính xin Chúa ban muôn phúc lành an ủi, khuyến khích và nâng đỡ chúng con thoát khỏi cám dỗ của ba thù, để mai này được về cùng Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã đồng hành cùng Con Mẹ suốt 33 năm. Khấn xin Mẹ cầm tay dẫn dắt chúng con theo Mẹ, để luôn được gần gũi với Chúa, trong niềm hy vọng được sống viên mãn với Mẹ và Con Chúa đến muôn đời. Amen.

25. Năm đóa hồng đỏ dâng Mẹ – AM Trần Bình An
Đức Gioan Phaolô II chỉ bị trọng thương qua vụ ám sát. Và việc ngài sống sót là cà một phép lạ. Dĩ nhiên, sức khỏe vốn cường tráng trước kia của ngài đã bị ảnh hưởng rất nặng bởi vụ ám sát, khiến ngài phải chịu đau đớn thường xuyên, kéo dài mãi cho tới lúc ngài băng hà năm 2005. Hai năm sau vụ ám sát, vào ngày 23.12.1983, Đức Gioan Phaolô II đã đích thân vào phòng giam thăm tên khủng bố Ali Agca, nói chuyện với y và nhất là ngài đã tha thứ cho y.
ĐHY Stanislaw Dziwisz tường thuật lại là trong cuộc gặp gỡ và nói chuyện này tại nhà tù, Ali Agca chỉ lặp đi lặp lại với Đức Thánh Cha một câu hỏi duy nhất: “Tại sao Ngài lại không chết? Tôi biết chắc chắn là tôi đã nhắm rất trúng đích. Tôi cũng biết rằng phát đạn tôi bắn ra có hiệu quả tàn phá và gây tử thương một cách chắc chắn. Nhưng tại sao Ngài lại không bị tử thương?”
Về phần Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thì hoàn toàn xác tín rằng chính nhờ bàn tay hiền mẫu của Đức Mẹ Fatima che chở nên ngài mới có thể thoát chết một cách lạ lùng như thế. Bởi vì, ngày ngài bị ám sát tại Rôma, ngày 13 tháng 5 (1981) chính là ngày Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ chăn chiên năm xưa tại Fatima, ngày 13 tháng 5 (1917). Hơn nữa, theo Đức Gioan Phaolô II, thì vị Giám Mục mặc áo trắng phải chịu đau khổ nhiều mà Đức Mẹ đã cho ba trẻ trông thấy trong một thị kiến khi hiện ra với ba trẻ tại Fatima, chính là ngài. Do đó, đúng một năm sau vụ ám sát (1982), Đức Gioan Phaolô II đã đích thân đi hành hương Fatima để tạ ơn cứu sống của Đức Mẹ và trong dịp này ngài cũng mang theo một trong các đầu đạn mà Mehmet Ali Agca đã bắn vào ngài để dâng kính Đức Mẹ. Và kìa một sự lạ lùng đã làm chính Đức Gioan Phaolô II và tất những người chứng kiến không khỏi sửng sốt và kinh ngạc, là đầu viên đạn mà ngài mang theo kia khi được gắn vào một lỗ hổng duy nhất còn sót lại ở mão triều thiên trên đầu tượng Đức Mẹ Fatima, mà các đoàn thể phụ nữ Bồ Đào Nha đã dâng cúng cho Đức Mẹ vào năm 1946, thì hoàn toàn vừa vặn như thể người ta đã cốt ý làm cái lỗ hổng đó sẵn cho viên đạn vậy. (Lm Nguyễn Hữu Thy, Nhắc lại vụ ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II)
Năm đóa hoa đỏ bi thương nhuộm máu đào Con Chúa kính dâng lên Mẹ Sầu Bi. Toàn thể Kitô xin hữu hiệp thông cùng Mẹ với tấm lòng sám hối, ăn năn, để xoa dịu nỗi đau tột cùng của Mẹ.
Đóa hồng Sám hối
Ðức Chúa Giêsu lo buồn đổ mồ hôi máu. Ta hãy xin cho được ăn năn tội nên.
Trong bao lần Mẹ hiện ra tại Fatima với ba trẻ Lucia, Jacinta và Phanxicô, và tại Lộ Đức với chị Bernadette, Mẹ đã luôn nhắc nhở loài người hãy ăn năn, sám hối đền tội, canh tân đời sống, để làm dịu đi những đau khổ mà Chúa Giêsu vẫn đang phải chịu đựng vì tội lỗi loài người.
Đừng vô cảm như các tông đồ hồn nhiên ngủ say ngay bên Đức Giêsu đang đổ mồ hôi máu sợ hãi cuộc khổ nạn, vâng theo Thánh Ý Chúa. Kitô hữu sống là luôn khiêm nhường sám hối như Hội Thánh đã răn dạy”Đời sống của người Kitô-hữu phải là một cuộc ăn năn đền tội suốt đời” (CĐ Triđentinô)
“Sự ăn năn hối cải của con không phải là “hát bội,” khóc lóc não nùng xong rồi hết tuồng, hạ màn, và đâu lại vào đó.” (Đường Hy Vọng, số 893).
Đóa hồng Xả kỷ
Ðức Chúa Giêsu chịu đánh đòn. Ta hãy xin cho được hãm mình chịu khó bằng lòng.
Chịu hành hạ đòn roi, khổ hình và nhục hình, Đức Giêsu hoàn toàn im lặng bỏ mình, không một lời than thở, trách móc hay phản đối. Một sự bỏ mình trọn vẹn bình thản và bằng lòng, toàn tâm toàn ý, như lời mời gọi Người từng rao giảng, như lời tiên báo của ngôn sứ Isaia đã nói về Người: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu.Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.” (Is 50, 6)
“Con có uống nổi chén đắng của Thầy không?” Con hãy thưa: “Con tình nguyện uống chén đắng đến giọt cuối cùng, vì là chén đắng của Thầy, vì Thầy đã uống trước con!” Chén càng đắng, càng đầy, chứng tích tình yêu của con càng rõ rệt. Chứng tích tình thương của Chúa muốn cho con chia sẻ, Chúa tín nhiệm con càng thắm thiết.” (Đường Hy Vọng, số 716)
Đóa hồng Nhẫn nhục
Ðức Chúa Giêsu chịu đội mão gai. Ta hãy xin cho được chịu mọi sự sỉ nhục bằng lòng.
“Ecce homo!” Đây là Người! Quan Tổng trấn Philatô đã giới thiệu với dân chúng Đức Giêsu đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Trước đó, trong ngục tù, Người đã chịu lính La Mã đánh đập, chê giễu là Vua Do Thái. (Ga 19, 1-5) Đức Giêsu vẫn im lặng kiên trì nhẫn nhục chịu đựng.
“Nếu con hiểu biết hạnh phúc được làm con Chúa, thì những điều sỉ nhục không thấm gì con và những lời hoan hô cũng chẳng thêm gì cho con.”(Đường Hy Vọng, số 506)
Đóa hồng Đền tội
Ðức Chúa Giêsu vác cây Thánh giá. Ta hãy xin được vác Thánh giá theo chân Chúa.
Nếu chỉ dừng lại việc ăn năn, sám hối tội lỗi mà thôi, thì Kitô hữu mới chỉ đi được phân nửa chặng đường trở về với Chúa. Chặng kế tiếp là đền tội qua việc vác Thánh giá hằng ngày theo Chúa.
“Thử thách gian khổ là “giấy phép theo Chúa”để hưởng hạnh phúc hân hoan với Chúa: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thánh giá…” (Đường Hy Vọng số 714)
Đóa hồng Hiến tế
Ðức Chúa Giêsu chịu chết trên cây thánh giá. Ta hãy xin đóng đinh tính xác thịt vào thánh giá Chúa.
Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Êli, Êli, lêma xabácthani”, nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con… Đức Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn.” (Mt 27, 45-50)
Đức Giêsu mời gọi tín hữu hãy đóng đinh bản thân Kitô hữu vào thánh giá, đóng đinh những đam mê xác thịt, đóng đinh tính kiêu ngạo, tham sân si, chịu chết đi làm hạt lúa mục nát để góp phần vào Ơn Cứu độ, tái sinh muôn hạt lúa giống cho Nước Trời.
“Vì Chúa yêu thương môn đệ, Ngài đã yêu thương đến tận cùng!” Tận cùng ấy là Thánh giá. Hy sinh của con phải trọn vẹn, phải là lễ toàn thiêu, nếu “con yêu tận cùng.” (Đường Hy vọng, số 161)
Lạy Chúa Giêsu, Năm Sự Thương Khó là chặng đường cuối cùng của Tình Yêu Cứu Độ, mà Chúa muốn chúng con bước theo. Xin Chúa ban cho chúng con lòng trung tín, sự can đảm và tình yêu nồng cháy để trọn vẹn theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã gắn bó đồng hành cùng Con Mẹ trên mọi nẻo đường dẫn đến núi Can vê. Kính xin Mẹ cầu bầu cho chúng con đủ tin cậy mến để luôn theo Mẹ mãi. Amen.

26. Năm đóa hồng vàng dâng Mẹ – AM Trần Bình An
Ngày 10-10-1945, Đài Phát Thanh truyền đi bản tin: một trong các chủ tịch đảng cộng sản tại Mỹ Châu, sau 30 năm lầm đường lạc lối, đã trở về với Giáo Hội Công Giáo. Đó là chủ tịch Luis Francesco Bundez. Chính ông cũng công khai tuyên bố: “ Với niềm vui sâu xa, tôi muốn loan báo cho mọi người biết rằng, nhờ ơn THIÊN CHÚA, tôi đã quay về với Đức Tin Công Giáo, Đức Tin cha ông tôi truyền lại cho tôi.”
Cuộc đời ông Luis Francesco Bundez quả là chuỗi dây xích lầm lạc và ảo tưởng. Năm 1935, ông chính thức ghi tên vào đảng Cộng Sản tại New York. Từ đó, cuộc đời ông ngày càng xuống dốc và chìm vào đêm đen. Nhưng trong bóng tối, ông vẫn cảm nhận ơn thánh hằng theo ông, đánh động ông và thúc đẩy ông trở về với THIÊN CHÚA. Ngài chờ đợi ông.
Được thế là vì, nơi mái ấm gia đình, trong vòng ròng rã 30 năm trời, toàn thể gia đình ông, mỗi ngày lần hạt Mân Côi cầu cho đứa con hoang đàng, sớm trở về đường ngay nẻo chính.
Cha mẹ và anh chị em ông, sốt sắng kêu xin Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA – Đức Bà bầu chữa kẻ có tội – chuyển cầu cho ông. Vì thế, mặc dầu sống xa gia đình, ông Luis Francesco Bundez vẫn như nghe vang vọng lời kinh Mân Côi tha thiết dành cho ông. Sau 30 năm lang thang mất hướng, đứa con trai… đi theo chủ nghĩa cộng sản vô thần, quyết định quay trở về Nhà Cha.
Cuộc hoán cải của ông Luis Francesco Bundez gây tiếng vang lớn tại Mỹ Châu lúc bấy giờ. Mọi người hiểu rằng, việc ông thoát khỏi… là nhờ lời kinh Mân Côi toàn gia đình ông dâng lên Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc mỗi ngày. (Sr JB Minh Nguyệt, Quyền lực cứu rỗi của Kinh Mân Côi, Evaristo Cardarelli,”Il Santo Rosario”, Edizioni Cantagalli – Siena, 1987)
Để chuẩn bị Năm thánh Mẫu, bắt đầu từ lễ Hiện Xuống năm 1987 và bế mạc vào ngày lễ Mông Triệu năm 1988, ĐGH Gioan Phaolô II gửi đến Dân Chúa Thông điệp “Mẹ Đấng Cứu Độ,” công bố ngày 25.3.1987. Nhân dịp Năm Mân Côi từ tháng 10. 2002 đến tháng 10. 2003, ngài gửi tiếp Tông thư “Kinh Rất Thánh Mân Côi,”công bố ngày 16.3.2002. Chính ngài đã thêm Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Kinh Mân Côi tựa năm đóa hoa hồng vàng rực rỡ, huy hoàng, vương giả kính dâng lên Mẹ.
Đóa hồng Khiêm hạ
Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giodan.Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con Thiên Chúa.
Trước sự kiện Đức Chúa Giêsu xin ông Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, Thánh Phaolô giải thích Đức Chúa Giêsu khiêm hạ biết dường nào: “Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết giữ lấy địa vị ngang hàng với Thiên Chúa mà lại trút bỏ vinh quang của Thiên Chúa, lại còn mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống người phàm như chúng ta. Hơn nữa, Ngài còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và còn muốn nhận lấy cái chết ô nhục trên thập giá” (Pl 2, 6-11)
Chỉ có thái độ và lòng khiêm nhường là con đường duy nhất dẫn tìn hữu Kitô đến với Chúa và tha nhân.
“Hồn tông đồ khiêm tốn và tạ ơn Chúa như Phaolô: “Tôi là kẻ rốt hèn trong các tông đồ và tôi không đáng được gọi là tông đồ…Nhờ ơn Chúa mà tôi được như ngày nay.” (Đường Hy Vọng, số 508)
Đóa hồng Tín thác
Đức Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Cana. Ta hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa.
Mẹ chỉ nói với Con Mẹ vắn tắt: “Họ hết rượu rồi!” (Ga 2, 3). Bấy nhiêu thôi đủ bộc lộ Mẹ quan tâm sâu sắc đến đôi tân hôn, chủ hôn và toàn thể khách mời. Chẳng muốn cặp uyên ương buồn vì hết rượu chiêu đãi, chẳng muốn chủ hôn lo lắng xấu hổ, chẳng muốn thực khách bất bình dang dở chén chú chén anh. Mẹ hoàn toàn tín thác vào quyền năng của Thiên Chúa. Chẳng bao giờ Ngài nỡ cất đi niềm vui, hạnh phúc của con người, khi biết phó thác, trông cậy hoàn toàn vào Chúa Quan Phỏng.
“Hãy nhờ Đức Mẹ đưa con đến với Chúa Giêsu, con sẽ quen sống bên Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 240)
Đóa hồng Giao hòa
Đức Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời và kêu gọi sám hối. Ta hãy xin cho được tin vào lòng Chúa thương xót, và năng lãnh nhận bí tích Giao hoà.
Đức Giêsu khởi đầu rao giảng muôn dân bằng lời kêu gọi tha thiết: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1, 14-15) Để tái lập lại mối giao hòa với Thiên Chúa, thỉ hai điều kiện tiên quyết là ăn năn, sám hối từ bỏ nếp sống cũ tội lỗi, sa đọa, để tin vào Tin Mừng, là đón nhận và sống theo Lời Chúa. Đến cùng Mẹ Maria, bất cứ ai cũng được Mẹ nâng đỡ, an ủi, cảm hóa, để biết xét mình hối lỗi, làm lại cuộc đời mới. Bởi vì Mẹ chính là Đấng Trung Gian giữa phàm nhân với Thiên Chúa.
“Điều khiến Chúa hiện diện trong con vui lòng, sung sướng nhất, là con năng nói chuyện với Mẹ Maria, Mẹ yêu dấu của Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 243)
Đóa hồng Canh tân
Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi. Ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần.
Trước việc Đức Giêsu biến hình sáng láng trên núi, cùng hiện diện ông Môsê và ngôn sứ Êlia, ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan vinh dự chung hưởng một thoáng Thiên Đàng. Nhân dịp này, Đức Giêsu mong muốn các tông đồ biến đổi quan niệm, tâm trí và cuộc sống, trở nên những chứng nhân nhiệt thành của Nước Chúa. Đó cũng là yêu cầu mà Đức Giêsu đặt ra cho từng Kitô hữu muốn theo Người.
“Canh tân là trở về nguồn. Công thức canh tân: Làm cho người Công giáo trở lại đạo Công giáo. Làm cho người Kitô hữu trở lại với Chúa Kitô. Mới nghe, con ngạc nhiên, nhưng ngẫm nghĩ lại, con sẽ thấy đúng như vậy. Một câu nói của thánh Gandhi nhiều lần khiến ta suy nghĩ: “Tôi mến Chú Kitô, nhưng tôi không yêu người Kitô hữu, vì họ không giống Chúa Kitô.” (Đường Hy Vọng, số 634)
Đóa hồng Chí ái
Đức Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể. Ta hãy xin cho được sốt sắng tham dự Thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Ngài.
Món quà vô giá Mẹ tặng cho nhân loại chính là Con Mẹ, Đức Giêsu Kitô Cứu Thế. Rồi chính Đức Giêsu chí ái lại tặng cho nhân loại Mình và Máu Người, đễ dưỡng nuôi Kitô hữu trên đường lữ hành tìm vê Quê Trời. Còn món quà nào cao quý hơn Thánh Thể nhiệm mầu?
Đèn không sáng nếu hết dầu, xe không chạy nếu cạn xăng, hồn tông đồ sẽ suy mạt nếu không đến với Thánh Thể: “Ai không ăn thịt Ta và uống máu Ta, chẳng được sống đời đời.” (Đường Hy Vọng, số 360)
Lạy Chúa Giêsu, Năm Sự Sáng là những vầng sáng chói lọi hướng dẫn chúng con dấn thân trên đường về Nước Chúa. Xin Chúa luôn nhắc nhở chúng lòng ghi lòng tạc dạ và thực hành, khi đã quyết tâm theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, chúng con kính dâng lên Mẹ năm đóa hoa vàng rực rỡ ánh sáng. Kính xin Mẹ cho những đóa hoa vàng ấy nở rộ mãi trong hồn chúng con. Amen.

27. Năm đóa hồng trắng dâng Mẹ – AM Trần Bình An
Cho đến một hôm có một chị ở nhà thờ thấy chị Maria Nguyễn Thị Mai yếu quá, liền mời Cha tới xức dầu và cho chị xưng tội. Cha hỏi chị:
– Con có một nguyện ước gì không? Hội đoàn sẽ giúp cho, người nhà con đâu, con đưa địa chỉ đây để cha nhờ người kêu về.
Chị lắc đầu thều thào nói qua hơi thở, chị em con từ chối trách nhiệm, nên bây giờ con chỉ còn có Chúa và Đức Mẹ. Nguyện ước cuối cùng của con là muốn viếng thăm Đức Mẹ Tàpao lần cuối.
Sáng sớm, có người tới rước chị tới điểm hẹn. Nhìn thấy chị ai cũng lo ngại cho sức khỏe của chị và khi đoàn hành hương lên xe, chị Trưởng đoàn xướng kinh kinh cầu nguyện cho chị. Đi tới Tàpao mọi người tìm phòng trọ nghỉ ngơi ăn uống, rồi chuẩn bị lên núi. Nhờ đoàn hành hương cùng hiệp ý cầu nguyện, nên trông chị Mai có vẻ tỉnh táo hơn. Chị Trưởng đoàn khuyên:
– Chị nghĩ ngơi đi rồi sáng mai dưới chân núi có Thánh lễ đồng tế, chị tham dự cho tiện, đường lên núi cao lắm! Có tới 429 bậc thang chị đang bệnh làm sao leo lên được.
-Tôi đi lên núi được mà, bây giờ tôi khoẻ rồi, cô đừng lo.
Chị Mai không chịu ở lại, vì chị mơ ước đi Tàpao lâu rồi, mà chỉ muốn lên núi nhìn được thấy Mẹ một lần, chị mới mãn nguyện. Thế rồi chị choàng chiếc khăn màu trắng hôm Rửa Tội choàng lên cổ. Tay cầm Chuỗi lần hạt đọc kinh. Mọi người đều ái ngại, khi nhìn chị lên núi với một cái bụng rất to của một người ung thư giai đoạn cuối. Mọi người ai cũng nể chị có một nghị lực phi thường. Trong thân hình mỏng manh gầy gò ấy, tiềm tàng một khát vọng sống mãnh liệt.
Mọi người trong đoàn bắt đầu dõi bước theo, lỡ chị có ngất xỉu thì cõng chị về. Mọi người bắt đầu ồ lên vì ngạc nhiên, khi chị đi rất nhanh, không có một người nào đi kịp theo chị, vì tất cả khách hành hương hay thanh niên khoẻ mạnh, ai cũng phải ngừng nghỉ một lúc rồi mới đi tiếp.Còn bây giờ, chị không hề nghỉ đoạn nào hết. Chị đã bỏ lại đoàn người khá xa và đã tới nơi linh địa Đức Mẹ Tàpao.
Sau khi tham dự Thánh Lễ xong ai cũng thấy gương mặt chị rạng rỡ và chị nhanh chóng đi như bay xuống núi. Mọi người lần lượt đi thật nhanh xuống chân núi và vây chung quanh chị hỏi chuyện. Chị kể rằng sau khi chị bước chưa tới 10 bậc thang, chân tay chị rã rời chị xay xẩm mặt mày. Chị biết không thể nào đi được nữa mới cầu nguyện: “Mẹ ơi! Mẹ hãy dắt con lên núi đi Mẹ con không đi nổi nữa Mẹ ơi! Mẹ giúp con với Mẹ. Vừa cầu nguyện xong Đức Mẹ hiện ra mỉm cười, rồi dắt tôi lên núi.” (Đỗ Hải Oanh, Chuỗi Mân Côi chữa lành bệnh ung thư, DucMeFatimaMancoi.org)
Hôm nay mừng kính lễ Mẹ Mân Côi, con cái Mẹ đồng tâm trìu mến hướng về Mẹ. Cùng ngợi khen, chúc tụng, cảm tạ Mẹ đã và đang đoái thương ban mưa hoa hồng ân phúc xuống con cái trông cậy Mẹ. Hiệp ý cùng triều thần Thiên Quốc, chúng con kính dâng lên Mẹ năm đóa bạch hồng trong vườn hoa Màu Nhiệm Vui
Đóa hồng Khiêm nhu
Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ chịu thai. Ta hãy xin cho được ở khiêm nhượng. Trước vinh dự cao cả cực đại, mà không phàm nhân nào dám ước mơ, được làm Mẹ Con Thiên Chúa, linh hồn Mẹ ngợi khen Thiên Chúa, thần trí Mẹ hớn hở vui mừng. “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc.”(Lc 1, 48) Mẹ sấp mình khiêm tốn nhận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn, cảm tạ Thiên Chúa đoái thương.
“Mẹ làm gương ẩn dật khiêm cung, nhưng đồng thời Mẹ luôn luôn hiện diện phục vụ; Mẹ không ra mặt, không lên tiếng, nhưng Mẹ hằng ở gần bên Chúa Giêsu, sống trọn vẹn cho Chúa và Chúa trong con.” (Đường Hy Vọng, số 926)
Đóa hồng Bác ái
Đức Mẹ đi viếng bà Thánh Isave. Ta hãy xin cho được lòng yêu người. Dù được chịu thai bởi Đức Chúa Thánh Thần, được vinh dự cưu mang Đức Chúa Giêsu, Mẹ vẫn khiêm tốn nghĩ đến tha nhân, thân thiết đến thăm hỏi bà chị họ Elizabeth, cũng đang mang thai Thánh Gioan Tiền Hô được sáu tháng. Chẳng lo thủ thân, chẳng nề quản mệt nhọc, xa xôi, hiểm trở đường xá, Mẹ hăng hái ra đi dấn thân vì lòng bác ái, yêu người, mong muốn chia sẻ niềm vui, lẫn nỗi lo với thai phụ tuổi đã xế bóng, được ơn thánh huyền diệu.
“Mẹ Maria không chỉ nhìn Chúa Giêsu, Mẹ nhìn bà Isave, nhìn Gioan, nhìn đôi tâm hồn ở Cana…Con hãy có cái nhìn của Mẹ: Nhìn Chúa, nhìn người.” (Đường Hy Vọng, số 948)
Đóa hồng Khó nghèo
Đức Mẹ sinh Đức Chúa Giêsu nơi hang đá. Ta hãy xin cho được lòng khó khăn. Ai mà chẳng chạnh lòng, khi thấy một thai phụ bụng mang dạ chửa, nặng nề lê gót cùng chồng đi tìm quán trọ tại Bêlem vào chiều đông giá buốt. Thế mà, bao quán trọ từ chối, vì họ không đủ tiền thuê phòng, vì luộm thuộm nghèo túng, vì bộ dạng lam lũ thấp kém. Mặc dù người chồng cố gắng nài nỉ hết quán này đến quán khác, đều chỉ gặp cái lắc đầu lạnh lùng, vô cảm, tàn nhẫn xua đuổi.
“Mẹ Maria nghèo khó, không tiền, không bạc, có lúc không nhà cửa, không ghế bàn, Mẹ không biết giảng, nhưng Mẹ có món quà quý nhất để cho Mục tử Bê lem, ba đạo sĩ phương Đông, Simêon và Anna nơi Đền Thánh. Mẹ đã thinh lặng cho họ Chúa Giêsu, món quà mà chỉ Mẹ có, món quà ấy giảng thay Mẹ, vì đó Ngôi Lời.” (Đường Hy Vọng, số 932)
Đóa hồng Vâng phục
Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh. Ta hãy xin được vâng lời chịu lụy. Mẹ đã hết lòng thành khẩn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa mầu nhiệm: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như sứ thần nói.” (Lc 1, 38) Mẹ đã “Xin vâng” cho đến tận cuối đời, đã chịu lưỡi gươm đâm thấu tim khi Con Chúa chịu tử nạn, như lời ông Simêon, người công chính, đã tiên tri. (Lc 2, 38).
“Mấy lời vắn tắt diễn tả cuộc đời Mẹ con; với tâm tình thánh thiện, hãy ghi vào lòng mà suy niệm và bắt chước:
“Này con là tôi tá”: Ecce.
“Con xin vâng”: Fiat
“Linh hồn con ngợi khen Chúa”: Magnificat. (Đường Hy Vọng, số 920)
Đóa hồng Khiết tịnh
Đức Mẹ tìm được Đức Chúa Giêsu trong Đền Thánh. Ta hãy xin cho được giữ nghĩa cùng Chúa luôn. Mẹ Maria chính là trinh nữ đáng cung kính đã được ngôn sứ Isaia loan báo cho nhân loại.”Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” (Is 7, 14) Mẹ khiết tịnh từ thân xác đến tâm hồn, Mẹ vô nhiễm không hề vướng tội tổ tông truyền, vì Mẹ luôn có Chúa ở cùng, luộn trọn tình, trọn nghĩa với Chúa.
“Sự hy sinh toàn hiến của Mẹ càng cao quý, khi Mẹ phó thác cho Chúa trọn vẹn; đi ngược lại ước nguyện của các thiếu nữ thời ấy. Mẹ đã quyết sống đồng trinh. Chúa đã ban cho Mẹ cả hai: Vừa đồng trinh, vừa làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ nhân loại.” (Đường Hy Vọng, số 933)
Lạy Chúa Giêsu, năm đóa hồng trắng là năm nhân đức mà chính Chúa hằng dạy bảo đòan chiên, đã được Mẹ Maria thấm nhuần tuân giữ. Xin Chúa giúp chúng con noi gương Mẹ để được sống gần gũi Chúa luôn.
Lạy Mẹ Maria, chúng con kính dâng lên Mẹ năm đóa hồng trắng tinh tựa tâm hồn thánh thiện của Mẹ. Kính xin Mẹ giúp chúng con biết ý thức và cố gắng rèn luyện theo những nhân đức của Mẹ, mỗi khi lần chuỗi Mân Côi. Amen.

28. Trên con đường về quê – AM Trần Bình An
Trên con đường về quê mà có bóng Mẹ, con vững một niềm tin, vững niềm cậy trông. Trên con đường về quê mà có bóng Mẹ, con vững một niềm tin, tiến lên bình an.
Chẳng biết bài thánh ca Trên Con Đường Về Quê cải biên, qua giọng ca đầm ấm, chân tình và thành kính của ca sĩ Nguyễn Hồng Ân (*), được cố nhạc sĩ Nguyễn Khắc Xuyên (1923-2005) chấp thuận hay chưa? Nhưng có lẽ thính giả đều chẳng phàn nàn lời nhạc được sửa đổi. Thay vì “Trên con đường về quê mà vắng bóng Mẹ, Trên con đường về quê mà vắng bóng Mẹ. Con biết cậy vào ai biết nương nhờ ai?” vừa chưa đúng tín lý, vừa sơ sót, thì nay cải lại thành: “Trên con đường về quê mà có bóng Mẹ,..”
Từ thể phủ định, nghi vấn trở thành thể khẳng định, xác tín, ai cũng cảm nhận được niềm tin tích cực hơn, nồng nàn hơn và cậy trông, phó thác hơn vào Mẹ.
Khẳng định cũng là một phương pháp tự kỷ ám thị, tin tưởng và hân hoan, dễ dàng phấn đấu, tiến thân trên đường thành công trong đời, mặc bao gian khó, trở ngại và hiểm nguy. Vậy áp dụng phác đồ điều trị tâm lý phục vụ tâm linh, chẳng hề sai trái, hay phù phiếm, mê tín dị đoan, mà trái lại còn hữu ích và đáng khuyến khích áp dụng.
Sự thật, niềm tin vào Mẹ đã được khẳng định qua hơn 20 thế kỷ. Biết bao người đã và đang chạỵ đến cùng Mẹ, đã không phải thất vọng ra về. Ở những linh địa Lộ Đức, Fatima, La Salette, Mễ Du, hay La Vang, Trà Kiệu, Tà Pao, Măng Đen,…chẳng bao giờ thiếu vắng người đến xin khẩn cầu Mẹ, không phân biệt tôn giáo, giàu nghèo hay sang hèn.
Đường xa vắng sao, sương mờ, đường xa thăm thẳm khuất bóng quê, con bâng khuâng đưa mắt trông tìm đây đó, có ai bạn đường cùng đi khỏi lo. Mẹ ơi bóng đêm rợn rùng, vực sâu đang gầm dưới lá rung, con lao đao sắp ngã trên đường nguy khố, đoái thương con cùng, Mẹ Đấng Chí Tôn.
Bơ vơ, cô đơn, lạc lõng, lo sợ, khiếp đảm giữa chốn ba đào, nhiều khi tín hữu cảm thấy bị bỏ rơi, bị chạm trán sự dữ, bị cạm bẫy đón chờ, thế mà chẳng có ai đồng hành, an ủi, cứu giúp! Thân nhân đâu rồi? Bạn bè, người thương, kẻ mến đâu cả rồi? Không còn ai nương tựa. Chẳng một lời đáp lại. Chỉ còn biết kêu xin Mẹ và Con Mẹ đoái thương cứu vớt.
Mẹ Maria ân tình, Mẹ như ánh trăng chiếu bóng đêm, con lo chi vấp ngã khi Mẹ dìu dắt chúng con trên đường dù muôn khó nguy. Mẹ ơi hãy đưa con về, về quê dấu yêu, chốn ước mơ, con tin yêu dõi mắt theo Mẹ nhân ái, hãy thương con cùng, Mẹ Chúa Chí Nhân.
Mẹ tỏa sáng hơn ánh trăng rằm, đến nắm tay tín hữu, ân cần dìu qua thung lũng đầy nước mắt. Con há sợ chi nữa, khi được Mẹ đồng hành trên đường về quê Trời. Kính dâng lên Mẹ những đoa hồng đủ sắc màu. Cầu xin Mẹ luôn hiện diện cùng con trong lời nguyện cầu với Thiên Chúa, luôn phù hộ con đến với tha nhân, cũng như chăm sóc con luôn vững Tin Cậy Mến trong từng giây phút hiện tại.
Trên con đường về quê mà có bóng Mẹ, con vững một niềm tin, vững niềm cậy trông. Trên con đường về quê mà có bóng Mẹ, con vững một niềm tin, tiến lên bình an.
Hòa vào những hợp âm sâu lắng, nhẹ nhàng, du dương, kết hợp kỹ thuật phối khí nhuần nhuyễn của nhạc sĩ Minh Thụy, nhóm bè Tú Uyên – Cadillac cất lên điệp khúc thiệt da diết, thành khẩn, kết thúc lời cầu nguyện thiết tha khẩn cầu. Xin hiệp thông cùng.
(*)Trên Con Đường Về Quê, St Nguyễn Khắc Xuyên, Album Nguyễn Hồng Ân 10 Năm cùng Mẹ Hành Hương.

29. Lời kinh gần gũi cuộc sống
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Phụng vụ bước vào tháng Mân côi. Suốt tháng này, lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi. Mọi tín hữu được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng” qua từng lời kinh chuỗi hạt Mân côi. Tràng hạt Mân côi là một hành trang và là phương tiện “bỏ túi”, “đeo tay” “đeo cổ” gọn nhẹ. Lời kinh kỳ diệu này giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Kinh Mân côi không khác gì điện thoại di động hòa đời người vào mạng lưới sự sống thiêng liêng.
Chuỗi Mân Côi trong tiếng Latinh là “rosarium” nghĩa là “vườn hoa hồng”. Tháng 10, lần hạt Mân côi, đoàn con cái hiếu thảo dâng biết bao hoa hồng lên Đức Mẹ. Bằng chuỗi Mân côi, Giáo hội trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp tiến dâng Mẹ hiền.
Kinh Mân côi đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng
Chuỗi Mân côi thật cao quí, ai biết siêng năng lần hạt sẽ nhận được hiệu quả phi thường.
Vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.
Thế kỷ 16, ảnh hưởng của Tin lành mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Dân thành Luxembourg vẫn trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Nhờ kinh Mân côi, dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và trung thành với Giáo Hội.
Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân côi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người siêng năng lần chuỗi Mân côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới thô sơ, người Công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Roma, Đức Giáo hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức Giáo hoàng đã thiết lập lễ Mân côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.
Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.
Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan… Chuỗi Mân côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân côi.
Tạp chí Reader’s Digest số ra tháng 4 năm 1991 có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ Têrêxa Calcutta và một thương gia người Mỹ như sau:
Trên chuyến máy bay từ Chritiamy về Thanasity, thương gia trẻ tên là Jim Caiso ngồi kề bên Mẹ Têrêsa và một nữ tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người nữ tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng ngồi vào yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người nữ tu từ từ rút chuỗi ra khỏi áo và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người công giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người nữ tu. Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi: – Anh có thường lần chuỗi không?
Anh trả lời:- Thưa không.
Anh vừa trả lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói: – Vậy thì hãy bắt đầu lần chuỗi đi.
Ra khỏi phi trường Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: “Anh có cảm tưởng như mình đã gặp một nữ tu đích thực của Chúa”.
Chín tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết bà đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn. Anh nói: – Chị cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị.Mặc dù không phải là người Công giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà quí giá ấy. Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và giờ đây trao lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ cho người khác. Trong thời gian đó, người chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim. Sau này bà kể lại rằng: – Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu.Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi ấy.
Jim suy nghĩ: phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, sức mạnh tinh thần được canh tân nơi tất cả những ai mượn tràng chuỗi ấy. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh luôn đáp trả một cách vui vẻ, và lần nào anh cũng căn dặn: “Khi nào không cần nữa cho tôi xin lại. Có thể sẽ có người khác cần đến”.
Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gõ đó với Mẹ Têrêsa Calcutta. Khi Jim nhớ lại rằng: Mẹ Têrêsa mang tất cả hành lý của Mẹ trong cái xách tay nhỏ, anh cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của anh được đơn giản hơn. Anh nói như sau: – Tôi luôn cố gắng nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác.
2. Kinh Mân côi, một kho tàng quý giá của Giáo hội.
Chuỗi hạt Mân côi 200 hạt, 150 hạt, 50 hạt hay 10 hạt được dùng để đếm số Kinh Kính mừng là “…lời ca tụng Đức kitô không ngừng. Đức Kitô được nhắc đến trong mỗi Kinh Kính Mừng cũng là Đấng được trình bày trong chuỗi các mầu nhiệm: Người là Con Thiên Chúa và là Con Đức Trinh Nữ…” (ĐGH Phaolô VI, Rosamrum Virginis Mariae, số 18).
Chuỗi Mân côi lần lượt diễn tả:
– Mầu nhiệm Vui: đồng hành với mầu nhiệm Nhập thể và đời sống âm thầm của Chúa Giêsu.
– Mầu nhiệm Sáng: đồng hành với những mốc thời gian hoạt động đặc biệt có ý nghĩa trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.
– Mầu nhiệm Thương: đồng hành với những đau khổ của cuộc khổ nạn Chúa Giêsu.
– Mầu nhiệm Mừng: đồng hành với vinh quang phục sinh của Đức Kitô.
Vì thế, Chuỗi Mân côi là kho tàng thiêng liêng quý giá của Giáo hội.
Thánh Gioan Phaolô II nói: “ Chuỗi Mân côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó…”.
Đức Thánh Cha Lêô XIII là vị Giáo Hoàng của kinh Mân côi. Ngài đã ban hành 12 thông điệp nói về Kinh Mân côi. Ngài đã thiết lập tháng Mân côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ vương rất thánh Mân côi, cầu cho chúng con.
Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình được an vui hoà thuận, hãy lần chuỗi Mân côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chỗi Mân côi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông”.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân côi”.
Cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mân côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”.
Đức Thánh Cha Piô IX đã khuyên nhủ: hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình.
Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắc bảo: Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối.
Đức Thánh Cha Piô XI viết:Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Piô XII khuyên nhủ các bạn trẻ: Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi. Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, và xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục:
– Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày.
Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.
Thánh Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.
Thánh Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy”.
Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi. Các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi tha thiết ấy.
Đức Mẹ rất yêu mến những ai siêng năng đọc Kinh Kính Mừng. Qua kinh Mân côi, chúng ta lặp đi lặp lại không những một hai lần Kinh Kính Mừng, nhưng là đọc đi đọc lại cả một trăm năm mươi lần, như một trăm năm mươi đóa hoa hồng dâng kính Mẹ, như lời Đức Giáo Hoàng Piô V đã nói: “Đây là việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria bằng cách đọc một trăm năm mươi Kinh Kính Mừng, theo con số các thánh vịnh của Đavít, chia thành từng chục kinh một với một Kinh Lạy Cha, đồng thơi suy ngắm các mầu nhiệm về toàn thể cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô.”.
3. Kinh Mân côi, lời kinh gần gũi cuộc sống
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân côi”, một lần nữa, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Kinh Mân côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Ngày nay nhiều người phàn nàn không có giờ đọc kinh vì phải lo học hành, lo làm ăn xuôi ngược. Chuỗi hạt Mân côi sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Đức Giáo hoàng Phaolô VI khích lệ: “Bản chất việc đọc kinh Mân côi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và có thời gian thư thả, để người ta có thời gian suy gẫm sâu xa về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gũi nhất với Chúa.”.
Điều thuận lợi của chuỗi Mân côi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mân côi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có. Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mân côi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh … thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”.
Kinh Mân côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh.
Kinh Mân côi là một kinh quý báu của Giáo hội và của mọi người, đó là kinh phổ biến, vừa dễ đọc vừa dễ cầu nguyện mà lại mang lại nhiều ích lợi cho linh hồn.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến tràng Chuỗi Mân côi, siêng năng lần hạt trong mỗi ngày sống và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.

30. Kinh Mân Côi
Ngày 10.3.1615 tại Glascow, một vị thừa sai nổi tiếng, đó là cha Ogilive bị hành quyết vì tội rao giảng Phúc Âm. Trong giây phút cuối cùng đứng trên đoạn đầu đài, nhìn thấy hàng ngàn người đến xem, ngài muốn để lại cho họ một kỷ niệm, nên đã lấy cỗ tràng hạt của mình mà ném vào đám đông. Xâu chuỗi rơi trúng một ông hoàng nước Hung Gia Lợi đang trên đường du học và đã có một đời sống không mấy tốt đẹp. Ông hoàng này đã thực sự xúc động khi nhận lấy xâu chuỗi, và cũng nhờ xâu chuỗi, ông đã từ bỏ được nếp sống tội lỗi, trở nên một người đạo đức và yêu mến kinh Mân Côi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nhớ lại những mệnh lệnh của Mẹ tại Fatima. Đúng thế, vào năm 1917, Đức Mẹ đã hiện ra tại Fatima với 3 em nhỏ. Và qua 3 em nhỏ Mẹ đã truyền dạy chúng ta: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân Côi. Nếu suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy mệnh lệnh thứ ba bao gồm cả hai mệnh lệnh trên. Bởi vì nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến đối với Mẹ, đồng thời nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc cải thiện đời sống để mỗi ngày một trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã gọi kinh Mân Côi là hơi thở của mọi tâm hồn, là bông hồng thiêng liêng dâng kính Mẹ, là việc đạo đức thích hợp cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Và riêng chúng ta, nếu ngay từ bây giờ chúng ta siêng năng lần hạt, thì phần rỗi của chúng ta sẽ được bảo đảm chắc chắn như lời Mẹ đã nói về cậu bé Phanxicô tại Fatima như sau: Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.
Để kết thúc phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại một mẩu chuyện: Có một người nhà quê không biết chữ xin vào tu bậc trợ sĩ trong một nhà dòng. Được ít lâu, ông buồn phiền chán nản vì thấy mình không biết đọc sách để được hát kinh nhật tụng với mọi người. Ông cũng cố học nhưng vì đã có tuổi, nên học trước quên sau, chẳng chữ nào ra chữ nào. Sau một thời gian miệt mài, ông thấy rõ là mình bất lực nên bỏ học và chuyên tâm lần hạt. Ông thường xuyên phàn nàn với Đức Mẹ: “Vi không biết chữ, nên con chẳng ngợi khen Mẹ được nhiều hơn. Con không biết đọc sách nguyện như các thầy khác, thì Mẹ ráng chịu vậy”. Không chịu thua lòng đơn sơ thành thật của ông, Đức Mẹ đã hiện ra sáng láng đẹp đẽ với một chiếc áo choàng lộng lẫy, nhưng mới thêu được một nửa bằng những chữ vàng óng ánh: Kính mừng Maria… Ông đơn sơ hỏi: “Sao Mẹ mặc áo đẹp mà lại thêu dở dang như vậy?” Mẹ trả lời: “Đây là những kinh Kính Mừng con đọc hằng ngày để dâng kính Mẹ. Vì con mới đọc được có bằng ấy kinh, nên áo Mẹ còn dang dở như thế. Vậy con hãy cố đọc nhiều hơn nữa để chóng thêu xong tấm áo cho Mẹ. Khi nào xong, Mẹ sẽ đến để choàng cho con và dẫn con vào Nước Trời”. Nói xong Mẹ biến đi, để thầy dòng không biết chữ ở lại ngây ngất với những kinh Kính Mừng đã đọc.
Từ đó, chúng ta hãy thực hiện lệnh truyền của Mẹ bằng cách siêng năng lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày, để dâng lên cho Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, xin Mẹ sẽ nâng đở và phù trợ chúng ta luôn mãi.

31. Hiệu quả của Kinh Mân Côi
Trong một vài phút ngắn ngủi này tôi xin trình bày về những ơn lành mà chuỗi Mân côi đã đem đến cho nhân loại.
Trường hợp thứ nhất đó là vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp, thế nhưng với chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.
Trường hợp thứ hai đó là vào thế kỷ 16 ảnh hưởng của Tin lành trở nên mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Nhưng dân thành Luxembourg vẫn nhất quyết trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, thì một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Và như thế nhờ kinh Mân côi dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và sự trung thành với Giáo Hội.
Trường hợp thứ ba đó là vào thế kỷ 16, quân Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa và xâm chiếm Âu Châu, nhưng nhờ kinh Mân côi, đoàn chiến binh Công giáo, tuy ô hợp, nhưng cũng đã dành được chiến thắng tại Lépante. Chính vì thế, để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô 5 đã thiết lập lễ Mân côi hôm nay.
Trường hợp thứ tư, đó là vào thế kỷ 20. Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi, để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Và Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.
Cũng từ đó những sự đổi mới đã xảy ra. Tinh thần đạo đức thấm nhiễm vào các tổ chức xã hội. Ơn kêu gọi gia tăng, các tạp chí Công giáo phát triển và Giáo Hội bừng sống sau một thế kỷ tàn lụi. Chính các Đức giám mục Bồ Đào Nha, trong một bức thư chung đã xác quyết: Sở dĩ Bồ Đào Nha đã thay đổi tốt đẹp là do những lần Mẹ hiện ra tại Fatima và kinh Mân côi.
Nhìn vào hiện tại chúng ta thấy thế giới cũng đang trải qua những biến động và xáo trộn về kinh tế, chính trị và nhất là về tôn giáo. Mặc dù không có những cuộc bách hại gay gắt, mặc dù không có ảnh hưởng của các bè rối, nhưng có một đe dọa khác tệ hại hơn, đó là những học thuyết, những trào lưu tư tưởng, những thể chế chính trị chối bỏ Thiên Chúa, đả phá tôn giáo mỗi ngày một bành trướng, khiến cho một số người không nhỏ xa lìa đức tin. Để nhân loại được hòa bình, để thế giới được an vui, để Giáo Hội được phát triển, chúng ta không có một phương pháp nào hơn là phương pháp mà Mẹ đã truyền dạy, đó là hãy siêng năng chăm chỉ lần hạt Mân côi.

32. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
MARIA, NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ
Bài Tin Mừng tường thuật cuộc truyền tin kết thúc bằng hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Với hai tiếng “Xin Vâng”, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi. Từ nay Mẹ không còn sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Mẹ kết hiệp chặt chẽ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng tôn sùng và thực hành bí tích Thánh Thể.
Thật vậy, với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể. Khi đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của bào thai Mẹ được diễm phúc cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa. Như thế, Mẹ khuyên dạy ta khi đón nhận Mình Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận Thịt Máu của Chúa Giêsu.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, tâm hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp, cất giữ Chúa Giêsu Thánh Thể. Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung lòng thanh khiết của Mẹ là một đền thờ nguy nga lộng lẫy. Hơn nữa việc luôn ghi nhớ và suy niệm những điều thiên thần nói, giúp Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu trong lòng, biến Mẹ thành một người chầu Mình Thánh liên tục. Như thế Mẹ khuyên dạy ta hãy năng chầu Mình Thánh Chúa.
Sau khi thưa “Xin Vâng”, Mẹ vội và lên đường đi viếng bà thánh Elizabeth. Đây chính là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn trống, không đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi ích phi thường: đem ơn cứu độ đến cho ông thánh Gioan Baotixita còn trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn đầy niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.
Nhưng cũng với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu. Từ khi còn trong bào thai cho đến khi sinh ra trong hang đá Bêlem. Từ khi ấu thơ cho đến khi hoạt động công khai. Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem nói lên sự gắn bó mật thiết. Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống. Mẹ không thể sống nếu thiếu vắng Chúa. Với lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu mến đến khao khát Chúa. Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người biết vâng lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân: “Người bảo gì các con hãy cứ làm theo” (Ga 2,5). Thái độ hoàn toàn vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép lạ “nước lã hóa thành rượu ngon”. Hôm nay Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22-19), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ, chầu MTC, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã thành rượu ngon.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên đường lên Núi Sọ và đứng dưới chân thánh giá để nên một với Chúa Giêsu trong việc dâng hiến chính bản thân mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền tội cho nhân loại. Ở đây Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình cho nhân loại. Như Chúa Giêsu, tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh bẻ ra ban cho nhân loại sự sống mới. Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu mọi đau đớn, vất vả trong đời sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Việc kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Và với hai tiếng “Xin Vâng”, một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan làm con. Nhận thánh Gioan là nhận cả nhân loại làm con. Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể khi hiệp nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào gia đình mình, đón tiếp mọi người vào đồng bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong bữa tiệc Nước Trời. Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu thương đoàn kết vì tất cả chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén với nhau. Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân thể của Chúa. Tuy năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là việc sống bí tích Thánh Thể vẫn tiếp diễn. Đặc biệt trong tháng Mân Côi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ, ta càng phải yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu gương yêu mến Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã gọi Mẹ là “Người Nữ Thánh Thể”. Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mân Côi, chắc chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả các mầu nhiệm trong kinh Mân Côi đều hướng về Chúa Giêsu. Và mầu nhiệm 5 Sự Sáng đưa ta trực tiếp tới bí tích Thánh Thể. Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh Thể. Vì như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào, hôm nay, trước Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy.
Lạy Mẹ Mân Côi, xin dạy con biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Lời “Xin Vâng” của Đức Mẹ biểu lộ niềm tin. Bạn có giữ vững được niềm tin trong những lúc gặp thử thách để thưa “Xin Vâng” với Chúa trong đau khổ không?.
2) Gia nhân đã vâng lời Đức Mẹ “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” nên đã múc nước lã mà không hiểu gì. Bạn có sẵn sàng vâng lời Chúa làm những việc mà bạn không hiểu?
3) Khi hiện ra ở Fatima, Đức Mẹ đã mời gọi ta thực hiện 3 điều. Bạn có sẵn sàng “Xin Vâng” để thực hiện không?

33. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống:
“Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.
2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?
3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?

34. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trên một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:
– Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?
Cụ già điềm nhiên trả lời?
– Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
– Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.
Cụ gia bình tĩnh hỏi người sinh viên:
– Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
– Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.
Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: “Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học Paris”.
Anh chị em thân mến,
Louis Pasteur là một nhà bác học thời danh của viện nghiên cứu khoa học Paris. Cuộc đời nghiên cứu khoa học của ông gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện với tràng chuỗi Mân Côi. Ngược lại, con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay chỉ đề cao tính thực dụng, đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ thể, tức thời, giải đáp những nhu cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với việc cầu nguyện, cho rằng cầu nguyện chẳng mang lại cái gì cụ thể cho cuộc sống, chỉ thấy mất thời giờ, nếu không cho là chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.
Nếu việc cầu nguyện nói chung bị quên lãng như thế, thì hình thức cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi lại càng khó khăn nhiều hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực hành với niềm tin tưởng có vẻ ma thuật, phù phép sẽ không còn thu hút nổi người ngày nay, nhất là giới trẻ. Họ chỉ thấy đó là công việc tẻ nhạt, mất thời giờ và hoàn toàn máy móc. Có người lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ rằng đó là việc đạo đức của các bà già và con nít!
Chính vì vậy, cần phải đổi mới việc lần chuỗi Mân Côi. Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ khám phá nội dung và giá trị Tin Mừng của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã không ngừng nhắc đến kinh Mân Côi là một kinh bản chất Tin Mừng, là kinh Tin Mừng, là bản tóm lược Tin Mừng. Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng ấy không nơi nào được vang lên với tất cả niềm hân hoan phấn khởi cho bằng lời kinh “Ave Maria” mà chúng ta đọc là “Kính Mừng Maria” thay vì trong nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là “Hãy vui lên, Maria!” khi thiên sứ loan báo Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong hy vọng, giờ đây được thực hiện nơi người thiếu nữ Sion mang tên Maria, vì Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi Ngài ơn cứu độ được hoàn thành. Vì thế, Maria được ban một tên mới: “Hãy vui lên, Người đầy ơn phúc” là tên mới của Đức Mẹ. Đọc lên lời kinh “Kính mừng Maria” là reo lên niềm vui ơn cứu độ. Ơn cứu độ mà chúng ta được hội nhập vào, khởi đi từ lòng Thiên Chúa thương xót và thông qua thái độ đầy tin tưởng, cậy trông của Đức Maria.
Nội dung Tin Mừng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, từ khi giáng sinh đến cuộc sống, lời rao giảng, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi Mân Côi là bản tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu với những biến cố chính yếu nhất: “Từ khi thụ thai và những mầu nhiệm của thời thơ ấu cho đến giờ phút cao điểm của biến cố Vượt Qua cuộc Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang – và cho đến hồng ân tuôn đổ xuống trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần cũng như trên Đức Trinh Nữ trong ngày kết thúc cuộc hành trình trần gian đã được đưa cả xác hồn về quê hương thiên quốc” (MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là bản tóm lược Tin Mừng.
Anh chị em thân mến,
Khi lần chuỗi Mân Côi cùng với lời kinh Kính Mừng Maria được lặp đi lặp lại như một điệp khúc vui, chúng ta được mời gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo những biến cố của cuộc đời của người Con yêu dấu: những tâm tình khiêm nhu, nghèo khó, yêu thương, vâng phục, tín thác… Đây là những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải quay về với Tin Mừng, phải đọc lên trong lòng bản hiến chương Nước Trời, nơi đó, những kẻ nghèo khóc, hiền lành, đau khổ, trong sạch, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình… được công bố là kẻ có phúc, là con Thiên Chúa, là kẻ chiếm lãnh Nước Trời. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời của Đức Maria, mới nhận ra vẻ đẹp sáng ngời vốn chỉ là tăm tối đối với thế gian. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria và qua Ngài thêm một lần xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng, những giá trị mà tất cả những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô không thể không biết đến và lấy làm lẽ sống cho đời mình.
Nói rằng chuỗi Mân Côi là kinh Tin Mừng, ngay lập tức chúng ta đi đến hệ luận: không thể lần chuỗi Mân Côi cách máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một lẽ đơn giản và minh bạch là Tin Mừng không chấp nhận thái độ đó. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Khi cầu nguyện thì các ngươi chớ lãi nhãi như người ngoại. Họ tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhận lời” (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi Mân Côi với tinh thần của Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức Maria: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19; 2,51). Đó là biết lắng nghe Lời Chúa, suy niệm và thi hành.
Thưa anh chị em,
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria làm lại cuộc hành trình của cuộc sống. Cùng với Đức Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và qua những biến cố đó, nhìn vào những biến cố hôm nay, của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong hành động cụ thể, trong những lựa chọn đầy can đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời mình vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình cùng với Đức Maria vào nẻo đường của Thiên Chúa.

Xem thêm :  Ảnh mưa buồn đẹp ❤️ kho hình mưa rơi buồn cô đơn nhất

35. Tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời
(Suy niệm của Lm. Vinh Sơn Trần Minh Hòa)
1. Vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Các cụ ngày xưa hay dạy con cháu trong việc giữ đạo rằng: tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời. Ở đây, các cụ không ngụ nói việc đeo hay trưng bày tràng chuỗi Mân Côi nhưng là việc cầu nguyện bình dân bằng Mân Côi trong đời sống người kitô hữu. Tại sao việc lần chuỗi Mân Côi mang đến một hiệu quả cao siêu như vậy? Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Thật vậy, các bài đọc phụng vụ hôm nay cho thấy, Đức Mẹ có vai trò đặc biệt trong chương trình cứu độ. Bài sách công vụ cho biết Mẹ Maria có chỗ đứng quan trọng trong Hội Thánh sơ khai. Mẹ là thành phần của Hội thánh nhưng là thành phần trổi vượt. Sau biến cố Chúa tử nạn, phục sinh và lên trời của Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã giúp Hội thánh khỏi những khó khăn ban đầu qua hành vi chuyên cần cầu nguyện chung với các tông đồ (x. Cv 1,14). Mẹ Maria đã trở nên mẫu gương cầu nguyện cho mọi người noi theo.
Tiếp đến, thư Galát đã gián tiếp nhắc đến vai trò của Đức Maria trong chương trình cứu độ. Thiên Chúa muốn cứu độ con người nhưng lại chấp nhận một phương thế rất khiêm hạ. Đó là chấp nhận cho Con mình là Chúa Giêsu sinh làm con một người trinh nữ, là Đức trinh nữ Maria. Chúa Giêsu đã đến để chuộc những ai sống dưới lề luật, để mỗi người được làm con Chúa. Nhờ Mẹ Maria chấp nhận làm mẹ Chúa Giêsu mà mọi người có cơ hội được làm con Thiên Chúa và có thể kêu lên với Chúa là Apba có nghĩa là Cha ơi.
Cuối cùng, bài Tin Mừng theo thánh Luca đã trình thuật biến cố truyền Tin. Đức Maria được Thiên thần Gariel chào chúc là Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Mẹ Maria được chào chúc như vậy bởi vì Mẹ đã và đang sống đẹp lòng Chúa, đang sống theo ý Chúa và nhất là Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ Chúa Giêsu, ngôi lời Thiên Chúa nhập thể. Mẹ càng đẹp lòng Thiên Chúa hơn nữa khi Mẹ thưa lời xin vâng với sứ thần: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Chính giây phút thưa lời xin vâng, Mẹ Maria đã trở thành Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Thưa lời xin vâng, Mẹ đã chấp nhận liên đới mật thiết với Chúa Giêsu khi thành công cũng như chuỗi ngày thất bại, khi chia vui với thực khách ở tiệc cưới Cana cũng như lúc sẻ buồn với Chúa Giêsu và Hội thánh ở trên núi sọ. Mẹ cũng liên đới mật thiết với Hội thánh vì khi nhận lời trăng trối của Chúa Giêsu trên thập giá, Mẹ đã nhận thánh Gioan, đại diện cho toàn thể Hội thánh là con của mẹ. Nhờ thế, Mẹ đã hiệp công cứu chuộc với Chúa Giêsu con Mẹ trong chương trình cứu độ. Mẹ có sức chuyển cầu hiệu quả cho những ai cậy trông vào Mẹ, cách riêng cho những ai chuyên chăm lần chuỗi Mân Côi.
2. Tràng chuỗi Mân Côi đưa tôi về trời.
Lần chuỗi Mân Côi là việc đạo đức bình dân không xếp trên thánh lễ, các bí tích và giờ kinh phụng vụ vì các việc trên là phụng vụ và là việc tôn thờ chính thức của Hội thánh. Tuy nhiên, việc lần chuỗi Mân Côi lại có một hiệu quả đặc biệt cho ơn cứu độ của mỗi người. Tại sao như vậy? Trước hết, Đức Maria có thế giá đặc biệt khi chuyển cầu cho con cái mình và kinh Mân Côi là lời Kinh được chính Đức Mẹ tỏ bày cho con cái mình. Vào thế kỷ 12, thánh Đaminh đã được Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc giáo Anbidoa Miền Nam nước Pháp. Nhờ phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh Dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V đã tránh được làn sóng xâm lược của đạo quân Hồi giáo tại vịnh Lêpăng vào đầu thế kỷ 16. Vào đầu thế kỷ 20, trong biến cố ở Fatima, Mẹ Maria đã khuyên dạy con cái mình siêng năng lần hạt Mân Côi để thế giới được hòa bình, mọi người được bình an.
Kế đến, lời kinh Mân Côi là bảng tóm Phúc Âm. Đây là kinh nguyện đầy nét Thánh Kinh được tập trung vào mầu nhiệm Nhập Thể cứu chuộc, chuỗi Mân Côi hướng rõ ràng về Đức Kitô. Thật vậy, kinh kính mừng là lời ca tụng Đức Kitô không ngừng: Kính chào bà đầy ơn phúc và con lòng bà gồm phúc lạ. Kinh lạy cha là kinh chính Chúa Giêsu dạy để các tông đồ và người tín hữu biết cầu nguyện. Các ngắm vui, thương mừng, sáng diễn tả cô đọng mầu nhiệm của Chúa Giêsu từ khi sinh ra cho tới khi hoàn tất chương trình cứu độ và các ý nguyện giúp người đọc sống theo gương Chúa Giêsu. Kinh sáng danh là lời vinh tụng ca tuyên xưng một Chúa Ba Ngôi cả sáng: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.
Cuối cùng, kinh Mân Côi là kinh dễ thực hành cho mọi tín hữu trong mọi hoàn cảnh phù hợp cho một em bé cũng như cho cả Đức Giáo Hoàng. Đức chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ kinh nghiệm của Ngài trong việc thực hành kinh Mân Côi được trích trong tông huấn Rosarium Virginis Mariae như sau: “Chuỗi Mân Côi là lời kinh tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó …Đã bao nhiêu năm qua, tôi đã lãnh nhận không biết bao nhiêu ân sủng từ Đức Trinh Nữ nhờ kinh Mân Côi”.
Ước mong mỗi khi chúng ta tin nhận thế giá bầu cử của Mẹ trong chương trình cứu độ. Chúng ta năng chạy đến Mẹ qua lần chuỗi hằng ngày, để chính Mẹ giúp mỗi người ngày càng gắn bó và yêu mến Chúa Giêsu hơn.

36. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu
(Trích trong ‘Từng Bước Một Thôi’ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ”.
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân Côi”, một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.
Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.
Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.
2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.
Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”, rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng” đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
“Ad Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.
3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh
Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù “ma quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên thánh, mến Chúa, yêu người”.
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà “tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện “bỏ túi” (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.

37. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc 1,26-38)
(Trích trong ‘Nút Vòng Xoay’ – ĐGM. Giuse Vũ duy Thống)
Chiều qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô Khó Khăn của một người bạn là cha của một gia đình một vợ ba con. Đúng lúc gia đình vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng, đứa gái út đã nhanh nhẩu chỉ cho tôi chiếc áo mới màu xanh nước biển đang mặc và khoe rằng hôm nay nó là Việt kiều Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì thì nó đã liến thoắng đố tôi hôm nay trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt nhìn một vòng nhưng chẳng thấy có gì khác nên đành chịu. Con bé lí lắc đã chẳng giữ kín được câu đố của mình nên đã nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia đình nó hôm nay mỗi người mặc một màu áo: bố màu trắng người Châu Âu, mẹ màu vàng người Châu Á, chị hai màu đỏ người Châu Mỹ, còn anh ba màu xanh lá người Châu Phi. Cả gia đình là năm châu, là thế giới.
Thấy tôi vẫn ngẩn người chưa hiểu, anh bạn tôi đã phải giải thích: chả là vào tháng Mân Côi, má xấp nhỏ muốn làm một chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi người mỗi ngày đọc một chục, năm người thành năm chục, năm chục năm màu năm châu là sáng kiến của Đức Giám Mục Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo minh họa là sáng kiến của con út nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi người cười vui. Và khởi đi từ niềm vui ấy, tôi miên man suy nghĩ: Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối.
1) Kết nối với Đức Maria.
Bởi Kinh Kính Mừng là nối kết lời thiên thần Gabriel chào Đức Maria trong buổi Truyền Tin với lời mừng của bà Êlisabet trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được lặp lại đã trở thành lời chào mừng chính thức cho sự kết nối giữa con người với Đức Maria.
Sự kết nối ấy là kết nối với một cá nhân khi đối diện với mầu nhiệm của Thiên Chúa chỉ dám nhận mình là một tôi tớ, nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là một dung hòa tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của Thiên Chúa và đàng khác là nỗ lực của con người, nghĩa là nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm ẩn, chỉ đến khi có sự đáp trả cộng tác bằng lời “xin vâng” thì ơn phúc kia mới lộ hiện.
Nhưng “xin vâng” không chỉ bằng lời mà là bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên hành trình đức tin bên cạnh Chúa Giêsu.
Sự kết nối ấy là một sự “nối mạng”, nghĩa là kết nối vào một vận mạng. Đức Maria trong vinh quang hiện tại không những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh Kính Mừng, một tâm tình hiệp thông gắn bó nảy sinh, rất linh động như dòng chảy hai chiều đi đi về về giữa Đức Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức Maria, rất tự nhiên như tình mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn nhưng cũng đầy trách nhiệm những khi kêu cầu.
2) Kết nối với Chúa Giêsu.
Nếu đối tượng trực tiếp của Kinh Mân Côi là kết nối với Đức Maria qua những chặng đường mầu nhiệm đời Mẹ, thì hành trình cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được dẫn tới đích điểm là kết nối với Chúa Giêsu.
Có một điều ngạc nhiên đến thú vị là nếu có ai hỏi ta Đức Maria có lần hạt không, ta sẽ trả lời khẳng định: Đức Maria cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở Fatima, Mẹ đều lần hạt với con cái mình. Điều này cho thấy người ta không chỉ lần hạt kết nối với Mẹ nhưng còn cùng với Mẹ lần hạt kết nối với Chúa Giêsu nữa.
Chính kết cấu của Kinh Kính Mừng cũng muốn nói lên điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”, nghĩa là kết nối với Mẹ để được nối kết với Con của Mẹ, kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với Chúa Giêsu. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.
Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui, Thương, Mừng như cách gọi truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Thương trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức Giêsu chịu chết chuộc tội cho cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh Đức Giêsu bước vào vinh quang mở ra tương lai cho mọi sinh linh.
Đây là sự kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu nó, kết nối với Đức Maria dẫu có vẫn còn lỏng lẻo, chưa có nó kết nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần thiết.
3) Kết nối với mọi người trong Chúa Kitô nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Thực ra đây là hệ lụy tất nhiên của hai mối kết nối nói trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau, nhưng chính ở đây lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin tưởng hy vọng cho tất cả những ai lần hạt Mân Côi.
Với Kinh Mân Côi, tín hữu nhận biết người Ấn Độ là anh em của mình, người Châu Âu sung túc cũng nhận ra người Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh cảm nhận hơn nữa người Thượng gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt ở nhà thờ, gia đình, trên đường……? Tại sao ai cũng lần hạt được, từ giáo sĩ đến giáo dân, từ trí thức đến nông dân, từ em thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình đẳng phổ cập, chẳng những phù hợp với mọi người mà còn củng cố hiệp thông với mọi người. Buồn hay vui người ta đều lần hạt, đám cưới thì lần hạt xin hạnh phúc đời này, còn đám tang thì lần hạt xin hạnh phúc đời sau.
Nếu Kinh Mân Côi có được xem là vũ khí thì vũ khí ấy lại là tình thương san sẻ có sức mạnh gắn hàn liên kết hiệp thông. Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho nhau sứ điệp Tin Mừng như lễ Mân Côi hôm nay theo lịch sử là ghi dấu chiến thắng Lépante năm 1571 giữa Hồi Giáo và Công Giáo, nhưng theo tinh thần lại là ghi dấu một sức mạnh khi mọi người hiệp thông trong Kinh Mân Côi.
Trình bày Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối không có tham vọng đem lại cái gì mới mà chỉ muốn lặp lại ý muốn của Đức Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong mối hiệp thông. Để với những ai đã quen lần hạt hằng ngày, xin được kiên trì. Kinh Mân Côi giúp nối mạng tâm linh cho tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng, nhanh chóng. Kinh Mân Côi còn là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi nơi.
Một lần làm phép xâu chuỗi cho bà cụ và cô gái, thấy họ kính cẩn trong cách trao và nhận, tôi chỉ vào túi mình và nói với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả đều cười vui. Mong rằng không chỉ có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn nhiệm vụ, mà còn có chuỗi kinh biết hiệp thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau.

38. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng
(Trích trong ‘Với Cả Tâm Tình’ của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.
1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan trọng và chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa. Phần chìm ấy là tiếng “Xin Vâng”.
“Xin Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa. “Xin Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi. “Xin Vâng” là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. “Xin Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.
Rõ ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ Chúa Trời”, thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức. Do đó, danh hiệu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan “Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội” một cách chân tình với lòng trông cậy.
Bên kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có tội” là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin “Thánh Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.
3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.
Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.
Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu “Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng”, để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.
Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.

39. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuđa cảm thấy chán nản thất vọng đến độ không còn tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa nữa. Ông cầm lấy 30 đồng bạc là giá bán Chúa đi vào đền thờ và nám trả lại cho các Thượng tế và Kỳ lão. Sau đó ông đi thắt cổ tự tử. Câu chuyện này đã đi vào lịch sử của dân làng Oberammergau ở Đức. Cứ 10 năm một lần theo lời thề của cha ông để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Trong cảnh Giuđa ra ngoài ngồi than thở: “Tôi đã phản bội Thầy tôi. Tôi không biết chạy đến với ai nữa!”
Khán giả ở dưới im lặng theo dõi, một em bé ngồi bên cạnh mẹ, thông cảm cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng, em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em quay sang mẹ và nói lớn đến nỗi tất cả khán giả trong hội trường đều nghe thấy:
“Mẹ ơi, sao ông ta không chịu chạy đến với Mẹ Maria?”.
Thưa anh chị em,
Phải chi Giuđa mà biết chạy đến với Mẹ Maria, hẳn là ông đã không thắt cổ tự tử. Hãy nhờ Mẹ Maria mà đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng có một người mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối mẹ, những lần sà vào lòng mẹ, hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm bản thân ấy đã trở nên bài học mà Ngài muốn nhắn gởi chúng ta: “Hãy chạy đến với Mẹ Maria”.
Tràng chuỗi Mân Côi là một phương thế giúp chúng ta chạy đến với Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình không được an vui hòa thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hòa thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hóa bạn mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông…”.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quãng trường Thánh Phêrô khi đọc Kinh Truyền Tin rằng: “Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlizabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy. Người ta có thể nói rằng: Kinh Mân Côi là kinh chú giải chương cuối cùng của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vatican II, chương bàn đến sự hiện diện tuyệt vời của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô diễn ra trước mắt chúng ta. Những biến cố ấy bao gồm toàn bộ các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng và chúng ta hiệp thông sống động với Chúa kitô nhờ Mẹ Maria. Đồng thời, chúng ta có thể đưa kinh Mân Côi vào tất cả những biến cố trong cuộc sống hằng ngày của từng cá nhân, từng gia đình, xã hội, Giáo Hội và toàn thể nhân loại, những biến cố của chính bản thân của anh chị em chung quanh, nhất là với người thân yêu sống gần gũi với chúng ta. Như thế, kinh Mân Côi đơn sơ này sẽ rập theo nhịp sống của con người” (Gioan Phaolô II, 29.10.1978).
Trong Tông Huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: “Kinh Mân Côi là kinh Tin Mừng”. Là kinh Tin Mừng không chỉ ở chỗ lời kinh Lạy Cha, Kính Mừng được chấp nối bằng những lời lẽ trong Thánh Kinh, nhưng nhất là vì lời kinh ấy đưa chúng ta vào nội dung chính yếu của Tin Mừng là mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Vì thế, đối tượng cốt yếu của chuỗi Mân Côi không phải là mầu nhiệm Đức Maria, nhưng là mầu Chúa Giêsu, trải dài từ tiếng khóc Bêlem đến nỗi đau thập giá và niềm vui phục sinh, đến ân huệ Thánh Thần. Cùng với cuộc sống ấy là những giá trị căn bản của Tin Mừng được xác quyết: yêu thương, nghèo khó, khiêm nhường, từ bỏ… những giá trị “nên xác thịt” nơi con người Chúa Giêsu và là tiếng mời gọi được gởi tới cho tất cả mọi người.
Trên nẻo đường Tin Mừng ấy, lại có sự hiện diện của Đức Maria, một người Mẹ đầy tình mẫu tử và cũng là người môn đệ ấy đã thông điệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trong suốt cuộc đời: từ khi sinh ra đến khi chứng kiến cái chết trên thập giá, sống lại và lên trời. Chuỗi Mân Côi đưa người tín hữu vào suy niệm về những đoạn đường Chúa đã đi qua với sự hiện diện của Mẹ Maria trong những đoạn đường ấy.
Như thế, thưa anh chị em,
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria và qua Mẹ Maria, chúng ta thêm một lần xác tín và xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ và qua những biến cố ấy, chúng ta nhìn lại những biến cố hôm nay của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong những lựa chọn can đảm, trong hành động cụ thể như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Chính như thế đó, Thánh Đaminh đã biến chuỗi Mân Côi thành phương thế loan báo Tin Mừng. Nhờ đó nhiều người đã thoát khỏi sự lầm lạc do bè rối Albigeois gây ra và đã trở về với Giáo Hội.
Cũng chính như thế đó, Đức Gioan XXIII đã lần chuỗi Mân Côi như phương thế nuôi dưỡng đời sống mục tử của ngài.
Đối với chúng ta cũng thế, không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời chúng ta vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình -cùng với Mẹ Maria- vào nẻo đường của Thiên Chúa. Hãy chạy đến với Mẹ Maria để nhờ Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu.

40. Mẹ Đầy Ơn Phước – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giờ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính mừng Maria, hãy vui lên, Maria”. Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúa Mẹ Maria qua kinh Kính Mừng “Kính Mừng Maria đầy ơn phước” chúng ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa”. Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria:
“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa
Abraham và con cháu ông”.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”, Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”, giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
“Hỡi Maria, đừng sợ”, kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
“Lạy Cha là Chúa tể trời đất,
Chúng con chúc tụng Cha
Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan kiêu ngạo
Nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn
Cha đã chọn Mẹ Mari để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con,
Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria
Đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay
Và nhân danh Chúa Giêsu Kitô,
Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con”.
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.

41. Phương thuốc thần diệu
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Mọi tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và E-và đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.
Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân… “ (Rôma 5, 19)
Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giêsu chính là “đầu tàu” nầy: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính”. (Rm 5, 19)
Tràng chuỗi Mân Côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.
* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.
Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.
Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Theo gương vâng phục của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất… (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: “Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: “Xin cho ý Cha thể hiện”.
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ ‘vương miện’, chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười… (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: “Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha”.
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm.(Luca 23, 34)
Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu…” (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính. (Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa Giêsu dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! “ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).

42. Kinh Mân Côi và Phúc Âm
(Lc 11,15-26)
Kinh Mân Côi là một việc đạo đức xuất phát từ Phúc Âm. Đúng thế, trước hết là những lời kinh chúng ta đọc. Kinh lạy Cha là gì nếu không phải là lời kinh chính Chúa đã truyền dạy cho các môn đệ.
Còn kinh kính mừng là gì nếu không phải là lời chào của sứ thần Gabriel và của bà Elisabeth, đã được Phúc Âm ghi lại. Nhưng điều quan trọng hơn là những mầu nhiệm chúng ta suy gẫm, tóm lược toàn bộ Tin Mừng và cuộc đời của Chúa.
Có một thời người ta đã không lần hạt như ngày nay, thay vì 15 mầu nhiệm, người ta đã suy gẫm tới 150 mầu nhiệm, nghĩa là mỗi kinh kính mừng tượng trưng cho một mầu nhiệm, từ khi sứ thần Gabriel truyền tin cho đến ngày vinh quang của Mẹ Maria, cũng như cho đến ngày tận thế. Chắc hẳn như vậy cũng khí thái quá, làm cho kinh Mân Côi trở nên phức tạp và dài dòng.
Ngày nay chúng ta qui tụ lại thành 15 ngắm, tượng trưng cho 15 mầu nhiệm, 15 biến cố chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu và chúng ta có thể xác quyết: Kinh Mân Côi chính là một bản tóm lược Tin Mừng và cuộc đời của Chúa. Hay nói cách khác, đó chính là lịch sử ơn cứu độ được Thiên Chúa ươm mơ và thực hiện trong dòng thời gian. Với một nội dung như thế, kinh Mân Côi sẽ dẫn chúng ta đến với Tin Mừng, vì vậy kinh Mân Côi không phải chỉ là một lời kinh chúng ta đọc trợt trạt ngoài miệng, nhưng còn là một lời kinh để cho chúng ta suy gẫm, nhiều người hẳn đã rùng mình khiếp sợ. Nhưng thực sự đây là một việc làm hết sức đơn giản và dễ dàng. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến những mầu nhiệm, mường tượng ra những biến cố, những hình ảnh như khi chúng ta đi chặng đàng thánh giá. Dĩ nhiên không đòi buộc chúng ta phải suy nghĩ từng chữ hay từng lời chúng ta đọc, mà chỉ cần tưởng nhớ đến những sự kiện mà mỗi ngắm đã gợi lên. Cũng không cần phải dừng lại lâu giờ nơi mỗi ngắm, vì đây không phải là một giờ nguyện ngắm, một giờ suy niệm theo đúng nghĩa của nó.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ, chẳng hạn chúng ta chỉ cần mường tượng ra Chúa Giêsu vai vác thập giá, lần từng bước tiến lên đỉnh đồi Canvê, đồng thời chúng ta hãy nghĩ tới thập giá cuộc đời chúng ta là những hy sinh, những gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Và như vậy cũng đã đủ lắm rồi.
Chúa Giêsu không phải là một ông chủ hà khắc, xét đoán dựa vào những kết quả đã thu lượm được. Trái lại, Ngài là một người Cha nhân từ, Ngài chỉ cần nhìn thấy thiện chí và sự cố gắng của mỗi người chúng ta. Như vậy không có nghĩa là bảo chúng ta không cần tiến tới sự trọn lành và thánh thiện.
Sau cùng, kinh Mân Côi còn là một lời kinh thích hợp với thời đại chúng ta. Trong đời sống không ai trong chúng ta lại chán cơm. Nếu chúng ta chán cơm thì đó là dấu chỉ chúng ta đau yếu hay sắp chết. Cũng vậy, trong đời sống siêu nhiên, chúng ta không ngừng lập lại lời kinh Lạy Cha và kinh kính mừng để lấy lại sức sống cho tâm hồn.
Bởi đó, hãy siêng năng lần chuỗi để nhờ đó chúng ta có đủ sức chịu đựng những khổ đau và thắng vượt được những cám dỗ trong cuộc sống.

43. Tôi là nữ tỳ của Chúa
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35).
Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo.
Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương.
Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30).
Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu.
Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô” (c.35).
Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư.
Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con.
Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối.
Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được.
Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác.
Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có.
Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời.
Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin.
“Phúc cho em là kẻ đã tin…” (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không?
Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ, tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một người hay một biến cố trong cuộc sống không?
Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.

44. Chuỗi Mân Côi
1. Suy niệm về tràng chuỗi Mân Côi
Mân Côi là một bộ kinh để cầu nguyện với Mẹ Maria gồm 200 kinh Kính Mừng, vừa đọc vừa suy gẫm 20 biến cố quan trọng xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu và Mẹ Maria. Cứ đọc 10 kinh Kính Mừng thì đồng thời suy gẫm một biến cố. 20 biến cố ấy được chia làm 4 nhóm:
a) Năm sự vui: gồm 5 biến cố trong cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu.
b) Năm sự sáng: gồm 5 biến cố trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu.
c) Năm sự thương: gồm 5 biến cố trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.
d) Năm sự mừng: gồm 5 biến cố vinh quang (Đức Giêsu phục sinh và lên trời, Thánh Thần hiện xuống, Thiên Chúa ân thưởng và tôn vinh Mẹ Maria).
20 biến cố ấy là những biến cố cốt yếu trong Tin Mừng, nên có người nói chuỗi Mân Côi là một Tin Mừng được tóm gọn. Vì thế, đọc kinh Mân Côi hay lần chuỗi là một hình thức đặc biệt để suy gẫm Tin Mừng, theo kiểu miệng đọc tâm suy. Miệng thì đọc các kinh Kính Mừng kính Mẹ Maria, tâm thì suy niệm những biến cố của Tin Mừng, chủ yếu là những biến cố quan trọng của cuộc đời Đức Giêsu. Như thế, đọc kinh Mân Côi không chỉ là cầu nguyện với Mẹ Maria, mà còn là suy gẫm về Đức Giêsu và cầu nguyện với Ngài.
Trong kinh Mân Côi, ta thấy có sự liên kết hết sức chặt chẽ giữa Đức Giêsu và Mẹ Maria. 20 biến cố của kinh Mân Côi đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới Mẹ Maria. Chẳng hạn các biến cố của năm sự thương có vẻ như chỉ là biến cố của Đức Giêsu, nhưng trong thực tế Mẹ Maria luôn luôn theo dõi hoặc có mặt một cách âm thầm trong đó. Những biến cố ấy ảnh hưởng rất sâu đậm đối với cuộc đời Mẹ, và một cách nào đó cũng là những biến cố quan trọng trong cuộc đời Mẹ. Những đau khổ của Đức Giêsu đều trở thành đau khổ của Mẹ, vì thấy người mình yêu bị đau khổ, và vì không ai yêu Đức Giêsu bằng Mẹ. Trong những đau khổ ấy, Mẹ cũng đau khổ không kém gì Đức Giêsu, chỉ khác ở chỗ người đau khổ trong thực tế, còn người đau khổ trong tâm hồn.
2. Tại sao Mẹ Maria chỉ cho chúng ta cách cầu nguyện bằng kinh Mân Côi?
Truyền thuyết trong Giáo Hội cho rằng kinh Mân Côi đã được chính Mẹ Maria truyền dạy cho thánh Đa-minh, và khi hiện ra tại Fa-ti-ma (Bồ Đào Nha), Đức Mẹ cũng khuyên các Ki-tô hữu năng lần chuỗi Mân Côi. Chắc chắn Mẹ Maria không vì muốn người ta ca tụng tung hô mình mà khuyên họ tôn sùng trái tim mình và năng đọc kinh Mân Côi. Và cũng chắc chắn rằng không phải hễ ai ca tụng Mẹ, năng đọc kinh Mân Côi thì Mẹ sẽ đặc biệt ưu ái đối với người ấy vì người ấy ca tụng Mẹ. Nếu Mẹ Maria khi còn sống đã khiêm nhường hết mực, thì khi lên trời và làm Nữ Vương thiên đàng, chắc chắn Mẹ cũng vẫn khiêm nhường như vậy, thậm chí còn khiêm nhường cách hoàn hảo hơn nữa. Vì thế, ta không thể xét đoán theo tâm lý ham được khen ngợi của con người để nghĩ tương tự cho Mẹ Maria.
Chủ yếu trong việc truyền kinh Mân Côi cho loài người là Mẹ muốn con người nên thánh thiện, hoàn hảo và nhờ đó cá nhân được hạnh phúc, xã hội được bình an trật tự, có công bằng bác ái, chứ không phải để Mẹ được tung hô khen ngợi. Nhưng trong thực tế, không có một mẫu gương nào trên đời đáng cho mọi người suy gẫm và bắt chước để nên thánh thiện cho bằng Đức Giêsu và Mẹ. Nên vì ích lợi của con người, Mẹ đã không ngần ngại đưa mình ra làm gương để con cái bắt chước.
Thật vậy, trong gia đình, người mẹ lấy mình ra làm gương cụ thể cho con cái bắt chước, thiết tưởng chẳng có gì là quá đáng hay mang tính kiêu căng, mà trái lại là một phương pháp sư phạm rất khôn ngoan. Vì đối với đứa con, chẳng có gì gần gũi, thân thiện và cụ thể cho bằng người mẹ. Chẳng có gương mẫu nào cụ thể dễ bắt chước cho bằng gương của mẹ. Nếu vì ngại đưa mình ra làm gương nên đã đưa ra một gương khác xa vời và kém xa mình cho con cái, thì thiết tưởng làm như thế không phải là khôn ngoan, cũng chẳng phải là khiêm nhường. Cốt tủy của khiêm nhường là tinh thần tự hủy, không đặt nặng cái tôi, chứ không phải là hành vi tự hạ bên ngoài. Tự hạ bên ngoài mà vẫn còn quan trọng hóa cái tôi thì không phải là khiêm nhường. Chính khi tự lấy mình ra làm gương mẫu vì nhắm ích lợi của con cái mình, Mẹ Maria càng chứng tỏ Mẹ không đặt nặng cái tôi của mình.
3. Cách đọc kinh Mân Côi cho có ích lợi
Điều cốt tủy của kinh Mân Côi không phải là đọc cho đủ các kinh Kính Mừng cho bằng việc chiêm ngắm các biến cố quan trọng trong cuộc đời Đức Giêsu và Mẹ Maria để noi gương và bắt chước. Nếu miệng đọc các kinh Kính mừng còn tâm trí chiêm ngắm và suy nghĩ 20 biến cố cuộc đời Đức Giêsu và Mẹ Maria, thì các kinh Kính mừng giúp ta hạn định được số thời gian bằng nhau cho việc chiêm ngắm mỗi biến cố. Nếu mỗi ngày ta đều đọc một chuỗi Mân Côi, thì nhờ năng chiêm ngắm Đức Giêsu và Mẹ Maria trong các biến cố cuộc đời các Ngài, mà ngày qua ngày, ta dần dần trở nên giống các Ngài trong quan niệm, tư tưởng, lời nói và hành động.
Theo các nhà tâm lý học, tự kỷ ám thị là một phương pháp tự giáo dục vừa đơn giản, dễ dàng lại vừa hữu hiệu. Không nói tới những ơn ích siêu nhiên, chỉ bàn tới khía cạnh tâm lý tự nhiên thì kinh Mân Côi vốn là một phương pháp tự kỷ ám thị rất khôn ngoan, có khả năng biến đổi bên trong con người một cách từ từ nhưng hữu hiệu. Điều quan trọng là có một khuôn mẫu tốt đẹp nào đó để tưởng tượng và nghĩ tới thường xuyên. Ngày này qua ngày khác, con người làm như thế sẽ được biến đổi giống y như khuôn mẫu ấy. Điều quan trọng của tự kỷ ám thị không phải là nghĩ tới khuôn mẫu ấy lâu giờ, mà là năng nghĩ tới khuôn mẫu ấy. Người chăm chỉ đọc kinh Mân Côi thì ngày nào cũng chiêm ngưỡng cách hành xử khuôn mẫu của Đức Giêsu và Mẹ Maria, nên sẽ được biến đổi giống y như khuôn mẫu ấy một cách vô thức, không cần phải cố gắng nhiều.
4. Còn khía cạnh siêu nhiên của kinh Mân Côi nữa
Nhưng kinh Mân Côi không chỉ là một phương pháp tự kỷ ám thị để tự giáo dục và thánh hóa mình cách hữu hiệu theo phương pháp tâm lý tự nhiên. Nó còn là một phương tiện bảo đảm để kéo ơn Chúa xuống nữa, vì chính Đức Mẹ đã hứa ban dồi dào ơn thánh cho những ai năng đọc kinh ấy. Như thế, kinh Mân Côi vừa là một phương pháp tâm lý tự nhiên, vừa là một phương thế siêu nhiên do chính Đức Mẹ giới thiệu để nên thánh. Vì thế, kinh Mân Côi thật là một cách cầu nguyện tuyệt vời đầy kết quả mà người Ki-tô hữu khôn ngoan cần phải biết sử dụng để nên thánh và kéo ơn lành xuống cho mình.

45. Kính Đức Mẹ Môi Khôi
Kinh Môi Khôi, lời kinh đơn giản nhưng phong phú
Anh chị em thân mến,
Người Việt Nam chúng ta được tiếng là kính mến Đức Mẹ, nhất là kính mến Mẹ qua việc lần chuỗi Môi khôi. Điều này rất tốt và rất đúng đắn, vì việc lần chuỗi tôn kính Mẹ Maria là một lối cầu nguyện đơn giản và hiệu quả, một lối cầu nguyện của mọi thành phần dân Chúa, một con đường dẫn đến với Chúa. Lối cầu nguyện này không chỉ dành cho người bình dân ít học, mà cho cả các bậc thông thái thánh nhân, cả nam lẫn nữ. Lời kinh này đã có nguồn gốc lâu đời trong kinh nguyện của Hội Thánh, ngay cả trước thời thánh Đaminh. Ước gì tháng Môi khôi hàng năm, nhất là năm nay, là một dịp cho chúng ta hiểu cặn kẻ hơn, nhất là không coi thường giá trị của lời kinh đang phổ biến trong Hội thánh. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Nguồn gốc: như trên đã nói, kinh Môi Khôi đã được phổ biến lâu đời trong Hội Thánh; dù vậy phải chờ đến tk 12, thánh Đaminh đã được Đức Mẹ hiện ra dạy cho cách thức lần chuỗi và ngắm 15 Sự mầu nhiệm như ngày hôm nay.
Ngày lễ Đức Mẹ Môi Khôi khởi đầu có nguồn gốc là ngày lễ Đức Mẹ chiến thắng, do biến cố Đức Mẹ phù trợ Hội thánh vượt qua cuộc xâm lăng của quân Hồi giáo thời Đức Piô V, Người đã kêu gọi tín hữu toàn cầu lần chuỗi cầu nguyện cho Hội thánh thoát khỏi cuộc xăm lăng này; vì thế đạo binh thánh giá đã chiến thắng quân Hồi giáo đông gấp hai lần tại vịnh Lépante năm 1571.
b/. Ý nghĩa và hiệu quả: Danh từ Môi khôi, Mai khôi, Mân côi, nguyên ngữ chữ Hán là hoa hồng. Hoa hồng là nữ hoàng của muôn hoa, lại còn chỉ Tình yêu nữa. Gọi Mẹ Maria với tước hiệu Mẹ Môi khôi, là Hội thánh có ý ca tụng Mẹ là Người Phụ Nữ vừa cao đẹp, vừa tôn quí. Mẹ chính là là Hoa Hồng tuyệt mỹ, bất diệt đầy tình yêu, đã và đang chia sẻ thân phận con người chúng ta trong cuộc hành trình về quê hương thật là Nước Trời.
Lịch sử Hội thánh cho thấy việc lần chỗi Môi khôi đem lại nhiều kết quả tốt đẹp lớn lao. Nhiều vị thánh và tín hữu nhờ kinh Môi Khôi mà nên thánh hay đạt được ý nguyện. Thánh Đaminh đã kêu gọi mọi tín hữu trong Hội thánh lần chuổi, nhờ đó đánh tan được bè rối Albigeois bên nước Pháp. Theo lời kêu gọi của ĐGH, các tín hữu đã lần chuỗi mà chiến thắng quân Hồi giáo tại vịnh Lepante như nói ở trên. Nhiều lần Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức (1858), hiện ra ở Fatima, Bồ Đào Nha (1917), trên tay Mẹ luôn cầm tràng chuỗi Môi Khôi. Các Đức Giáo Hoàng đã ra nhiều thông điệp ca tụng khuyến khích việc lần hạt Môi Khôi. Các ngài dù hết sức bận rộn công việc hàng ngày, vẫn năng đọc kinh Môi Khôi như vị Giáo hoàng thân yêu vừa mới qua đời của chúng ta, Đức Gioan Phaolô 2. Ai gặp ngài, luôn thấy ngài cầm tràng hạt trên tay.
c/. Kinh Môi Khôi là lối cầu nguyện đơn giản, hiệu quả và phong phú, dành cho hết mọi người: đơn giản vì vừa dễ nhớ và dễ thực hành; phong phú vì khi ngắm 15 Sự là ta suy niệm đủ các mầu nhiệm TC, để khi ta vừa đọc, ta vừa tôn vinh, cảm tạ, thờ phượng, yêu mến TC qua Người Mẹ thần thánh, Đức Trinh Nữ Maria. Suy ngắm 15 Sự MK cũng được gọi là suy ngắm Tin Mừng rút ngắn. Kinh MK còn là lời kinh của mọi người, vì nó không chỉ dành cho giới bình dân, mà ngay cả giáo sư tiến sĩ Louis Pasteur, nhà bác học lừng danh và là vị cứu tinh của nhân loại trong tk 20, vậy mà ông vẫn lần chuỗi mỗi ngày. Chúng ta nghỉ làm sao?
d/. Suy niệm: * Có người cho rằng lần chuỗi Môi Khôi là kinh nguyện của đàn bà, con trẻ, của mấy ông thầy tu…. Điều này đi ngược lại truyền thống của Hội Thánh, vì đây là lời kinh phổ biến từ lâu, nhất là lời kinh do chính Đức Mẹ dạy nữa. Nếu ta vẫn chưa tin, hãy cầm chuỗi lên, cùng lần với Đức Mẹ, nhất là hãy thử lần chuỗi bằng trái tim, bằng cả tấm lòng yêu mến như Đức Mẹ Mễ Du dạy, hãy làm thử xem sao?

46. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?
(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)
Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là ‘mầu nhiệm Mân Côi’ thứ nhất trong số 20 mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này, đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4 năm 1991 đã quyết định cho phép mừng trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần hạt Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay còn là một con đường sống Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu sắc?
Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố xảy ra trong cuộc đời đức Giêsu và đức Maria, hầu giúp ta nhận ra, ngày càng sâu sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội xa xưa. Biến cố truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới đức Maria nói chung, theo như tác giả Luca trình bày, cho thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa vào hồng ân này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa lạ với kế hoạch từ ái của Thiên Chúa.
Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư cách một Ki-tô hữu đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và xã hội loài người, thì “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?” Câu hỏi này không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi thương xót của Chúa đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng với đức Maria, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể là những niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa, cũng có thể là những nỗi buồn, những đổ vỡ…, những chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hay thất bại, những kỳ vọng hay hoài bão…
Đối với một Ki-tô hữu như tôi, tất cả mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với Ki-tô hữu, sẽ không chỉ có vấn đề ‘thánh hóa = làm phép’ các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Ki-tô hữu cần làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ. Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa, đã được đức Maria sống như thế. Mẹ đã ‘ghi nhớ tất cả các điều ấy… và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (Lc 2,19.51). Maria đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì đã không ngừng khám phá và sống từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.
Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình và suy gẫm các ‘mầu nhiệm phép Mân Côi’ là điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công việc nặng tính lý thuyết và khá trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn thực tế, thiết thực và biến đổi không ngừng trong đời sống thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt tới một cuộc sống Ki-tô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ, và mau mắn biến đổi đời tôi – không theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn – nhưng ngày càng thâm tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và trên toàn nhân loại) không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu đuối biến thiên vô hình vạn trạng của con người.
Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ còn tiếp tục mãi qua mọi thời: “Hãy năng lần Mân Côi!”
Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa đáng cho mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được nhắc nhở: “Vì đối với Thiên Chúa – nhân lành, không có gì là không thể làm được’. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ trở thành con đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen.

47. Suy niệm của Lm. FX. Đào Trung Hiệu
KINH MÂN CÔI GÓP PHẦN XÂY DỰNG NHÂN LOẠI MỚI
Nói đến kinh Mân Côi, tôi nhớ đến mẹ tôi. Bà là hình ảnh của người tín hữu bình dân Việt Nam: Bà quen dùng Kinh Mân Côi làm đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi nhà thờ cách bao xa, bà trả lời: “Đi được ba chuỗi năm chục”. Nghĩa là phải đi bộ độ 45 phút, tính nhẩm ra khoảng ba cây số.
Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh giáo hoàng Pio V. Thì cũng từ đó, Giáo hội cổ võ tín hữu dành trọn tháng mười để đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này, và hơn thế nữa, cổ võ chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân Côi trong suốt cuộc sống.
Kinh Mân côi là một hình thức cầu nguyện đơn giản nhưng phong phú đã được Giáo hội phổ biến qua nhiều thế kỷ. Đơn giản, vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ dàng đọc một mình trong mọi tình huống, ở mọi nơi, mọi lúc, và dễ dàng khi cầu nguyện chung mà ai ai cũng có thể tích cực tham gia. Nhưng Kinh Mân Côi lại rất phong phú, vì có bao nhiêu sách viết về kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu nhiệm nguồn suy niệm dồi dào, dường như không bao giờ cạn.
Kinh Mân Côi chính là nguồn gia tăng sinh lực cho con người và là lời ngợi ca cuộc sống.
Gương một nhà trí thức…
Mỗi người có thể rút ra một bài học qua mẩu chuyện sau: Trên chuyến xe lửa đi Paris, có một chàng thanh niên mặt mũi sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Ngồi đối diện với anh là một cụ già, đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc kinh.
Chàng trai thấy chướng mắt lên tiếng nói: “Bác ơi! thời buổi này mà bác còn đọc thứ kinh của đàn bà trẻ con ấy nữa à!”.
Cụ già ngước mắt nhìn anh và trả lời: “Cám ơn cậu, cậu có vẻ thông thái lắm, cậu giải thích cho tôi nghe đi”.
Thế là chàng trai có dịp khoe về mình: anh đang học năm cuối đại học Bách khoa; anh khuyên cụ già bỏ mấy thứ dị đoan lẩm cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng một thế giới mới chứ không phải những tôn giáo ảo tưởng của người xưa. Và chàng trai hăng say thuyết cho cụ suốt nửa tiếng.
Cụ già chăm chú nghe anh nói, đến khi sắp xuống xe, còn mời anh khi nào rảnh đến nhà hướng dẫn thêm cho cụ và trao cho cậu một tờ danh thiếp.
Chàng trai bỗng thấy mình như từ trên trời rơi xuống, vì trên danh thiếp ghi tên nhà khoa học mà anh suốt đời thán phục: “Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Pháp”
Êm đềm mà thấm lâu…
Trong xã hội thực dụng hôm nay, nhiều người đạo đức coi thường Kinh Mân Côi. Họ nói: điều quan trọng của kitô hữu là hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng bác ái Phúc Âm. Không sai, nhưng chưa chính xác. Thế nhưng, họ chưa hiểu ra sức mạnh êm đềm mà thấm lâu của những lời kinh đơn giản này.
Ta biết các vận động viên và các cầu thủ, dù thuộc bộ môn nào như bơi lội, đá banh, chạy đua… đều không thể bỏ những bài tập thể dục căn bản là tập thở. Đọc kinh Mân Côi chính là thực hiện một việc rất đơn giản như việc hít thở.
Các tôn giáo lớn như Hồi giáo và Phật giáo đều có xâu chuỗi. Với những lời kinh ngắn gọn, người tín đồ có một khoảng thời gian và không gian cần thiết để tiếp cận với Đấng tuyệt đối. Dù thiếu tập trung, Đấng tuyệt đối vẫn làm công việc của Ngài. Chính việc hội ngộ với Chúa cách thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm của họ, và đem lại cho mọi hoạt động của họ một giá trị mới.
Qua 20 mầu nhiệm Mân côi, kitô hữu ngày càng được gắn bó sâu sắc hơn vào những biến cố chính trong công cuộc cứu độ. Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học theo gương Đức Kitô nhập thể trong ngày lễ Truyền Tin, theo gương Đấng Giáng Sinh tại Belem, Đấng bôn ba ra giảng về Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình trên Thập Giá và sống lại vinh quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên quốc như một hứa hẹn cho tương lai của giáo hội và nhân loại.
Hơn thế nữa, phụng vụ lễ Mân Côi qua đoạn sách Công vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc cho chúng ta một truyền thống trong lịch sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như các tông đồ xưa trong ngày lễ ngũ tuần, đã cùng cầu nguyện với đức Maria tại nhà tiệc ly, để đón nhận Thánh Thần mà ra đi loan báo Tin Mừng phục sinh. Thì nay kitô hữu sẽ cùng với Mẹ Maria để cầu nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên bước đường sứ vụ.
Hướng đến một nhân loại mới
Lời kinh “Kính Mừng” quen thuộc, chính là lời chào mừng “Ave: Mừng vui lên” của thiên sứ Gabriel thưa với Đức Maria, mà chúng ta đọc lại trong Tin Mừng Luca hôm nay (1, 28).
Lời chào “Ave” ấy không chỉ gửi đến cho mình Mẹ Maria. Vì theo truyền thống Giáo hội, lời chào “Đấng đầy ơn sủng”, chính là một chứng nghiệm cho Lời Giavê đã hứa trong vườn địa đàng xưa, sau khi tổ tông nhân loại sa ngã: về người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn trong vườn địa đàng (bài đọc I). Người nữ ấy tuy xuất thân từ Adam và Evà, nhưng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội nguyên tổ. Người nữ ấy được tràn đầy ân sủng, được hồng ân Vô nhiễm; Người nữ ấy được so sánh như Evà mới của một nhân loại mới. Người nữ ấy, tên là Maria, là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Như lời Thánh Thi trong kinh thần vụ kính Đức Mẹ:
“Chữ E-va Mẹ đảo vần, Thành A-ve gửi bình an cho đời”.
Lịch sử cứu độ đã khởi sự từ lời hứa tại vườn địa đàng. Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Ngài hứa ở cùng nhân loại. Ngài hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng”. Lời hứa ấy nay được cụ thể hóa khi Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ: “Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Giêsu có nghĩa là Chúa Cứu, sẽ được muôn đời nhắc đến trong lời kinh: “Và Giêsu Con lòng Bà đầy phúc lạ”.
Đọc kinh “Kính Mừng”, ta có thể cảm thấy tâm trạng tương tự như các khán giả đang theo dõi các vận động viên Olympic hoặc Saegames. Họ chờ đón những kỷ lục mới “cao hơn, nhanh hơn, xa hơn”. Khi chúc mừng một vận động viên lãnh huy chương vàng, họ cũng chúc mừng khả năng của một dân tộc và của cả nhân loại…
Cũng vậy, qua những lời “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, chúng ta chiêm ngưỡng một “kỷ lục tuyệt hảo” của nhân loại. Chiêm ngưỡng Đức Maria, một tạo vật hoàn hảo của nhân loại mới.
Hơn thế nữa, trong nhân loại mới đó, chúng ta không chỉ là khán giả, mà còn là thành viên. Nên lời kinh “Kính Mừng” không chỉ được gửi đến cho đức Maria, mà còn là lời chúc mừng một nhân loại mới đang được hình thành.
Và như thế, qua kinh Mân Côi, chúng ta sẽ chìm sâu vào tình yêu và ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, sẽ nhận ra lời Ngài kêu mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt trong lịch sử cứu độ và tìm được sức mạnh mới để hoàn tất vị trí ấy của mình trong lịch sử. Nếu được như vậy, chúng ta có thể đi đến kết luận: Kinh Mân Côi góp phần biến đổi trần gian.

48. Cầu nguyện và cải thiện đời sống
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một “chuồng ngựa”. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Thế giới hôm nay ngày càng tục hoá. Ma quỷ cũng đang biến thế giới này thành nơi hưởng lạc, hưởng thụ và sa đoạ. Đặc biệt là Việt Nam hôm nay có rất nhiều cái nhất:
* Tai nạn giao thông nhất thế giới mỗi ngày trung bình 31 người chết. Đa số là coi thường tính mạng của mình và của tha nhân nên chảy ẩu, chạy thiếu nhường nhịn nhau…
* Tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới mỗi năm khoảng 2 triệu thai nhi bị giết.
* Với mức tiêu thụ 2,7 tỷ lít bia trong năm, khoảng 24 lít trên/đầu người/năm, bằng 1/10 so với châu Âu, Việt Nam đã trở thành nước thứ ba có sản lượng tiêu thụ bia cao nhất châu Á, sau Nhật và Trung Quốc.
* Theo thống kê năm 2010 của Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội cho thấy, tỷ lệ trẻ em chết đuối ở Việt Nam cao nhất khu vực Đông Nam Á. Cứ mỗi ngày lại có 10 trẻ em tử vong vì chết đuối, độ tuổi từ 7- 15. Điều đáng nói là những cái chết tức tưởi của trẻ em hầu hết đều xuất phát từ… người lớn.
Xem ra xã hội ngày hôm nay cũng đáng báo động. Báo động về một làn sóng hưởng thụ bất chấp tính mạng của mình và của người khác. Con người ngày nay đáng báo động như thời ông Noe đóng tàu, còn nhân loại thì vẫn say sưa, vẫn chè chén, vẫn truỵ lạc… Phải chăng đây cũng là thời kỳ mà Mẹ Maria đang mời gọi con cái mình không chỉ sám hối mà còn gia tăng cầu nguyện cho các tội nhân.
Trong cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân Côi như sau:
Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
– Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?
Thánh Đaminh đáp:
– Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
– Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.
Dân chúng thành Toulouse đã yêu chuộng Kinh Mân Côi và từ bỏ bè rối để trở về với đức tin chân thật. Từ ấy, việc sùng kính Phép Lần Hạt Mân Côi được gắn liền với sự thánh thiện của người tín hữu. Vậy nên, mỗi khi thấy một tín hữu bắt đầu sống sa đọa, người ta có thể kết luận một cách chắc chắn rằng: một là người ấy đã bỏ đọc Kinh Mân Côi; hai là người ấy chỉ đọc Kinh Mân Côi cách cẩu thả.
Trong tháng Mân côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin Chúa ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin cho chúng ta ơn can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ sống gắn bó và tuân hành thánh ý Chúa.
Vì thế trong tháng Mân Côi và Tháng Các linh hồn, xin mỗi gia đình hãy dâng chuỗi Mân Côi hằng ngày của gia đình mình cầu nguyện cho một gia đình đang bất hòa, đang rối đạo hay nguội lạnh được ơn trở về. Xin mỗi một cá nhân hãy chọn lấy một người bạn để cầu nguyện cho họ sớm ăn năn sám hối và tin phục Thiên Chúa. Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta biết dâng những hy sinh, những lời kinh Mân côi để đền bù lại những tội lỗi của con người hôm nay. Amen.

49. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
TẠI SAO CHÚNG TA ĐỌC KINH MÂN CÔI
Kính thưa cộng đoàn, Trên các trang mạng công giáo ngày hôm nay, cách riêng trang mạng của HĐGMVN, người ta thấy xuất hiện một lá thư của Hội đồng gửi đến toàn thể cộng đoàn dân Chúa Việt Nam. Bức thư ấy cho biết nỗ lực làm việc của Đại hội XI mới kết thúc hôm qua, tập trung vào tài liệu làm việc dành cho đại hội dân Chúa sẽ được qui tụ vào cuối tháng 11. Ở cuối bức thư, có xin toàn thể mọi người bằng kinh Mân Côi, hãy cầu nguyện cho Đại hội đem lại những thành quả tích cực.
Tại sao xin cầu nguyện mà lại cầu nguyện bằng kinh Mân Côi? Có lẽ vì lý do thực tế bức thư được viết vào lễ Đức Mẹ Mân Côi, bức thư được viết vào tháng Mân Côi. Nhưng bên trong, HĐGMVN muốn kêu gọi toàn thể dân Chúa vốn là dân vẫn yêu mến Đức Trinh Nữ Maria, vẫn yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy bằng chính tràng hạt Mân Côi ký thác Đại hội dân Chúa tháng 11 này cho Đức Trinh Nữ Maria. Đó là một tình cảm rất đậm đà, mà cũng là nhiều gợi ý cho chúng tôi muốn chia sẻ với cộng đoàn trong thánh lễ sáng nay về kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm hiệp thông và sứ vụ.
I. Trước hết, thưa cộng đoàn, kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm ai trong chúng ta cũng biết từ thưở còn tấm bé, vẫn nghe nói đến và sướng lên những mầu nhiệm Mân Côi. Ngày xưa là 15 mầu nhiệm, nhưng hôm nay là 20: Vui, Sáng, Thương, Mừng đầy đủ. Mỗi một sự kiện được xướng lên, mệnh danh là một mầu nhiệm trong tâm tình kinh đọc.
Nhưng cùng với Đức Maria và trong Đức Maria, người ta thấy những mầu nhiệm ấy cũng thoát lên cả một sức sống mầu nhiệm mà Đức Trinh Nữ Maria cá nhân đã được dẫn dắt vào, và mở ra cho cộng đoàn Giáo Hội cả một sức sống rộng dài lịch sử cứu rỗi hôm qua cho đến hôm nay, và còn mãi ngàn sau.
Chỉ xin đan cử mầu nhiệm Truyền Tin trong Tin Mừng hôm nay vừa gợi lên, cũng là ngắm thứ nhất Mùa Vui. Cộng đoàn chúng ta cũng thấy là cả một mầu nhiệm tuyển chọn Thiên Chúa dành cho Đức Maria. Nếu như trong Tin mừng hôm nay có tô đậm lời chào của Thiên sứ Gabrien dành cho Đức Mẹ trong buổi Truyền Tin với một danh xưng tuyệt vời, nằm mơ cũng không thấy, đó là danh xưng Đấng Đầy Ơn Phúc. Một danh xưng họa hiếm trong Thánh Kinh, và cũng là một danh xưng nói lên cả một mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa tuyển chọn Đức Trinh Nữ Maria, để thông qua Mẹ tuôn đổ xuống tất cả mọi người. Ông bà anh chị em cứ nghĩ mà xem, trước đó Đức Maria chưa là gì. Thế nhưng, kể từ buổi Truyền Tin, cách riêng với lời chào Đấng Đầy Ơn Phước, Mẹ đã trở nên một nhân vật không thể thiếu được, và cũng là nhân vật mẫu gương, nhân vật điển hình, hay nói theo kiểu ngày hôm nay, Mẹ là người mẫu để khởi đi từ đó mở ra một nhãn giới sự sống mầu nhiệm cho toàn thể Hội Thánh.
Mẹ được tuyển chọn trong mầu nhiệm mà ngày hôm nay chúng ta gọi là mầu nhiệm Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ cũng được tuyển chọn trong mầu nhiệm đồng trinh khi thụ thai, và cũng là mầu nhiệm tuyển chọn khi Mẹ cung cấp chất liệu xác thân của mình cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành làm người trong cuộc sống nhân lọai. Ở đây, Mẹ chính là Mẹ Thiên Chúa. Và mầu nhiệm của tháng 8 vừa qua chúng ta cử hành, mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tất cả đều quyện lại trong một sự sống, sự sống Thiên Chúa đã ban cho Mẹ trong mầu nhiệm tuyển chọn, để rồi với hình mẫu ấy, tất cả mọi tín hữu đều gắn bó với Mẹ, đi theo bước đường Mẹ đã đi, cũng được tháp nhập vào trong sự sống của Đức Kitô, để đến với sự sống của Thiên Chúa, vốn là sự sống hồng ân Chúa dành cho tất cả mọi người.
Vâng, mầu nhiệm không phải là cái gì đơn thuần mình nghĩ là vượt quá tầm hiểu biết, có tin cũng không đạt được. Mà mầu nhiệm ở đây trước hết xin hiểu là một sự sống mênh mông trong đó mỗi người chúng ta được dìu dắt đến và cứ như vậy, như biển cả, như đại dương, càng ngụp lặn đến thỏa thích, mà vẫn không bao giờ no thỏa cơn khát của tấm lòng. Bằng kinh Mân Côi, Đức Maria đã dẫn chúng ta vào tất cả những mầu nhiệm từ ân tuyển chọn cho đến thông qua Đức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm cứu độ, và còn mở ra cho tương lai của hậu thế của mọi người chúng ta trong Đức Kitô. Đó là mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa trao gửi cho con người, ban tặng cho con người, và làm sao mỗi người khi đọc kinh Mân Côi, cũng để cho chính mầu nhiệm sự sống ấy được triển nở lên trong cuộc đời riêng của mình cũng như trong cộng đoàn mà mình là thành phần.
Kết thúc mấy ngày đại hội vừa qua, các Giám mục chúng tôi được mời tra lại sức khỏe, ở đó có việc thử máu, cũng như các Linh mục của các giáo phận nước Việt Nam trong năm vừa qua cũng được mời để làm như thế. Kết quả là Giám mục nào cũng khám phá ra được điều gì đó trong vận hành máu huyết của mình không phù hợp lắm với chính bước đi của mình hôm nay. Có những lắng lo, và bên cạnh đó cũng có những vui mừng khi ai đó khám phá ra mình hôm nay vẫn còn khỏe mạnh cho dẫu đã ở tuổi 65 hoặc 70. Quan sát như thế và cũng chia sẻ với nhau ưu tư một chút về vấn đề ấy, chúng tôi trộm nghĩ mỗi một tín hữu, từ Giám mục cho đến mọi người giáo dân, ắt hẳn ai cũng khám phá trong máu huyết của mình có một sức sống. Sức sống ấy không được ý tự, sức sống có thử máu cũng không tìm ra. Nhưng sức sống ai cũng cảm nghiệm được, cũng nhận thấy, đó là sức sống Kitô nơi chính máu huyết của mình, bất kể đó là những loại máu A, B, C, D,… Nhưng ở đây, là Kitô hữu, chúng ta mang dòng máu Kitô. Dòng máu ấy chỉ được thử nghiệm trong tình yêu thật với Đức Kitô và cách riêng bằng tràng hạt Mân Côi. Vào dịp này, ta sẽ nghiệm được đó là mầu nhiệm dàn trải và mời gọi mỗi người chúng ta đón nhận cũng như sống lấy. Vâng, đó là khía cạnh trước hết trong nhãn giới mầu nhiệm.
II. Khía cạnh thứ hai chia sẻ với cộng đoàn, bằng kinh Mân Côi, người ta cũng nhận ra khía cạnh hiệp thông trong đời sống tín hữu. Nếu như phần đầu của từng mầu nhiệm Mân Côi, theo như thói quen chúng ta vẫn đọc. Ví dụ ngắm thứ nhất Mùa Vui Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ,…, và phần sau là Ta hãy xin cho được khiêm nhường. Phần sau này chính là tâm tình hiệp thông của tất cả mọi tín hữu, của từng cá nhân, khởi đi từ mầu nhiệm mình gẫm suy, cũng như của từng cộng đoàn gắn bó nhịp sống của mình với mầu nhiệm mà mình đang suy tưởng. Ở đây là một sự nối kết giữa mầu nhiệm sự sống với hành trình sự sống của mỗi người trong tinh thần hiệp thông. Chính nhãn giới hiệp thông này, ta gặp thấy trọn vẹn đời sống của mình được dàn trải ra từ những ngóc ngách của suy tư, cho đến những lối ngõ của hành động. Ở đó, đâu đâu cũng có sự đồng hành của Đức Trinh Nữ Maria. Cộng đoàn cứ thử nghĩ mà xem, trong ngày thăm viếng, Đức Maria đã làm gì. Ngài không đến để chia sẻ, để niềm vui của Mẹ được hiệp thông với Bà Isave, mà cuối cùng là bừng vỡ lên niềm vui của hai thai nhi, hai bà bầu trẻ và trọng tuổi hơn gặp nhau, làm cho hai thai nhi cũng gặp gỡ. Rốt cuộc, phát tỏa trong điệu nhảy niềm vui của Gioan Baotixita, nhảy hôm qua cho đến hôm nay và ngàn đời vẫn cứ tiếp tục nhảy.
Trong lịch sử của âm nhạc, có nhiều điệu nhảy kết thúc bằng chữ A, điệu nhảy Chachacha hay Lămbada… Vì thế, đây cũng có thể gọi là điệu nhảy Gioan Baotixita, để tất cả mọi người trong mầu nhiệm ấy được hiệp thông niềm vui của mình, làm sao cho kinh đọc, cho suy tưởng, và cho đời sống của mình cũng vươn lên trong những điệu nhảy của tấm lòng, điệu nhảy niềm vui, sẻ chia. Và rồi còn nhiều mầu nhiệm khác trong 15 hoặc là 20 ngắm Mân Côi, người ta cũng thấy Đức Trinh Nữ Maria ở đó khuôn mẫu cho tình hiệp thông gắn bó. Gắn bó với đối tượng mà Mẹ tìm đến gặp gỡ, cũng như gắn bó trong nhãn giới của Hội Thánh hôm nay. Đây là một niềm vui không bao giờ chấm dứt.
Ngày hôm nay, cộng đoàn của mỗi người chúng ta cử hành lễ Mân Côi, được nhìn trong nhãn giới hiệp thông. Hiệp thông của từng người với nhau làm thành niềm vui lớn đã đành, nhưng còn là niềm vui hiệp thông cảm tạ Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho Hội Thánh hiệp thông với Đức Trinh Nữ Maria. Đó là nhãn giới thứ hai, nhãn giới hiệp thông. Và gắn với liền đó là mênh mông bao là những biến cố cũng như tâm tình mà cộng đoàn có thể gắn bó tiếp nối vào đó mà tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.
III. Nhãn giới thứ ba chính là nhãn giới sứ vụ. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Không phải vì có Giáo Hội, rồi mới có sứ vụ truyền giáo. Nhưng bởi vì đã có lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu trao cho các tông đồ, thế nên phải thành lập một tổ chức để thi hành, đó chính là Giáo Hội. Giáo Hội được khai sinh từ lệnh truyền truyền giáo của Đấng Phục Sinh, và khởi đi từ đó, tất cả những ai biết mình là thành viên của Giáo Hội luôn luôn canh cánh bên lòng, từ ước vọng cho đến thao thức, và thể hiện ra qua những công việc truyền giáo cụ thể mình thực hiện được tại địa bàn dân cư mà mình là thành phần. Nói một cách vắn gọn, sứ vụ ở đây có nghĩa là mình đã hiệp thông với mầu nhiệm sự sống, mình đã đáp ứng bằng nhịp sống cá nhân làm thành niểm vui, thì tới phiên mình, trong tư cách là thành viên của Hội Thánh, mình cũng trao gửi, mình cũng sẻ chia niềm vui ấy cho tất cả những ai mình gặp gỡ. Có thể là những người chưa biết đến đạo giáo, có thể là những người năm nào đó đã biết rồi, đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đã là Kitô hữu rồi, nhưng đã bị lớp bùn thời gian và nếp sống của họ phủ lên chính lòng tin. Vì vậy, khi mình trao gửi niềm vui, khi mình chia sẻ lại ơn mình lãnh nhận được, mình mời gọi họ bước vào nẻo đường tạ ơn. Đó cũng chính là lúc mình đang sống tinh thần sứ vụ của Hội Thánh.
Kinh Mân Côi là một kinh mở ra cho mỗi tín hữu nhãn giới sứ vụ ấy. Nếu như trong biến cố thăm viếng, Đức Maria đã bước chân trong sứ vụ vượt qua nẻo đường cả một trăm kilômét, không biết bằng đi bộ hay ngồi trên lưng lừa, nhưng Mẹ đã vượt nẻo đường xa để chia sẻ niềm vui với một người chị em trọng tuổi hơn mình. Hay là trong năm sự sáng, Đức Maria hiện diện tại đám cưới Cana, Mẹ đã đôn đáo, mới đầu chỉ như một thông tin cỏn con dành cho người con thân yêu của mình họ hết rượu rồi, để rồi sau đó ngược xuôi, chạy đi chạy lại đôn đáo, làm sao cho hòa cùng vào một nhịp. Nhất là giải quyết được vấn đề – rượu được tràn đầy và niềm vui của đám cưới được diễn tả ra. Không mất danh dự của đám cưới, mà còn khơi thêm niềm vui, cách riêng khơi thêm niềm tin cho các môn đệ đầu tiên tìm theo Chúa Giêsu. Rõ ràng, trong biến cố ấy, Đức Maria là hình mẫu của con người sứ vụ, để rồi hôm nay, mỗi người chúng ta qua Kinh Mân Côi cũng khám phá lại được tiếng gọi sứ vụ đang thúc đẩy chúng ta đến với tất cả những anh chị em xung quanh mình. Bất luận bằng một lời kinh, bằng một tâm tình chia sẻ, bằng một lời nói ủi an. Rõ hơn nữa, bằng một cử chỉ gì đó giúp đỡ, Vâng, chỉ xin thâu tóm lại trong nhãn giới ấy, nhãn giới mầu nhiệm, nhãn giới hiệp thông, nhãn giới sứ vụ của kinh Mân Côi.
Trong dịp cử hành thánh lễ Mân Côi cùng với cộng đoàn đây. Trong niềm vui cảm tạ khơi lên cùng với HĐGMVN lời chia sẻ dành cho cộng đoàn dân Chúa – hãy yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy cầu nguyện bằng tràng hạt Mân Côi, và hãy thả vào đó tất cả tâm tình của mình. Một mặt để nhận được sức sống mầu nhiệm Thiên Chúa gửi trao, và một mặt khác, chính mình cũng nhận ra sức sống ấy trong từng nhịp sống, trong từng lời kinh của mình. Một khi đã nhận được như vậy, chính mình trở thành tông đồ sẻ chia cho những người xung quanh.
Xin nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi, mà chúng ta đang cử hành trong thánh lễ đây, cho mỗi người tín hữu chúng ta, cách riêng trong tháng này, cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi. Trước đây đã yêu rồi, đã lần hạt nhiều lần rồi, nhưng ta thử đọc lại bằng một tâm tình, một tâm tình mới mà HĐGM mời gọi ấy, để thấy được rằng cả một sức sống nhiệm mầu, hiệp thông, và sứ vụ đang ùa vào tâm hồn mỗi người chúng ta. Xin kết thúc bằng một vần thơ nhỏ:
Gửi em một chục Mân Côi
Để em sớm tối học lời cầu kinh
Mẹ trên cao sẽ thương tình
Cho em hạnh phúc, gia đình an vui.
Gia đình đây là cộng đoàn. Gia đình đây là gia đình riêng của mỗi người. Gia đình đây cũng là tập thể giáo xứ, là giáo phận, là đất nước, là tất cả mọi người chúng ta.
Xin Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi ban muôn ơn lành xuống trên tất cả mọi người. Amen.

50. Kinh Mân Côi và Giáo Hội
Kinh Mân côi là một việc đạo đức của Giáo hội Công giáo.
Thực vậy, trước hết các Đức Giáo Hoàng, nhất là các Đức Giáo Hoàng gần đây nhất, đã không ngừng kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi, nơi mỗi cá nhân cũng như trong các gia đình.
Chẳng hạn Đức Thánh Cha Piô IX đã khuyên nhủ chúng ta hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình. Cũng chính ngài đã xác định:
– Kinh Mân côi là một kho tàng quý giá nhất của Giáo hội. Tiếp đến Đức Thánh Cha Lêô XIII đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải lần hạt, và người ta đã gọi ngài là vị Giáo Hoàng của kinh Mân côi. Ngài đã xuất bản khoảng 12 thông điệp nói về Kinh mân côi, ấy là không kể đến 8 văn kiện khác nữa, chính ngài đã thiết lập tháng Mân Côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ vương rất thánh Mân côi, cầu cho chúng con.
Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắc bảo chúng ta:
– Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối.
Đức Thánh Cha Piô XI cũng đồng quan điểm ấy khi ngài viết:
– Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Piô XII cũng đã khuyên nhủ các bạn trẻ:
– Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi.
Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, ngài xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục:
– Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày.
Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi. Đức Thánh Cha Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại, ngài cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.
Xem đó chúng ta thấy các Đức Thánh Cha đều nhất trí về sự tuyệt hảo của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi. Và các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi khẩn thiết ấy. Từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, đâu đâu người ta cũng lần chuỗi.
Tôi xin kể lại mẫu gương của thày Patrick Peyton.
Thày là một đại chủng sinh bị đau yếu trầm trọng. Các bác sĩ đều bó tay. Trong âm thầm, mẹ thày đã cầu nguyện và xin được chết thay cho thày. Và sự thực đã xảy ra. Người mẹ chết và thày được sống. Sau khi thụ phong linh mục và để tạ ơn Đức Mẹ, thày đã dâng hiến trọn cuộc đời cho việc loan truyền sứ điệp Fatima bằngcách thành lập một tu hội với lời dốc quyết lần chuỗi mỗi ngày. Tu hội này ngày nay có trên mười triệu người gia nhập. Họ thường đọc kinh chung với những người khác trong nhà thờ, nơi xưởng thợ và trong những môi trường khác nhau.
Có những trường đại học bên Mỹ vẫn lần chuỗi mỗi ngày để cầu cho những người tội lỗi ăn năn. Có những chương trình lần chuỗi trên truyền thanh, truyền hình vào những giờ giấc nhất định, để những người Công giáo có thể hợp ý cầu nguyện, dù ở nhà, trong xe hơi hay đang làm việc.
Bởi vậy, hãy siêng năng lần hạt để thực thi lệnh truyền của Mẹ, để đáp trả lại những lời mời gọi của các Đức Thánh Cha và nhất là để chúng ta được Mẹ yêu thương và chúc phúc.

51. Đức Chúa Ở Cùng Bà
(Trích trong ‘Manna’ – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã.
Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống, thanh thản bình an
để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.
Đây là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền tin,
lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến.
Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương.
Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời,
và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.
Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế,
nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội.
Chúng ta được dự phần vào niềm vui và ân phúc của Mẹ
vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương
được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới.
Đức Chúa Trời ở cùng Bà.
Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng,
để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa.
Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc nhất vô nhị.
Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời,
Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh,
nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa con người.
Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ,
vị linh mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em.
Kitô hữu là người có Đức Kitô ở cùng
và được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Đó là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1, 42)
vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ Đấng Mêsia.
Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm (Lc 11, 27).
Nhưng sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có phúc
vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói với Mẹ (Lc 1, 45).
Tin là dám buông đời mình trong tay Chúa
và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng tin.
Mọi tín hữu đều được mời sống hành trình đức tin như Mẹ,
để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc:
“Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29)
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.
Chỉ Thiên Chúa là Đấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện.
Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời,
vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa,
và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.
Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra Đức Giêsu,
nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của Ngài:
“Mẹ tôi và anh em tôi là những ai
nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).
Khi thực thi Lời Chúa trong cuộc sống,
chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay.
Ngài vẫn cần những người mẹ để có mặt đến tận thế.
Chẳng có gì Đức Maria được hưởng cách viên mãn,
mà Hội Thánh và từng người lại không được dự phần.
Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ lâm tử.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có khi nào lần chuỗi không? Bạn có biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và lắng đọng không?
Bạn nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần bạn trong cuộc sống đức tin?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.

52. Tháng Mân Côi: nhớ lời Đức Mẹ nhắn nhủ
(Suy Niệm của Đức Cha GB. Bùi Tuần 10/2001)
Thế giới đang đi vào một hoàn cảnh nghiêm trọng. Nghiêm trọng nhất là bệnh tình của tâm hồn con người: Lỗi lầm cá nhân tăng. Tội ác tập thể tăng. Suy thoái đạo đức tăng. Người ta huỷ hoại nhau và tự huỷ. Nhiều nơi đang rơi vào nguy cơ tan rã. Quỉ ác xem ra đã thiết lập được một trật tự tội lỗi vững chắc trong thế giới, kể cả những vùng cực kỳ hữu thần.
Tình hình này đang bùng nổ ra những bất ngờ bi đát. Chúng ta khó tránh được những ảnh hưởng đa dạng của các chuyển biến bi thảm.
Những thời sự gay gắt đang khiến những ai thao thức với sự sống con người và Nước Trời phải băn khoăn. Họ nhớ lại những gì Đức Mẹ Maria đã cảnh báo tại Lộ Đức, tại La Salette, tại Fatima.
Đức Mẹ báo trước những tai hoạ khủng khiếp sẽ xảy ra do tội lỗi chồng chất của thế giới gây nên.
Để làm nhẹ đi những tai hoạ này, Đức Mẹ nhắn bảo các con cái Mẹ hai điều:
Một là hãy cầu nguyện,
Hai là hãy ăn năn sám hối.
Dưới đây, tôi xin phép góp ý sơ qua về sự thực hiện hai điều trên đây.
Cầu nguyện.
Nhìn qua thế giới xung quanh, tôi thấy có những người không hề cầu nguyện, có những người không thích cầu nguyện, có những người rất ít cầu nguyện, có những người không biết cầu nguyện. Bốn hiện tượng này đã khá phổ biến.
Vì thế, khi cầu nguyện, thiết tưởng nên khởi sự từ việc xin Chúa ban cho ta ơn cầu nguyện. Kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy: Cho dù tuổi nào, bậc nào, con người ta vẫn cảm thấy ứng nghiệm lời thánh Phaolô viết: “Có Thánh Thần giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thánh Thần cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Thần muốn nói gì, vì Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho các thánh đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
Thực vậy, rất nhiều khi chúng ta cầu nguyện không đúng ý Thiên Chúa. Rất nhiều khi chúng ta cầu xin Chúa làm theo ý chúng ta, chứ chúng ta không sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Hoặc là cầu xin một cách phô trương, kiêu hãnh kiểu Pharisêu, chứ không với cách khiêm nhường kín đáo như người thu thuế.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: Biết bao lần cả trong chính khi đọc kinh, dâng lễ, chúng ta cũng có thể sa vào những tư tưởng, lời nói, việc làm sai trái, mà thánh Phaolô đã than: “Sự lành tôi muốn, thì tôi không làm. Còn sự xấu tôi không muốn, thì tôi lại làm” (Rm 7,20). Hiện tượng cầu nguyện với sự nguội lạnh, khô khan, với những tâm tình ghen ghét hận thù, gian dối, tham lam, kiêu căng, tự phụ tự đắc là hiện tượng không phải hiếm hoi gì.
Những việc cầu nguyện như thế chắc chắn không đáp ứng lời nhắn nhủ của Đức Mẹ. Hãy xin ơn biết cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện theo cách lần chuỗi mân coi như ý Đức Mẹ. Hãy tập cầu nguyện trong thân phận khiêm tốn của người tội lỗi van nài lòng thương xót Chúa tha tội và giúp chúng ta khỏi sa vào bẫy ma quỉ. Hãy cầu nguyện để chúng ta nên giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu.
Ăn năn sám hối.
Chúa đã thương yêu ta từng chi tiết nhỏ. Như thánh vương David nói: “Tạ ơn Chúa đã thương con cách lạ lùng. Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con Ngài không lạ lẫm gì. Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con, đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu đời của con khởi sự” (Tv 139,14-16).
Chúa thương ta và muốn ta phát triển theo hướng tốt lành Chúa muốn. Nhưng thực tế cho thấy nhiều khi ta phát triển sai hướng. Tiên tri Baruc nói: “Chúng tôi đã không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, đã không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi. Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục vụ các thần khác, và làm điều dữ trước mặt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi” (Br 1,21-22).
Các thần tượng mà nhiều người chúng ta thường đi tìm, chạy theo và tôn thờ là danh vọng, tiền của, thành công, lạc thú, biếng lười. Thần lớn nhất là cái tôi.
Khi Đức Mẹ khuyên nhủ chúng ta ăn năn sám hối, Đức Mẹ muốn chúng ta khởi sự bằng việc đốt nóng lên niềm tin. Tin là gắn bó thân mật với Chúa. Ngài là khởi đầu, là cùng đích và là hạnh phúc của ta. Tin là chấp nhận Lời Chúa là chân lý. Tin là sống theo thánh ý Chúa. Tin là thực thi điều răn: Mến Chúa yêu người.
Với niềm tin như thế, người sám hối cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn đổi mới. Khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẽ nhìn thấy rõ hơn những tai hại của tội lỗi, họ sẽ hối hận vì đã xa lìa Chúa. Quyết tâm của họ sẽ không dừng lại ở sự gỡ bỏ khỏi tội lỗi, mà còn ước muốn được sống trong’ tình yêu Chúa. Hơn nữa, họ muốn đi theo Chúa, dấn thân cứu đời.
Dấn thân đòi phải có tinh thần chiến đấu. Trong chiến đấu để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu, nhiều khi tôi có cảm tưởng là phải rất can đảm. Nhưng kinh nghiệm cho tôi thấy ơn biết sống dịu dàng, nhân hậu, tế nhị, khiêm tốn và thương cảm còn cần hơn.
Ăn năn sám hối cũng còn đòi tinh thần đền tội. Tinh thần đền tội đi theo tinh thần đức tin và xuất phát từ tinh thần đức tin.
Chúng ta tin chắc rằng: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10).
Nếu chính Đức Kitô đã dâng mình chịu nạn để làm của lễ đền tội cho chúng ta, thì không lẽ chúng ta lại được phép dửng dưng với việc đền tội của chính chúng ta.
Hiện nay, việc đền tội được hiểu một cách qúa sơ sài và được thực hiện một cách quá tượng trưng. Tôi thiết nghĩ thói quen đó là không đúng. Chúa Giêsu có lần đã phán: “Giống quỉ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện” (Mt 17,21). Lời Chúa dạy trên đây rất có thể áp dụng vào việc đền tội, khi việc đền tội vừa là sửa chữa lại lỗi lầm đã qua, vừa ngăn ngừa ma quỉ trở lại tái chiếm con người sám hối.
Với vài gợi ý trên đây, tôi tin rằng rất nhiều con cái Đức Mẹ khắp nơi sẽ nhìn lên Đức Mẹ. họ sẽ sốt sắng cầu nguyện và sám hối. Chắc chắn Đức Mẹ nhân lành sẽ cầu bầu cho nhân loại đáng thương này.

53. Suy niệm của Trọng Hương
* LỊCH SỬ
Chuỗi Mân Côi, với hình thức ngày hôm nay, được các Cha Dòng Đa Minh và sau đó Dòng Tên truyền bà từ thế kỷ XV. Lễ Mân Côi không nhằm vào xâu chuỗi cho bằng hướng về Thánh Mẫu Mân Côi, đó là Đức Trinh nữ Maria.
Thánh Lễ được Đức Giáo Hoàng Piô V, xuất thân từ Dòng Đa Minh, lập ra vào năm 1572 để kỷ niệm chiến thắng của Hạm đội Công giáo trên dân Thổ nhĩ Kỳ (Hồi giáo) ở Vịnh Lepanto ngày 7.10.1571.
Sau cuộc chiến thắng quân Thổ nhĩ Kỳ ở Peterwardein xứ Hungaria ngày 5.8.1716, theo yêu cầu của vua Charles VI, Đức Giáo Hoàng đã cho phép mừng lễ này trong toàn Hội Thánh (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống…
Thánh sử Luca trình bày Đức Maria trong hai bức tranh khác hẳn nhau:
1. Maria tầm thường:
– Một thiếu nữ mang tên Maria, một tên bình dân nhiều người có. Trong Tân Ước có ít ra 4 phụ nữ mang tên này: Mẹ của Đức Giêsu, mẹ của Giacôbê và Giuse, Maria Mađalêna và Maria chị của Matta và Ladarô.
– Sinh sống tại Nadarét, một thị trấn hầu như vô danh nên Cựu Ước không lần nào nhắc tới.
2. Maria cao sang:
– Thiên sứ gọi Maria bằng những tước hiệu cao sang: Đấng đầy ơn sủng, Thiên Chúa ở cùng, đẹp lòng Thiên Chúa.
– Con của Người là Cao cả, Con Đấng tối cao, Con Thiên Chúa, trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, triều đại Ngài sẽ vô cùng vô tận…
3. Do đâu một thiếu nữ tầm thường bỗng trở nên cao sang như thế?
Do sự khiêm tốn của Maria. Người đã thưa “Tôi là nữ tì của Chúa. Xin cứ làm cho tôi như lời thiên sứ nói”. Nghĩa là Maria ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa “làm” mọi sự nơi Người, không cản trở, không đòi Thiên Chúa phải làm theo ý riêng Người.
Mà Thiên Chúa là Đấng toàn năng, “Đối với Ngài, không có gì là không thể làm được”.
B…. nẩy mầm.
1. Trong những người biết khiêm tốn để cho ơn Chúa hoạt động thì sẽ xảy ra những điều vĩ đại phi thường.
2. “Thưa bà Maria, xin đừng sợ”: Ta đừng sợ những sứ mạng Chúa giao, miễn là ta chịu để cho quyền năng Chúa hoạt động nơi mình.
3. Trong Thánh Kinh, câu “Đừng sợ” được nói 365 lần. Tức là đủ để nhắc chúng ta mỗi ngày trong suốt một năm.
4. “Nếu bạn cậy vào sức riêng của mình thì chẳng lạ gì bạn sẽ sớm ngã lòng. Kẻ khiêm nhường thực thì không ngã lòng, kẻ ngã lòng không phải là người khiêm nhường thật bởi vì người ấy cậy dựa vào một cái gì đó ngoài Chúa” (J.N.D. “Scripture Truth”)
5. Một hôm Satan đem bày bán những dụng cụ làm việc của hắn. Có rất nhiều món, được dán nhãn hiệu rõ ràng: nào là giận hờn, ganh ghét, dâm dục, nào là kiêu ngạo, nói dối, tham lam v.v. Và món nào cũng có ghi giá. Nhưng có một món được để riêng một bên, không dán nhãn nhưng giá lại cao nhất. Một người hỏi:
– Đó là cái gì mà cao giá dữ vậy?
– Đó là sự ngã lòng.
– Tại sao nó cao giá thế?
– Vì nó hữu hiệu hơn tất cả những dụng cụ khác: khi tôi không thể dùng những dụng cụ kia để đến gần người ta thì tôi dùng nó để xâm nhập tận cõi lòng người ta. Một khi tôi đã đặt nó vào lòng người ta rồi thì tôi có thể xúi người ta làm bất cứ điều gì tôi muốn. Mà đặt nó vào lòng ta rất dễ, bởi vì ít ai biết dụng cụ đó là của tôi”. (Gospel Herald)
6. Về tiếng “xin vâng” của Đức Mẹ:
a/ Vì Thiên Chúa là chủ của vũ trụ và của lịch sử, nên mọi việc trên đời, không việc gì có thể đi ngoài ý Chúa và kế hoạch của Chúa mà êm xuôi được (“thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”; gương ngôn sứ Giôna). Cho nên biết “xin vâng” tức là biết lái con thuyền đời mình thuận theo dòng nước.
b/ Thực ra chữ “fiat” còn có thể dịch đúng hơn, là “Xin hãy thành sự nơi tôi”. Hiểu như vậy, phía chủ động là chính Thiên Chúa. Con người chỉ cần ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa hoạt động nơi mình. Nói cách khác, con người chỉ việc “buông theo ân sủng”
7. “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa. Xin Chúa cứ làm choi tôi” (Lc 1,38)
Vào một ngày đẹp trời, các phóng viên thiên thần được diện kiến “người nữ có phúc hơn mọi người nữ” là Đức Maria. Các ngài đã làm một cuộc phỏng vấn chớp nhoáng:
– Chào Bà. Bà đã từng làm người. Vậy, theo Bà, sứ mệnh của nhân loại là gì?
– … Là sống cho Chúa.
– Người nữ “chân yếu tay mềm” phải làm gì để hoàn tất vai trò của mình trong gia đình, xã hội và Giáo Hội?
– … Hãy trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa trao ban qua nữ tính của họ.
– Nhưng càng nhu mì, càng hiền dịu thì càng bị đối xử bất công. làm sao tìm được sự bình đẳng mà không đánh mất nữ tính?
– … Mỗi người có một bản sắc riêng. Hãy thể hiện trọn vẹn nét độc đáo ấy.
– Vậy sẽ không có sự bình đẳng tuyệt đối?
– … Chỉ có sự bình đẳng hoàn hảo nhất, đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa…
Và Đức Maria đã minh chứng điều này qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu, với bí quyết rất nữ tính: “Xin vâng”.
Thông qua hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ như thầm nhắn nhủ: Hạnh phúc và sự bình đẳng của phận người tuỳ thuộc vào sự đáp trả của chúng ta trước tiếng gọi của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhận ra và đáp trả lời mời gọi của Ngài trong từng giây của cuộc sống như Mẹ Maria (Hosanna)

54. Thánh Mẫu Mân Côi
Chuỗi Mân Côi là quà tặng quí báu, Thiên Chúa và Đức Mẹ trao cho chúng ta. Người ta gọi chuỗi Mân Côi là kinh nguyện của người bình dân. Thực vậy, cho tới thế kỷ XII, Hội Thánh chỉ dùng 150 thánh vịnh làm kinh nguyện chính thức. Tới khi bà thánh Birgitta được ơn Chúa soi sáng mới đặt ra chuỗi 150 Kinh Kính Mừng để thay thế cho 150 Thánh vịnh. Các mầu nhiệm Mân Côi còn được gọi là cuốn sách Phúc Âm rút gọn của người bình dân, bởi vì sau này người ta thêm 15 mầu nhiệm vào kinh Mân Côi. Cứ 10 kinh Kính mừng lại suy gẫm vê một mầu nhiệm mùa Vui, Thương hoặc Mừng.
Chuỗi Mân Côi rất cao quí vì chính nội dung của nó như chúng ta vừa đề cập tới. Người biết xử dụng sẽ gặp được hiệu quả phi thường. Ngay trong sự tích việc thành lập lòng sùng kính này đã đã ghi dấu bằng một phép lạ đặc biệt. Ngày kia trên đường đi Tây Ban Nha, hai thánh Đaminh và Bênađô chẳng may bị sa vào tay quân cướp. Sau khi bóc lột tất cả, chúng bắt các Ngài phải làm nô lệ chèo thuyền. Một lần con thuyền bị bão đánh giữa khơi. Trong cơn nguy nan, thánh Đôminicô đã cầu xin Đức Mẹ và được Ngài hiện ra dạy phải lần chuỗi Mân Côi. Mọi người trong thuyền đều hứa sẽ thực hiện theo lời chỉ dạy của Mẹ. Bão tố liền tan biến.
Cũng chính thánh Đaminh, trong cuộc tranh đấu chống lại bè rối Albigeois năm126, một lần nữa được Đức Mẹ dạy cho biết phải dùng chuỗi Mân Côi làm khí giới. Thánh nhân đã dốc toàn lực phổ biến thực hành đạo đức này và được gặt hái được thành quả mĩ mãn. Bè rối Albigeois hoàn toàn bị tiêu diệt.
Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân Côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi, Khi ấy quân Hồi Xâm lăng Au Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người chạy đến với Kinh Mân Côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu, từ Roma, Đức Giáo hoàng đã thấy được cuộc chiến thắng này và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức giáo hoàng đã thiết lập một lễ để ghi nhớ chiến thắng này.
Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân Côi. Chẳng hạn Kinh Mân Côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan… Chuỗi Mân Côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi.
Vậy khi mừng lễ Thánh mẫu Mân Côi, Giáo hội muốn chắc lại sức mạnh cứu rỗi vô song của kinh Mân Côi và kêu gọi mọi người hãy năng lần chuỗi Mân Côi như phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước Trời.

55. Lễ Mẹ Mân Côi
LỜI KINH CỦA TUỔI THƠ
Mừng lễ Mẹ Mân côi, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những tình cảm Mẹ đã dành cho tuổi thơ. Trước hết chúng ta sẽ đưa ra một vài sự kiện lịch sử.
Sự kiện thứ nhất, đó là biến cố Lộ Đức.
Tại đây Mẹ đã hiện ra với một cô bé mười bốn tuổi, tên là Bernadette. Mẹ bảo cô bé lần hạt và Mẹ cùng đọc với cô bé kinh Lạy Cha và kinh Sáng Danh. Đồng thời, Mẹ còn tỏ cho chúng ta thấy Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Sự kiện thứ hai, đó là biến cố Phatima.
Tại đây Mẹ đã hiện ra với ba em nhỏ: Lucia mười tuổi, Giaxinta bảy tuổi và Phanxicô bảy tuổi. Đồng thời, qua ba em nhỏ này, Mẹ đã gửi đến mỗi người chúng ta ba mệnh lệnh: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân côi.
Qua hai sự kiện trên, chúng ta nhận thấy Mẹ Maria rất yêu thương trẻ thơ và đã chọn các em làm sứ giả để chuyển đạt cho thế giới những sứ điệp của Mẹ. Mẹ đã dùng các em để làm nên những việc trọng đại.
Bởi vì kể từ đó cho đến ngày hôm nay, Lộ Đức và Phatima đã trở nên những nơi hành hương sầm uất nhất của Giáo hội và cũng tại hai nơi này, Mẹ đã ban xuống biết bao nhiêu ơn lành hồn xác.
Với kết luận trên, chúng ta liên tưởng tới lời kinh Magnificat của Mẹ ngày xưa, trong đó Mẹ đã xác quyết:
– Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những người phận nhỏ.
Thực vậy, nếu ngày xưa Chúa đã chọn Mẹ từ một nữ tì nhỏ bé tầm thường để trở nên Mẹ của Đấng Cứu thế, Mẹ của Thiên Chúa, thì giờ đây Mẹ cũng chọn những em bé đơn sơ để làm nên những việc trọng đại.
Nếu ngày xưa Chúa đã yêu thương các trẻ nhỏ, bởi vì các em vừa đơn sơ và trong trắng, lại vừa tin tưởng và phó thác, thì bây giờ Mẹ cũng đã dành cho các em một tình yêu thương đậm đà, bởi vì các em đã mau mắn và quảng đại đáp trả lời khuyên nhủ của Mẹ.
Bernadette đã lần hạt với Mẹ và sau này vào tu trong một nhà dòng, sống một cuộc đời đạo đức và thánh thiện. Còn ba em nhỏ ở Phatima cũng thế.
Mẹ bảo:
– Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt nhiều trước đã.
Và Phanxicô đã thưa lên:
– Lạy Mẹ, Mẹ muốn con lần hạt bao nhiêu cũng được.
Từ đó, không những lần hạt với hai em kia, mà cậu bé còn lần hạt riêng một mình nữa. Lắm khi đang chơi với bạn, cậu bé lẻn đi lần hạt. Được hỏi tại sao thì cậu bé trả lời:
– Đức Mẹ bảo em phải lần hạt nhiều cơ mà.
Còn Giaxintha cũng vậy. Sau khi được Đức Mẹ hiện ra, em đã về nhà và nói với má:
– Má à, hôm nay con đã được nhìn thấy Đức Mẹ.
Bà mẹ bảo:
– Con đã là thánh đâu mà được nhìn thấy Đức Mẹ.
Rồi em xin phép má đi lần hạt với anh Phanxicô, bởi vì Đức Mẹ bảo:
– Chúng con phải lần hạt mỗi ngày.
Nhất là Lucia, em thường đứng lên lần hạt mỗi khi Đức Mẹ hiện ra. Sau khi được ơn nhìn thấy Đức Mẹ, em gia nhập phong trào Phatima để cùng với mọi người chống lại với những kẻ ghét đạo. Em cũng thường lần hạt chung với mọi người để suy gẫm về Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Sau cùng, em đã dâng hiến trọn cuộc đời mình trong dòng kín.
Chúng ta cũng vậy, như các em nhỏ, chúng ta hãy quảng đại đáp lại lời kêu mời của Mẹ bằng cách siêng năng đọc kinh Mân Côi và cố gắng thực thi tinh thần kinh Mân Côi trong cuộc sống, để chúng ta xứng đáng với tình yêu thương của Mẹ.

56. Mân Côi: Khỉ cứu mặt trăng
Có năm trăm con khỉ mặt đỏ đi trong rừng sâu, đến dưới một gốc cây ni-câu. Dưới cây có một cái giếng, nước trong giếng phản chiếu lại mặt trăng, con khỉ đầu đàn nhìn thấy, liền gấp gáp nói với đồng bạn: “Mặt trăng bị rơi xuống giếng rồi kia, chúng ta nên cùng nhau kéo nó ra khỏi giếng. Thế này nhé, tôi sẽ bám vào cành cây trên mặt giếng, sau đó các anh từng người, từng người một bám vào đuôi nhau trèo xuống, như thế mới có thể cứu được mặt trăng”. Bầy khỉ mặt đỏ từng con, từng con liên tục treo thành một chùm dài. Lúc còn một chút xíu nữa thì xuống mặt nước, trọng lượng của bầy khỉ vượt qúa lực chịu của cành cây, chỉ nghe “rắc” một tiếng, cành cây gãy, bầy khỉ mặt đỏ rớt xuống trong giếng giãy giụa mãi không thôi, mặt trăng trong giếng cũng “mất tích” luôn.
Khỉ là loài được gọi là thông minh trong các loài vật, nhưng cũng có những lúc ngu đần hết chổ nói, nhưng cái ngu của loài khỉ không đáng trách, vì nó là…khỉ. Mặt trăng rơi xuống giếng thì không có, nhưng linh hồn đắm trong tội và sẽ rơi vào trong hỏa ngục thì có thật, chuổi Mân Côi là sợi dây liên kết tâm tình của người Kitô hữu với Mẹ Maria, bám vào sợi dây này để cứu linh hồn mình và linh hồn của anh chị em, chính là việc làm thông minh và hiệu qủa hơn là bám vào ô dù của những kẻ quyền qúy ở thế gian. Bầy khỉ mặt đỏ đã chết oan uổng vì đã làm chuyện không có – cứu mặt trăng rơi xuống giếng- nên bị coi là ngu.
Cũng vậy, chúng ta cũng sẽ bị coi là ngu, nếu chúng ta không dùng chuỗi Mân Côi như một phương thế đơn sơ mà hữu hiệu để cứu linh hồn mình. Mẹ Maria -Đấng đồng công cứu chuộc nhân loại- đã rất “thông minh” khi nghĩ đến phương thế nhẹ nhàng mà hiệu qủa này cho con cái của Mẹ, để không một đứa con nào phải hư mất đời đời khi suy tư, chia sẻ mầu nhiệm xuống thế làm người và cứu chuộc của Con Mẹ -Đức Giêsu Kitô- trong chuổi Mân Côi.
Khắp mọi nơi và mọi lúc (trừ đang khi dâng thánh lễ) chúng ta đều có thể lần hạt Mân Côi, kết hợp với Thiên Chúa qua Đức Trinh Nữ Maria, để chúng ta ngày càng trở nên hoàn hảo hơn trong đời sống thiêng liêng, và tốt đẹp hơn trong cuộc sống đời thường.

57. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
“Hãy xin thì sẽ được”
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Đây là một dịp để chúng ta suy niệm về Đức Mẹ và về việc đạo đức rất phổ thông là việc lần chuỗi dâng kính Đức Mẹ.
Nhiều người trong chúng ta có một tràng chuỗi. Tràng chuỗi chúng ta không giống chàng chuỗi các nhà sư. Tràng chuỗi chúng ta có một lai lịch cổ xưa và nòi được là thi vị hơn nhiều.
Vào thời Trung cổ, trong các nước Công giáo Tây phương, người thanh niên, nhất là các thiếu nữ, có thói quen mang những tràng hoa trên đầu mà người ta gọi là Chapel- nguồn gốc trong Pháp ngữ của danh từ chapeau là mũ và chapelet là tràng chuỗi.
Thánh Louis, vua nước Pháp, cấm các con, nhất là các nàng công chúa, không được mang tràng hoa trên đầu trong các ngày thứ sáu, để tưởng niệm đến mũ gai mà Chúa đội trong cuộc tử nạn.
Tràng hoa biến thành các chuỗi hoa, đội lên đầu Đức Mẹ để tỏ lòng tôn kính. Trong khi đó, ở tu viện, các Tu sĩ mỗi ngày đọc đủ 150 kinh dâng kính Đức Mẹ. Tràng chuỗi trở nên tràng chuỗi Mân Côi.
Việc đạo đức ấy đã được Đức Mẹ chấp nhận, khi Người hiện ra với Thánh ĐaMinh vào thế kỷ XIII. thời ấy, bè rối Albigeois đã lan tràn nhiều nơi và phá hoại Giáo Hội rất nhiều. Thánh Đaminh và Dòng của Ngài đã làm hết sức mà không sao cải hóa được những người theo bè rối ấy. Ngài cầu nguyện với Đức Mẹ và Đức Mẹ đã hiện ra dạy dùng tràng chuỗi Mân Côi làm khí giới thần hiệu để chinh phục bè rối ấy. Thánh Đaminh đã thành công nhờ tràng hạt Mân Côi.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Lần chuỗi không phải là việc đọc kinh một cách máy móc các kinh thường quen, mà là miệng đọc mà lòng suy gẫm các mầu nhiệm căn bản của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Mầu nhiệm năm sự VUI để sống lại với Đức Mẹ cuộc đời thơ ấu của Chúa; mầu nhiệm năm sự THƯƠNG để theo Chúa trên đường tử nạn; mầu nhiệm nhiệm năm sư MỪNG để cùng Đức Mẹ sống qua những ngày cuối cùng của Chúa.
Vì thế mà Lacordaire đã gọi tràng chuỗi Mân Côi là một cuốn Phúc Âm tóm lược.
Vậy chúng ta hãy siêng năng lần hạt, vì chính Đức Mẹ cũng khuyến khích việc ấy trong những lần hiện ra ở Rue du Bac, Balê, ở lộ Đức và Fatima.
Tại rue du Bac ở Balê, Đức Mẹ nói cùng Thánh nữ Catherine Labouret: con hãy quan tâm đến việc lần chuỗi để tôn kính Đức Mẹ.
Tại Lộ Đức, trong 18 lần hiện ra với Bernadetta, Đức Mẹ bao giờ cũng lần hạt và khuyên lần hạt. Mỗi lần ra hang đá, Benrnadetta đến quì tại một chỗ nhất định. Cô nhìn lên hang đá, rút tràng chuỗi ra lần. Thế là trên bộng đá rực lên một bầu ánh sáng và trong một bầu ánh sáng ấy, Đức Mẹ hiện ra.
Đức Mẹ cầm trong tay một tràng chuỗi bạc, hạt ngăn bằng vàng. Bernadetta nói: Đức Mẹ cũng lần hạt nhưng tất nhiên không đọc kinh Kính Mừng mà chỉ cúi đầu, mấp máy đóc kinh Sáng Danh kính Chúa Ba Ngôi.
Cách riêng, tại Fatima trong 6 lần hiện ra, Đức Mẹ đã khuyến khích lần hạt. Đức Mẹ dạy em Phanxicô phải lần hạt mới được về Thiên đàng. Đức Mẹ ban ba mệnh lệnh và một trong ba mệnh lệnh ấy la phải siêng năng lần hạt. Và Đức Mẹ tự xưng là Nữ Vương Mân Côi.
Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Chúng ta hãy dùng khí giới và thuẫn đỡ đó, để chống lại ma quỉ, nhất là để nhở Đức Mẹ đưa ta đến với Chúa, ad Jesum per Mariam. Amen.

58. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Nói về Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, nhân loại đang sống trong lòng tin sẽ không bao giờ có thể phủ nhận được con đường Mẹ dậy mọi người đi với ba mầu nhiệm: Nhập thể, Đau khổ và Phục sinh của Con duy nhất của Mẹ là Chúa Giêsu Kitô luôn rõ nét, sáng ngời giữa mọi biến cố của lịch sử cứu độ. Mẹ Maria như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết: “Vào bình minh của ngàn năm mới, chúng ta vui mừng nhận thấy nổi bật lên ‘chiều kích Thánh Mẫu’ của Hội Thánh, ấp ủ trong mình nội dung sâu thẩm nhất của việc canh tân do công đồng đề xướng”. Con cái của Mẹ theo sau Mẹ đi từng chặng đường của Con Mẹ đã đi qua. Con đường ấy không đâu xa, đó là con đường: Vui, Thương, Mừng mà nhân loại muốn đi vào nước trời không thể nào không bước qua những chặng đường ấy.
Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ
Maria được Thiên chúa tuyển chọn để làm Mẹ Đức Giêsu Kitô và làm Mẹ nhân loại. Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm đảo lộn cả lịch sử nhân loại, mặc cho nhân loại một ý nghĩa mầu nhiệm, sâu xa. Nếu không có lời Xin Vâng của Mẹ, nhân loại đã khác hẳn, nhân loại chẳng bao giờ có ngày hôm nay. Với tiếng Xin Vâng, Mẹ Maria đã tận hiến và chấp nhận ý định của Thiên Chúa, hiến toàn thân mình cho Thiên Chúa, để cùng với Ngài thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Mẹ Maria đã nắm một vai trò thật đặc biệt và quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Sở dĩ Mẹ Maria được Thiên Chúa trao cho một vai trò lớn lao, quan trọng như thế là vì Maria được tràn đầy ân sủng, Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa ở cùng, ở với Mẹ là hạnh phúc lớn nhất, khiến Mẹ luôn đầy phước lộc chứa chan, nhờ đó Mẹ chiếu tỏa ánh sáng và ân sủng cho mọi người. Maria là một người Mẹ, người Mẹ hoàn toàn đúng nghĩa của nó, một người Mẹ đầy yêu thương, vì Mẹ có đầy hồng phúc. Mẹ Maria là một người trong nhân loại, là một người nữ đúng nghĩa nhất, nhưng Maria lại là một người nữ đặc biệt vì Maria làm đẹp lòng Thiên Chúa. Maria đặc biệt hơn nữa vì tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, tinh trong, sáng ngời của Mẹ. Maria hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ đã chỉ cho nhân loại phải bước theo những chặng đường con của Mẹ là Chúa Giêsu đã bước qua.
“Các con đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33)
Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã sống lại, lên trời, ban Thánh Thần cho các môn đệ và trở thành niềm cậy trông vững bền cho mọi người, Chúa hứa với các môn đệ và nhân loại: “Sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế”(Ga 14,18). Chúa là con của Mẹ Maria, nên Chúa phục sinh ở với nhân loại mãi mãi cho tới ngày cùng tận trời đất, chắc chắn Mẹ cũng ở với nhân loại cho tới tận thế, vì lúc nào Mẹ cũng mang Chúa trong lòng và giới thiệu Chúa cho nhân loại. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Nếu có sự chiến thắng thì Mẹ Maria là người chiến thắng”. Mẹ đã hiện ra tại nhiều nơi như Lộ Đức, Fatima, Labouret, Nam Tư, La Vang và nhiều nơi khác trên khắp thế giới. Nơi nào Mẹ cũng khuyên nhủ: “phải ăn năn sám hối, và năng lần chuỗi Mân Côi”. Mẹ đã luôn giữ lời hứa và Mẹ luôn muốn con của Mẹ tất cả được thừa hưởng nước trời. Mẹ chiến thắng ma quỉ, sức mạnh của sự dữ. Mẹ chiến thắng tà thần. “Trái tim hiến tế của Mẹ đã thắng tội lỗi và những tối tăm của quyền lực ma quỉ, sự dữ…”
Lễ Mân Côi nói gì cho nhân loại
Lễ Mân Côi làm cho dân Chúa hồi tưởng lại thời đạo binh thánh giá chiến thắng quân Phổ ở Lê-pan vào năm 1571 nhờ sự can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria. Tuy nhiên, đó chỉ là lý do phụ. Điều cốt thiết của nhân loại là hiệp ý với Mẹ Maria, Nữ Vương An Bình, cầu nguyện cho mọi người nhìn nhận ý Thiên Chúa và tuân theo ý Người. Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra cho nhiều người ở nhiều nơi như Lộ Đức, Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette và tự giới thiệu ngài là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tại Fatima, Mẹ đã hiện ra với ba trẻ là Lucia, Phanxicô và Giacintha. Trong các lần hiện ra Mẹ đều khuyên các trẻ và nhân loại phải ăn năn sám hối, lần chuỗi và sống trung thành với Chúa. Chắc chắn, mọi người ở muôn thời đều muốn được hạnh phúc và vui vẻ để sống. Nhưng thái độ của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân như thế nào? Ta đã sám hối và cầu nguyện, lần chuỗi theo ý Mẹ đủ chưa? Nếu chưa, ta cần thay đổi lối sống, lần chuỗi siêng năng hơn để cùng với Mẹ đi vào các biến cố, các chặng đường của Chúa: Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh. Ta đã sống bác ái, yêu thương đủ chưa? Nếu chưa, ta cần sống tốt hơn và cố gắng đi vào định luật của tình yêu: “Chúng con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con”.
Lễ Mân Côi, một dịp để ta đi vào chương trình cứu rỗi của Chúa Giêsu và là một dịp để chúng ta cố gắng thay đổi con người mới, kết hiệp với Mẹ và sống theo lời khuyên của Mẹ: Sám hối, Cầu nguyện và Lần chuỗi.
Chuỗi Mân Côi là phương thế dễ dàng và hữu hiệu nhất để giúp ta sống trung thành với Đạo tình thương của Chúa Giêsu.
“Lạy Chúa, …… xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình Thập giá, và nhờ Thánh Mẫu Maria chuyển cầu, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh” (Lời Nguyện Nhập Lễ, Lễ Đức Mẹ Mân Côi).

59. Mai Khôi: bông hồng đẹp, viên ngọc quí
(Suy Niệm của Lm. An-rê Đỗ xuân Quế)
Mân Côi, Văn Côi, Môi Khôi, Mai Khôi, tất cả những chữ này đều có cùng một nghĩa là những bông hồng đẹp hay viên ngọc quí, tùy theo thói quen và ý thích, mỗi người mỗi nơi dùng một kiểu. Một số người hiện nay thích dùng chữ Mai Khôi, vì theo họ, chữ này vẫn giữ được nguyên nghĩa là bông hồng đẹp, viên ngọc quí mà đọc nghe lại thấy thanh nhã và mới mẻ hơn.
Chuỗi Mai Khôi là chuỗi gồm năm mươi chục hạt. Mỗi hạt là một kinh Kính Mừng và sau mười hạt lại có thêm một hạt nữa để chỉ kinh Lạy Cha. Những kinh Kính Mừng đó được coi như những bông hồng kết thành vòng hoa dâng kính Đức Mẹ. Một trăm năm mươi kinh Kính Mừng là một trăm năm mươi bông hồng hay một trăm năm mươi thánh vịnh kính Đức Mẹ, vì chuỗi Mai Khôi được coi như tập thánh vịnh về Đức Mẹ, cũng giống như một trăm năm mươi thánh vịnh để tôn vinh ca tụng và cầu xin cùng Chúa vậy.
Nguồn gốc chuỗi Mai Khôi
Ngay từ thế kỷ XI, thời thánh Bê-na-đô, những người có lòng sùng kính Đức Mẹ vẫn đọc một chuỗi các kinh Kính Mừng, vừa đọc vừa nghĩ đến những sự vui mừng của Đức Mẹ. Có thể nói đó là hình thức khởi đầu của chuỗi Mai Khôi. Sau này, năm 1328 ngưòi ta tìm được một tập ghi chép các phép lạ của Đức Mẹ. Trong tập này có nói đến việc Đức Mẹ trao chuỗi Mai Khôi cho thánh Đaminh. Và từ đó trở đi, người ta cứ truyền tụng cho nhau là thánh Đaminh đã lập ra chuỗi Mai Khôi. Vì thế, trong dòng Đaminh mới có tượng Đức Mẹ trao chuỗi Mai Khôi cho thánh Đaminh.
Thực ra, theo cha La-co-đe (Lacordaire), một tu sĩ dòng Đaminh và một nhà giảng thuyết trứ danh tại nhà thờ Đức Bà Pa-ri (Paris) vào giữa thế kỷ XIX, thì năm 1209 ở miền Tu-lu-giơ (Toulouse), tình thế lúc bấy giờ rất nhiễu nhương: quân của quận Chúa Ray-mông (Raymond) theo bè rối An-bi-doa (Albigeois) đánh nhau với quân của quận chúa Xi-mông đờ Mông-pho (Simon de Montfort) theo Công giáo. Thánh Đaminh làm việc tông đồ ở miền Toulouse lúc bấy giờ. Người thấy rằng bao lâu chưa có hòa bình thì bấy lâu rất khó giảng giải để đưa các người theo bè rối về nẻo chính đường ngay. Vì thế, người mới cầu nguyện và xin ai nấy cầu nguyện cho hòa bình. Người được ơn soi sáng kiện toàn kinh Mai Khôi đã có từ thế kỷ XIII, bằng cách cứ sau mỗi mười kinh thì dừng lại một chút, rồi thêm vào một câu hát vắn hay mấy lời lấy trong các sách Tin Mừng về cuộc đời Chúa Cứu Thế, cho thay đổi và đỡ nhàm chán. Ban đầu chỉ lấy những câu nói về các niềm vui, sau mới thêm những câu nói về các nỗi khổ và các điều mừng.
Từ thế kỷ XV trở đi, chuỗi lần hạt Mai Khôi được tổ chức như chúng ta thấy ngày nay, nghĩa là chia làm ba chuỗi, mỗi chuỗi năm chục kinh suy ngắm về một số các mầu nhiệm liên quan đến các niềm vui, nỗi khổ và các điều mừng.
Hai tu sĩ dòng Đaminh là linh mục A-lanh đờ la Rót-sơ (Alain de la Roche) người Pháp ở tỉnh Đu-ê (Douai), (sau được nâng lên hàng chân phước) năm 1470 và linh mục Gia-cóp Pơ-ren-gơ (Jacob Sprenger) người Đức ở tỉnh Kơn (Koeln) năm1475 đã lập ra các Hội Mai Khôi. Từ thế kỷ XVI, các ĐGH chính thức giao cho dòng Đaminh nhiệm vụ rao giảng về chuỗi Mai Khôi và thành lập các hội Mai Khôi.
Nguồn gốc Lễ Mai Khôi
Ngày Chúa nhật 07/10/1571, hải quân công giáo thắng hải quân Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lơ-păng-tơ (Lepante) (giữa Co-rin-tô và Pa-trát). Tin chiến thắng được báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mai Khôi đang rước kiệu trong thành phố. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, ĐGH Pi-ô V, ngày 5.3.1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính Đức Bà chiến thắng. Ngày 1.4.1573, ĐGH Ghê-go-ri-ô đặt tên cho lễ này là lễ Mai Khôi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ và nhà nguyện của các Hội Mai Khôi vào Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, ĐGH Cơ-lê-măng (Clément) XI truyền cho toàn thể Hội thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, lễ Mai Khôi được ấn định vào ngày 7.10 mỗi năm.
Ý nghĩa của Chuỗi Mai Khôi và Lễ Mai Khôi
Trên đây là nguồn gốc của Chuỗi Mai Khôi và Lễ Mai Khôi, nhưng còn ý nghĩa của chuỗi và lễ thì thế nào? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng thừa biết lần chuỗi Mai Khôi là đề tỏ lòng kính yêu và cầu xin cùng Đức Mẹ. Chúng ta tôn vinh Đức Mẹ và nhớ lại tình thương của Chúa đối với Hội thánh qua tay Đức Mẹ, trong những hoàn cảnh gần như tuyệt vọng. Từ những sự việc hiển hách của Chúa trong các hoàn cảnh này, chúng ta càng thêm xác tín lời của thần sứ trong bài Tin Mừng lễ Đức Mẹ Mai Khôi: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Thiên Chúa làm được tất cả. Nhưng oái oăm thay! Nhiều khi Chúa không biểu lộ trực tiếp và ngay tức khắc quyền năng của Người cho chúng ta thấy. Bởi thế, nhiều lúc chúng ta hoài nghi, tỏ ra chán nản vì thấy nguyện vọng của mình chưa hay không được đáp ứng và xem ra Chúa như câm lặng xa vắng.
Giữa những hoàn cảnh éo le ở đời và giữa lúc phải đắm chìm trong đêm tối của hoài nghi, thất vọng, ước gì chúng ta nhớ lại những hoàn cảnh lịch sử gắn liền với chuỗi Mai Khôi và lễ Mai Khôi, để giữ vững niềm tin và đốt cháy lên ngọn lửa hy vọng.

60. Canh tân đời sống, lần chuỗi Mân Côi
“Hãy canh tân đời sống và lần chuỗi mỗi ngày”
Câu hỏi gợi ý
1. Đức Maria có vai trò gì trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa?
2. Đức Maria và việc lần hạt Mân Côi.
3. Hãy học cùng Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Ki-tô.
Suy tư gợi ý
1. Vai trò của Đức Maria trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa:
a) Bài Tin Mừng về Truyền Tin trong Phúc Am Lu-ca cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của Đức Maria trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa. Như bao thiếu nữ Do thái khác khi sắp đến tuổi lấy chồng, Maria cũng đã có chương trình riêng của mình. Người thanh niên mà nàng yêu thương và tính lấy làm chồng là Giu-se, thuộc chi tộc Đa-vít. Nhưng sau khi thiên sứ trình bày về kế hoạch của Thiên Chúa và được giải đáp thắc mắc một cách thỏa đáng, thì Maria đã mau mắn chấp thuận lời đề nghị của Thiên Chúa và phó thác cuộc đời mình cho Ngài: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
b) Bài đọc 1 của Sách Tông đồ Công vụ cho chúng ta thấy vị trí của Đức Maria giữa các Tông Đồ, tức giữa lòng Giáo hội sơ khai. Các vị chờ đợi Thánh Thần trong thanh vắng và cầu nguyện.
c) Bài đọc 2 của Thư Galát của Thánh Phaolô nói về việc Con Thiên Chúa sinh ra từ một phụ nữ theo đúng chương trình của Thiên Chúa để cứu chuộc mọi người và làm cho mọi người trở thành con Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên Chúa là Cha (Abba).
2. Đức Maria và việc lần hạt Mân côi.
a) Một trăm năm mươi Thánh vịnh đã được thay thế bằng 150 kinh Kính Mừng: Miệng đọc lòng suy 15 Mầu Nhiệm Mân Côi: Năm Sự Vui, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng. Đó chính là bản tóm tắt cuộc đời của Chúa Giêsu Ki-tô và cũng là của Đức Maria, vì hơn ai hết, Đức Mẹ đã cùng với Con bước các chặng đường Vui-Thương-Mừng ấy với tinh thần của lời “xin vâng – fiat!” mà Mẹ đã tuyên xưng trước khi Ngôi Lời Thiên Chúa đầu thai làm người trong cung lòng Mẹ.
b) Khi chúng ta đọc sự tích về các cuộc Đức Mẹ hiện ra, dù ở Lộ Đức hay ở Fa-ti-ma, dù ở Gua-da-lu-pe hay ở Mễ Du, hay ở La Vang…. chúng ta đều thấy Đức Mẹ nhắn nhủ người tín hữu hãy canh tân đời sống và siêng năng lần hạt Mân Côi để làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi, ta đã đến để cảnh báo các tín hữu canh tân đời sống và xin ơn tha thứ tội lỗi của họ. Họ không được xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã quá phiền muộn vì tội nhân loại. Loài người hãy lần chuỗi Mân Côi. Họ hãy tiếp tục lần chuỗi hàng ngày.” (Thông điệp Đức Mẹ gởi cho chị Lu-xi-a 13/10/1917).
c) Thánh Đaminh là người cố công rất lớn trong việc quảng bá việc đọc kinh Mân Côi trong Giáo hội, để cầu xin Chúa bảo vệ Giáo hội trước sự tấn công của kẻ thù.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi”.
Còn cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân Côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”
3. Hãy học cùng Đức Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Ki-tô.
Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể cứu độ nhân loại. Chân lý ấy không bao giờ chúng ta được lãng quên! Đức Mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa cũng chỉ là tạo vật. Nhưng Mẹ là tạo vật hoàn hảo nhất của công trình Tạo Dựng của Thiên Chúa và Mẹ là môn đệ “gương mẫu” nhất của Đức Giêsu. Tuy thế, Mẹ cũng đã phải vất vả, khổ đau trên con đường theo Đức Giêsu. Vì thế mà Mẹ có đủ khả năng, kinh nghiệm hướng dẫn, chỉ bảo chúng ta nếu chúng ta muốn bước theo Mẹ trên con đường theo Chúa! Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ để học cùng Mẹ!
Hơn nữa Thiên Chúa đã có ý đặt Đức Mẹ bên cạnh Chúa Giêsu và giữa Chúa Giêsu và chúng ta. Nếu nhờ có Chúa Giêsu mà Thiên Chúa trở nên gần gũi với con người hơn, thì cũng nhờ có Đức Mẹ mà chúng ta mạnh dạn và tin tưởng hơn khi dâng lời khẩn nguyện và tạ ơn lên Thiên Chúa.
NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con. Chúng con cũng cảm tạ Cha vì Cha đã chọn cho Con Một Cha một người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria. Cha đã đổ tràn ân sủng của Cha trên người Nữ Tỳ đặc biệt này. Chúng con xin ngợi khen và chúc tụng Tình Thương và Quyền Năng của Cha!
Lạy Chúa Giêsu Ki-tô, Chúa đã sinh ra từ một người mẹ, đã lớn lên và trưởng thành bên cạnh Đức Maria và Thánh Giu-se, đã lên đường rao giảng Nước Trời với sự cộng tác của Mẹ, đã trao Mẹ cho thánh Gio-an trước giờ tắt thở. Chúng con cảm tạ và ngợi khen Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đã xuống tràn đầy trên các Tông Đồ và Đức Maria, để khai sinh Hội Thánh là Cộng đoàn của Chúa Ki-tô Phục Sinh. Xin Chúa xuống trên tất cả chúng con, để chúng con nhận được ánh sáng, bình an và sức mạnh cần thiết cho cuộc lữ hành của chúng con.

61. Mưa nắng đời thường
Lạy Mẹ Maria, đời người ai cũng có lúc đẫm một chút mưa rồi lại một chút nắng – tất cả còn nguyên vẹn trong con như nỗi nhớ niềm thương…
Con có thói quen đọc kinh Truyền Tin ngay sau khi dâng ngày sáng. Buổi sáng hôm nay cũng thế. Con tung chăn ngồi bật dậy dâng ngày sống cho Chúa và đọc kinh Truyền Tin. Ngoài sân những hạt mưa bụi lất phất bay. Mây đen chắc nhiều lắm, đã năm giờ, trời vẫn còn tối mịt. Mưa bụi trở nên nặng hạt rồi lớn dần. Gần một giờ đồng hồ sau, hạt mưa lại nhẹ nhàng, mong manh…
Cuộc sống của một ngày mới lại bắt đầu. Ngoài kia, chị bán hàng đã bày hàng ở chợ. Những em bé và những người bán dạo vẫn cất lên trong trẻo hoặc khàn đục tiếng rao. Cô công nhân và bác nông dân đã vội vã ra khỏi nhà Và con cảm nhận, vầng tráng họ có lẽ bây giờ đã lấm tấm những giọt nước trong, chắc hẳn không phải giọt nước mưa vô tình để lại…!
Lạy Mẹ dấu ái, mưa đó rồi lại nắng. Chín giờ rưởi ngọn nắng đã lên cao như bù lại buổi bình minh không có. Và dù nắng hay mưa, cuộc sống vẫn tấp nập, vẫn ồn ào. Nó vẫn mang trong mình bao nhiêu nhịp thở của nhân loại, có khi hạnh phúc, có khi buồn thương
Con vào nhà thờ dâng thánh lễ đầu ngày. Nâng cao dĩa thánh mà như thấy cả sự sống nhân loại oằn nặng trên tay mình. Bởi nhận ra sự oằn nặn ấy, mà từng ngày trong thánh lễ, con đã dâng, và sẽ dâng trong hy tế của Chúa Giêsu là niềm vui của người hạnh phúc, dâng những ưu tư về cuộc nhân sinh đang giăng mắc đầy những cảnh đời nghiệt ngã. Con đã và sẽ dâng những mảnh đời rất thực: đó là chính bản thân con, là anh chị em tín hữu và của biết bao nhiêu đồng loại chung quanh. Con đã làm và sẽ làm như thế đến nhịp thở sau cùng của mạng sống con.
Lạy Mẹ Maria, cuộc đời dẫu có mưa, có nắng – tất cả dệt trong con thành nỗi nhớ niềm thương dâng tiến Mẹ.
Nhưng con hiểu mưa nắng không chỉ là hiện tượng của thời tiết đổi thay, mà mưa nắng vẫn rơi trong lòng của cả một kiếp làm người nữa.
Kiếp sống con người có vui, có khổ, có khóc, có cười. Là Mẹ Thiên Chúa, định luật cuộc đời, Mẹ cũng không thoát khỏi. Đọc lại những trang Tin mừng, con cảm nhận sâu xa về niềm đau và nỗi vui của Mẹ. Vừa được báo tin Mẹ sẽ làm mẹ Thiên Chúa, thì sau đó lại bị thánh Giuse hiểu lầm bởi bào thai đang lớn dần. Vui chưa trọn với ngày Con Chúa sinh ra, đã phải khăn gói lên đường di tản vì bạo vương Hêrôđê tìm giết. Khi người con ấy lên mười hai tuổi, có lần lại phải tìm con thất lạc. Và hơn hết mọi đau khổ, biến cố Canvariô đã làm Mẹ tan nát cõi lòng. Nhưng niềm đau lớn thì nỗi vui cũng lớn. Chắc Mẹ đã vui nhiều trong niềm tin vào Con của Mẹ phục sinh. Là Mẹ Thiên Chúa, để đạt tới đỉnh vinh quang, Chúa cũng không để Mẹ đứng ngoài đau khổ. Con hiểu mầu nhiệm cuộc đời là như thế: Có nỗi vui và nỗi buồn làm tăng giá trị.
Mẹ đã xin vâng để rồi tiếp sau đó là cả một đời chấp nhận, không ồn ào, không than vãn. Niềm vui hay nỗi buồn Mẹ đều ghi sâu và suy niệm. Mẹ đẹp lòng Chúa không vì những thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với tất cả con người bé mọn của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban. Mẹ không xem thường những biến cố rơi vào giữa đời người, nhưng Mẹ cũng không quan trọng hóa chúng. Mẹ đón nhận cách tự nhiên bằng lòng tin vào sự quan phòng của Chúa. Mẹ đã nội tâm hóa tất cả, đã suy niệm trong lòng tất cả, và Mẹ đã đọc trong mỗi biến cố sự nhiệm mầu mà Chúa muốn tỏ bày nơi Mẹ. Mẹ vĩ đại không nhờ vào sự vĩ đại, lớn lao nơi những công trình trần thế. Nhưng Mẹ vĩ đại chỉ có một điều duy nhất: lắng nghe tiếng lòng. Ở đó, trong im lặng, nơi hoan vu của sa mạc đời mình, Mẹ đã nhận ra ý Chúa. Tiếng nói tự cõi lòng không cất lên chỉ trong một thời, một buổi, mà âm vang cả cuộc đời của Mẹ, vì Mẹ đã giữ kỹ các điều ấy trong lòng1, và mỗi ngày tiếng ấy càng thôi thúc Mẹ khẳng định rõ lời xin vâng bằng chính đời sống của Mẹ.
Vâng! Mẹ là như thế: Tất cả vì tình yêu Thiên Chúa. Hôm nay trong đời sống hiện tại, có khi mưa có khi nắng, mỗi chúng con, dù sống ơn gọi tu trì hoặc sống ơn gọi giữa đời, đều có những ưu tư, khắc khoải trong mỗi trách nhiệm khác nhau của mình. Chúng con biết rằng khi cố gắng chu toàn trách vụ là chúng con cố tạo hạnh phúc cho đời mình. Vì niềm vui không đến tự nhiên nhưng nó phải đến sau vất vả phải không Mẹ. Mưa nắng cuộc đời Mẹ đã đi qua, Mẹ đã cảm nếm, và Mẹ nêu gương cho chúng con khi biết vâng lời chịu đựng. Ngày mỗi ngày dẫu có những lo toan, vất vả, những giọt mưa hay những sợi nắng đan chéo trong đời, chúng con sẽ ấm lòng khi ngước trông lên Mẹ, và học lấy gương của Mẹ.
Thưa Mẹ con muốn lắng nghe tiếng nói của lòng mình. Tiếng nói mà ngoài Chúa ra, chỉ có con là người thứ hai được hiểu. Mưa hay nắng của cuộc đời sẽ làm tiếng nói ấy có giá trị hơn. Vì nếu nhịp sống cứ bình lặng mỗi ngày như nhau có lẽ sẽ buồn chán lắm và con cũng chẳng đọc được giá trị đời mình. Tiếng nói đó sẽ giúp con hiểu ý nghĩa của từng cơn mưa, đợt nắng rơi vào hồn con. Con sẽ được biết và càng biết nhiều hơn nếu mưa trở thành vũ bão, và nắng trở thành nóng rát quay cuồng trong con. Chỉ có quay về với lòng mình, con mới có đủ sức đón nhận. Chúa sẽ nói cho con và nói nhiều lắm khi con biết xua đi những ồn ào của cõi lòng con. Chúa an ủi con. Ngài âu yếm nhìn con và hướng về Mẹ mà bảo: Này là con Bà. Chúa sẽ giải thích cho con hiểu về thánh ý của Ngài: Ai muốn theo Ta hãy vác thập giá mà theo Ta. Trên quảng đường đầy mưa, đầy nắng đó, có Chúa cùng con song hành. Ngài không đánh con đau khi con sai trái, nhưng Ngài nâng con dậy mỗi khi con quỵ ngã. Ngài luôn ở bên con vì Ngài đã hứa rất nhiều lần: Ta sẽ ở cùng con mọi ngày cho đến tận thế!. Mẹ ơi, con nhớ ngày xưa thiên thần cũng đã từng nói với mẹ: Chúa Trời ở cùng Bà. Vâng! Giống như Mẹ, mỗi người chúng con hôm nay đang mang Chúa trong cuộc đời mình. Nhận ra mình đang mang Chúa – một Giêsu đi qua thập giá để đến vinh quang mới là điều hệ trọng. Mẹ ơi, con hiểu ý nghĩa cuộc đời là khi con chấp nhận ý Chúa dù thương đau hay hạnh phúc.
Lạy Mẹ Maria, đời người ai lại không có lúc đẫm một chút mưa rồi một chút nắng – tất cả còn nguyên vẹn trong con như nỗi nhớ niềm thương. Xin dâng lên Mẹ tất cả. Xin bàu cử cho chúng con trước mặt người Con yêu dấu của Mẹ. Amen.

62. Kinh mân côi, lời kinh kỳ diệu
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
Người Việt Nam ta từ xưa tới nay và chắc chắn về sau, lòng tôn sùng Đức Mẹ Maria luôn là một điểm sáng. Điều này hiển nhiên tại các gia đình, đền đài, nhà thờ, dòng tu và những trung tâm hành hương tôn kính Đức Mẹ đây đó.
Như vậy, tràng hạt Mân Côi chính là một vật bất ly thân của chúng ta, bởi vì qua lời kinh Mân Côi, người Kitô hữu đang cùng với Mẹ theo sát Chúa Giêsu trên các chặng đường cứu chuộc. Hơn nữa, khi đọc kinh Mân Côi với tâm tình của Đức Mẹ, ấy là lúc chúng ta cùng với Mẹ suy đi và nghĩ lại trong lòng tất cả mọi biến cố vui buồn, sướng khổ, thành công hay thất bại dưới cái nhìn ân sủng và giá trị cứu chuộc.
1. Lợi ích của việc lần Chuỗi Mân Côi
Nói đến Chuỗi Mân Côi, người ta thường hay nhớ đến những ơn lạ tình thương do lòng thương xót Thiên Chúa ban qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Những ơn đó ta có thể liệt kê ra đây như một dấu tích từ ái của Mẹ dành cho con cái như: những ơn chữa lành bệnh tật, tai qua nạn khỏi, làm ăn phát đạt, gia đình hạnh phúc, con cái thảo hiền. Nhưng có lẽ ơn mà nhiều người được hơn cả, đó là ơn hoán cải đời sống, trở về với Chúa.
Như vậy, cuộc đời của người Kitô hữu luôn gắn bó với Mẹ Maria cách mật thiết, khăng khít và nhiệm mầu.
Điều này đã được chứng minh cách cụ thể nơi tổ tiên chúng ta!
Nhớ lại biến cố Lavang, Trà Kiệu…. Những nơi này, khi xưa, cha ông chúng ta đã phải hứng chịu biết bao gian lao khốn đốn do nạn bắt đạo gắt gao của các vua chúa quan quyền. Đời sống đạo của các ngài luôn bị đe dọa. Giữa cơn cuồng phong bão táp, các ngài đã phải trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc hay dồn nén trong nhà thờ…. Lúc này, cha ông chúng ta chỉ biết cậy trông lòng thương xót của Thiên Chúa qua trung gian Mẹ Maria. Vì thế, trên tay không rời Chuỗi Mân Côi, cửa miệng không ngừng vang lên kinh Kính Mừng, tâm hồn hoàn toàn phó thác, cậy trông Mẹ thương cứu giúp. Cuối cùng, Mẹ đã hiện ra để an ủi, củng cố lòng tin, bảo vệ con cái và hứa sẽ nâng đỡ cho khỏi ngàn nỗi hiểm nguy.
Nhìn ra thế giới, chúng ta cũng thấy Đức Mẹ đã nhiều lần can thiệp để Giáo Hội được bình an, trong đó phải kể đến những sự kiện lớn như:
Vào thế kỷ 13, tại niềm Nam nước Pháp, có bè rối Albigeois nổi lên chống đối Giáo Hội. Thấy được mối nguy cơ khó giải này, nên thánh Đaminh đã phát động chiến dịch lần Chuỗi Mân Côi, cuối cùng, Đức Mẹ đã đưa được những tâm hồn ngông cuồng này trở về với Giáo Hội.
Tiếp đến, vào năm 1571, lúc ấy, Giáo Hội đang bị quân Hồi Giáo đe dọa tiêu diệt. Họ đang sôi sục tiến về Rôma với mục đích bắt Đức Giáo Hoàng Piô V, và tham vọng san bình địa đền đài và biến thủ đô của Giáo Hội trở thành trung tâm của Hồi Giáo.
Họ sẵn sàng chém giết, bắt bớ tất cả những ai chống đối. Thời điểm này, họ rất thuận lợi khi hướng gió và mặt trời luôn ở phía sau họ, khiến cho việc tiến về thành đô Rôma rất thuận lợi.
Khi nghe tin dữ này, Đức Giáo Hoàng rất bình tĩnh, ngài đã xin ơn soi sáng và phát động chiến dịch lần Chuỗi Mân Côi để phó thác mọi sự cho Đức Mẹ. Quả thật, Mẹ đã cứu Giáo Hội một cách nhiệm mầu! Bởi vì quân Hồi Giáo là một quân hùng hậu, vũ khí tối tân, họ đứng về phía chủ động và đang gặp thuận lợi về nhiều mặt. Người Công Giáo thì ít ỏi, phương tiện thô sơ…. Nhưng hoàn toàn nhờ sự can thiệp uy quyền của Đức Mẹ, nên thay vì hướng gió thuận lợi cho quân Hồi, nên chẳng bao lâu, họ đã bị chính hướng gió xoay chiều đổi hướng liên tục, khiến các con tàu của chúng đâm vào nhau và phá vỡ chiến trận.
Chẳng mấy chốc, tin thắng trận của người Công Giáo đã đến Rôma, Đức Giáo Hoàng đã tuyên bố, đây là hồng ân phép lạ do lời chuyển cầu của Mẹ Maria. Hôm đó rơi vào đúng ngày 07/10. Vì thế, ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi được thiết lập để tạ ơn Đức Mẹ.
Có thể nói rằng: trải qua dòng thời gian, đã nhiều lúc Giáo Hội đến bến bờ vực thẳm do lòng đạo đức xuống dốc, suy thoái hoặc bị kẻ thù đe dọa. Trong những thời điểm quan trọng đó, để cứu vãn tình thế, Đức Mẹ đã hiện ra nơi này nơi kia để ban cho nhân loại sứ điệp nhằm đưa lịch sử sang trang. Trong các lần đó, không nơi nào Mẹ đặt chân đến mà không mời gọi con cái siêng năng lần Chuỗi Mân Côi để đón nhận được nhiều ơn lành của Thiên Chúa. Như vậy, kinh Chuỗi Mân Côi là một kinh rất có giá trị trước tòa Chúa và Mẹ Maria.
2. Giá trị và ý nghĩa của kinh Mân Côi
Tại sao Kinh Mân Côi lại có hiệu lực đến như vậy?
Thưa, rất đơn giản, bởi vì qua lời kinh Kính Mừng, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng, tôn vinh và chân nhận uy quyền của Mẹ.
Nhưng có lẽ điều đặc biệt hơn cả khi lần Chuỗi Mân Côi, đó là: chúng ta suy đi nghĩ lại trong lòng mọi biến cố nơi cuộc đời của Chúa Giêsu như Mẹ, đồng thời dõi bước theo Mẹ và cùng Mẹ bước đi trên các chặng đường cứu chuộc của Chúa Giêsu.
Khởi đi từ làng quê Nazareth, chúng ta cùng với Mẹ vui mừng tạ ơn Chúa đã đoái thương đến Mẹ và nhân loại khi chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Vì thế, Mẹ sẵn sàng chia sẻ niềm vui cứu độ cho mọi người qua trung gian người chị họ. Niềm vui ấy trở nên tuyệt đỉnh khi Mẹ sinh hạ Con Thiên Chúa.
Sau thời gian Mẹ – Con cùng sống chung mái nhà, giờ đây, Con của Mẹ ra đi thi hành sứ vụ Chúa Cha trao phó, Mẹ đã âm thầm theo sát Con Yêu như một người môn đệ trung tín. Những lúc vui, thành công, Mẹ luôn luôn âm thầm. Nhưng những khi Con Mẹ bị chống đối, vu vạ, cáo gian, Mẹ đã tìm đến để dõi theo, an ủi, động viên…
Có thể nói, từ làng quê Nazareth đến đỉnh đồi Canvê, Mẹ luôn luôn đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp cách nhiệm mầu. Chính vì thế, Mẹ xứng đáng được Chúa Giêsu ban tặng niềm vui Phục Sinh cùng với các môn đệ trong nhà Tiệc Ly. Sau cuộc đời tại thế, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ hồng ân trổi vượt muôn loài, đó là cho Mẹ được diễm phúc thăng thiên cả hồn lẫn xác. Cuối cùng, Thiên Chúa đã tôn phong Mẹ làm Nữ Hoàng Thiên Quốc bên tòa Chúa uy linh.
Như vậy, có thể nói: khi chúng ta lần Chuỗi Mân Côi với trọn lòng mến, chúng ta đã cùng với Mẹ sống Tin Mừng của Con Mẹ cách sống động nhất.
3. Sống sứ điệp ngày lễ
Hôm nay, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ dưới tước hiệu Mân Côi, mỗi người chúng ta hãy khám phá ra: “Chuỗi Mân côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó…” (thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II).
Hơn nữa, chúng ta hãy nhớ lại lời Đức Giáo Hoàng Piô X khuyên nhủ: “Khi gia đình không được an vui hoà thuận, hãy lần Chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng Chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần Chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông”. Ngài nói thêm: “Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối”.
Thật vậy, kinh Mân Côi là một vũ khí sắc bén để chống lại ma quỷ. Là liều thuốc hòa bình cho những ai bất an. Là nguồn nâng đỡ cho những ai yếu đuối. Là niềm hy vọng cho những người tội lỗi. Là ngọn lửa mến cho những ai nguội lạnh. Là bảng chỉ đường, ngọn hải đăng cho những ai lạc lối.
Thấy được giá trị và ơn ích của Chuỗi Mân Côi, mỗi người chúng ta hãy siêng năng lần Chuỗi Mân Côi hằng ngày. Tuy nhiên, hãy đọc trong lòng mến chứ không phải đọc cho qua hay bị ép buộc. Đọc trong tâm tình của trẻ thơ phó thác và tin tưởng nơi Mẹ. Đọc trong tâm tình hiệp thông với Giáo Hội, và nhất là đọc trong tâm tình suy đi nghĩ lại trong lòng với chính Đức Mẹ.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho Mẹ Maria những hồng ân đặc biệt, để Mẹ phân phát những ơn lành của Chúa cho nhân loại.
Xin Chúa cho chúng con biết vâng nghe lời Mẹ, để đáng được hưởng những ơn lành của Chúa ban qua Mẹ Maria. Amen.

63. Suy niệm của ĐGM. Bùi Tuần.
CẦU NGUYỆN BẰNG CHUỖI MÂN CÔI
Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.
Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.
Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.
Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.
Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.
Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.
Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.
Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.
Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.
Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.
Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.
Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.
Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.
Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.
Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.
Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào “Kinh Mân côi sống”. Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.
Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.
Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ.
Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.
Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.
Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.
Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau”. Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.
Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).

64. Kinh Mân Côi
Vào thế kỷ mười ba, bèrối Albigeois nổi lên ở miền nam nước Pháp, gây nhiều thiệt hại cho Giáo hội. Và theo truyền thuyết, chính Đức Mẹ đã hiện ra và truyền dạy thánh Đa Minh phép lần lật Mân côi, như là một phương thế tuyệt điêu để cảm hóa bè rối. Và sự thật đã xảy ra đúng như thế. Chỉ sau một thời gian ngắn quảng bá việc lần chuỗi Mân côi, thánh Đa Minh đã dẫn đưa được 150.000 người theo bè rối trởvề cùng Giáo hội. Và đó chính là nguồn gốc của kinh Mân Côi.
Tiếp đến, vào thế kỷ mười sáu, vua Thổ Nhĩ Kỳ đảm đạo quân Hồi giáo của mình xâm chiếm Âu Châu. Sau khi lấy được đảo Chypre và Creta, ông ngang nhiên tuyên bố sẽ cho ngựa ăn cỏ trong đền thờ thánh Phêrô. Trước sự tấn công như vũ bão, cũng như trước áp lực nặng nề ấy, các nước Âu châu đã phải liên kết với nhau. Đồng thời, Đức Giáo Hoàng đã truyền cho mọi người phải ăn chay, cầu nguyện và nhất là lần chuỗi Mân côi. Sau cùng, đạo quân Công giáo đã dành được chiến thắng tại vịnh Lépante. Để cám ơn Đức Mẹ và để kỷ niệm chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô V đã thiết lập lễ kính Mẹ Mân Côi hôm nay. Và đó chính là nguồn gốc của lễ Mẹ Mân Côi.
Rồi từ đó cho đến bây giờ, kinh Mân côi đã trở nên một việc đạo đức quen thuộc của người Công giáo. Vậy tại sao chúng ta lại ưa thích kinh Mân côi? Phải chăng vì cỗ tràng hạt vừa nho nhỏ lại vừa xinh xắn? Phải chăng vì kinh Kính mừng là một lời kinh vùa dễ đọc, lại vừa dễ thuộc, để rồi chúng ta có thể lần chuỗi ở mọi nơi và trong mọi lúc? Phải chăng vì tình cảm của chúng ta thường dễ hướng tới người mẹ? Phải chăng qua dòng thời gian, Mẹ đã nhiều lần hiện ra khuyên nhủ chúng ta hãy siêng năng lần hạt và hứa ban nhiều ơn lành qua việc đạo đức ấy?
Tất cả những lý do trên đều đúng nhưng còn mang nặng tính chất tình cảm. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa sâu xa và nội dung phong phú của kinh Mân Côi, khiến chúng ta càng yêu thích việc lần hạt nhiều hơn nữa.
Thực vậy, là một sáng kiến đạo đức được Mẹ đưa ra, nên chuỗi Mân côi có một hình thức thật đơn sơ: một trăm năm mươi kinh Kính mừng, mười lăm kinh Lạy Cha và mười lăm sự việc được xoay quanh mười lăm đề tài suy gẫm cụ thế và dễ hiểu.
Tuy hình thức đơn sơ, nhưng chuỗi Mân côi lại có được một nội dung phong phú. Thực vậy, kinh Lạy Cha và kinh Kính mừng là những kinh cao trọng nhất xuất phát từ Tin mừng. Còn những mầu nhiệm suy gẫm là những biến cố được rút tỉa từ cuộc đời của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Chính vì thế, chúng ta có thể gọi kinh Mân côi là một cuốn Phúc âm được rút ngắn của người tín hữu.
Vậy chuỗi Mân côi đem lại những hiệu quả nào?
Cha Lacordaire nói:
– Con đường bảo đảm nhất để về trời là con đường của các bà già, bởi vì các bà luôn có cỗ tràng hạt trong tay.
Chính Mẹ, khi hiện ra tại Phatima, cũng đã nói:
– Phanxicô sẽ được lên thiên đàng, nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.
Nếu chúng ta đọc và sống kinh Mân côi, thì kinh Mân côi sẽ là một bảo đảm cho phần rỗi của chúng ta. Tuy nhiên, ngay từ bây giờ, kinh Mân côi còn đem lại cho chúng ta nhiều an ủi và khích lệ, nhất là trong những giờ phút chúng ta gặp phải khổ đau và buồn phiền.
Có một anh lính trở về từ thế giới ngục tù đã cho biết như sau: Chính chuỗi Mân côi đã giúp anh ta cầu nguyện và thánh hóa những khổ đau trong những tháng ngày đen tối ấy. Rồi anh ta kể tiếp:
– Khi bị thương và nằm lại trên chiến trường, tôi đã lần hạt. Liền sau đó hai người bạn bên cạnh cũng muốn lần theo. Thế là tôi dứt cỗ tràng hạt làm ba mẩu, mỗi người một mẫu để cùng nhau lần chuỗi. Và mẫu chuỗi ấy, tôi vẫn còn lần nó cho đến bây giờ. Nó mãi mãi sẽ là một kỷ vật thân thương nhất trong cuộc đời của tôi. Hãy dâng lên Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, đó là những lời kinh Mân côi sốt sắng để xin Mẹ nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta luôn mãi.

65. Một phép lạ vĩ đại chưa từng xảy ra!
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
1. Fatima, 13.10.1917
Tại ngọn đồi Cova da Iria ở Fatima, Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa đã hiện ra lần thứ sáu với ba trẻ chăn chiên: Lucia (10 tuổi), Francisco (7 tuổi) và Jacinta (6 tuổi). Nhưng nhiều người cho rằng việc Đức Mẹ hiện ra chỉ là trò hề, do ba đứa trẻ nhà quê bịa đặt ra để gạt gẫm người khác hay do thủ đoạn của những người lớn đứng phía sau giật dây để nhắm tới một mục đích chính trị hay kinh tế nào đó. Chính bà mẹ Lucia cũng hoàn toàn nghi ngờ, đến nỗi bà còn đánh đập con gái mình vì cho rằng Lucia nói dối.
Để đánh tan sự nghi ngờ và bất tín của thiên hạ, nhất là để mọi người tin nhận biến cố Fatima là sự thật, trong lần hiện ra vào ngày 13.07.1917, Vị Thiên Nữ đã hứa là vào ngày 13.10.1917 sẽ có một phép lạ vĩ đại xảy ra trước sự chứng kiến của mọi người. Lời hứa này còn được Vị Thiên Nữ nhắc lại vào ngày 19.08. và vào ngày 13.09.1917.
Vâng, trong lần hiện ra vào ngày 13.09. 1917, sự thông báo của Vị Thiên Nữ về một phép lạ vĩ đại sẽ xảy ra vào ngày 13 thang 10 tới, cũng được ba trẻ nói cho mọi người hay. Vì thế đúng vào ngày đó, đã có khoảng từ 50 đến 70.000 người tấp nập đổ xô về Fatima, trong số họ, gồm có đủ mọi hạng người, từ các tín hữu, những người tò mò, cho đến cả những người nghi ngờ chống đối.
2. Nhiều phóng viên của những tờ báo lớn ở Bồ Đào Nha đã đến lấy tin
Họ đều có mặt trong lần hiện ra hôm đó. Nhưng có lẽ những phóng viên này chỉ muốn đến để để soạn sửa cho bản tin ăn khách sẽ được đăng ở trang nhất trên các tờ báo của họ trong số ra ngày mai với tít lớn: “Sự thất bại ê chề của hiện tượng Fatima”, hay: “Nhân loại văn minh của thế kỷ XX vẫn còn bị những chuyện hoang đường lừa đảo”, kèm theo những bài bình luận đầy giọng mỉa mai châm biếm tôn giáo, nếu như phép lạ đã được loan báo trước, không xảy ra.
Nhưng vào ngày 13.10.1917, mọi sự đã xảy ra hoàn toàn khác với ý nghĩ của những nhà báo này: Phép lạ cả thể đã thực sự xảy ra; mặt trời đã quay cuồng trước sự chứng kiến của tất cả mọi người có mặt hôm đó.
3. Một vị giáo sư là chứng nhân hiện tượng lạ lùng hôm đó
Ở đây, chúng ta hãy nghe tiến sĩ José Maria Proença de Almeida Garrett, giáo sư môn khoa học tự nhiên đại học Coimbra, kể lại những gì ông đã quan sát thấy ở Fatima hôm đó. Vì ông là một giáo sư, nên lời tường trình của ông rất khả tín và gây được sự chú ý của mọi người:
“Hôm đó, tôi đến nơi vào giữa trưa. Cơn mưa tầm tã từ buổi sáng sớm chẳng những không ngớt, mà bây giờ còn bị những trận gió dữ dội thổi ào tới tấp như muốn làm tràn ngập cả cảnh vật. (…) Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều. Trong vài giây lát trước đó, mặt trời còn bị che khuất sau đám mây dày đặc, bổng chốc nó chiếu sáng qua đám mây. Mọi cặp mắt đều hướng nhìn về phía mặt trời như bị một sức mạnh nam châm vô hình nào đó cuốn hút vậy. Chính tôi cũng nhìn thẳng vào mặt trời. Nó trông giống như một cái đĩa sáng rực rỡ, chói lọi nhưng không làm lóa mắt. (…) Nhưng mặt trời vào lúc bấy giờ không làm lóa mặt, không giống như khi chúng ta nhìn nó bị che khuất sau một đám mây. Không, bầu trời lúc bấy giờ hoàn toàn trong sáng, chứ không hề có một vẩn mây nào che khuất mặt trời cả; nó xuất hiện rõ ràng giữa bầu trời. Cái đĩa sáng chói đầy mầu sắc rực rỡ đó không đứng yên, nhưng chuyển động rất nhanh. Và đó không phải là những tia sáng lung linh phát ra từ các ngôi sao. Cái đĩa lửa quay tròn với một tốc độ nhanh khủng khiếp, khiến từ đám đông những người có mặt hôm đó bổng chốc vang lên những tiếng kêu la sợ hãi thất thanh. Mặt trời cứ tiếp tục quay tròn như thế cùng với tốc độ nhanh khủng khiếp tương tự, đồng thời, nó tách ra khỏi không trung và tiến đến gần mặt đất với mầu đỏ máu, mọi cảnh vật như đang sắp sửa bị nghiền nát dưới độ quay nhanh khủng khiếp của vòng lửa không lồ. (…) Tất cả những hiện tượng này tôi đã bình tĩnh quan sát và trình bày ra đây sự nhận xét khách quan của mình, chứ không do bất cứ sự xúc động nào chi phối cả. Tôi cũng hoàn toàn chờ đợi sự nhận xét và quan điểm của kẻ khác.”
4. Phải chăng đám đông bị thôi miên?
Về phép lạ mặt trời quay, có lẽ sẽ có người sẽ cắt nghĩa ngay rằng vì đã được báo từ trước, và đám đông đã đến Fatima với một tâm trạng quá nóng lòng hồi hộp chờ đợi. Vì thế, khi có một hiện tượng bất bình thường nào đó nơi mặt trời xảy ra, họ đã vội cho là phép lạ, và rồi sự công nhận đó cứ lan tỏa ra nhanh trong đám đông một cách vô ý thức như một dòng điện vậy, tương tự như phản ứng của các khán giả ngồi xem đá banh trong một sân vận động khi có cầu thủ đá thủng lưới đối phương.
Nhưng sự cắt nghĩa đó sẽ hoàn toàn trở nên buồn cười và không thể đứng vững được khi sự kiện cụ thể xảy ra trong thực tế, đó là người ta có thể quan sát và nhìn thấy được phép lạ mặt trời quay trong chu vi rộng 1550 cây số vuông.
Rất nhiều nhân chứng đã từ xa chứng kiến được phép lạ mặt trời, lại là những người vô tín ngưỡng, những người đã từng phê bình và cười chê những khách đến Fatima hôm đó như những kẻ “nhẹ dạ cả tin”.
Trong số những người quan sát được phép lạ mặt trời từ xa, chứ không có mặt tại Fatima, đã cho ý kiến như sau:
Linh mục Joaquim Lourenco, hiện là nhà giáo luật học của giáo phận Leiria, nhưng vào lúc xảy ra phép lạ, hãy còn là một học trò và cùng người anh và các bạn bè của ngài đang có mặt tại làng Alburitel, cách Fatima vào khoảng 54km. Tất cả đều tưởng ngày tận thế đã đến.
Cha Lourenco tường thuật lại như sau:
“Tôi nghĩ rằng tôi không đủ khả năng để diễn tả lại những gì chính tôi đã chứng kiến xưa kia. Tôi nhìn như dán mắt vào mặt trời để quan sát: Mặt trời có màu nhợt, đến nỗi tôi có thể nhìn thẳng vào nó mà không bị đau mắt chút nào cả. Mặt trời vào lúc bấy giờ, trông tựa như một quả bóng bằng tuyết, quay chung quanh cái trục của mình, và bổng chốc, nó như rơi ra khỏi bầu trời, quay lượn ngoằn ngoèo và tiến sát gần mặt đất với vẻ đầy đe dọa. Vì quá sợ hãi, tôi đã chạy nấp vào phía sau người lớn đang đứng khóc lóc vì tưởng rằng thế giới trong giây lát nữa sẽ bị chấm tận. Bên ngoài ngôi trường làng của chúng tôi, có một đám đông đang tụ họp lại; còn đám học trò chúng tôi thì xô nhau chạy ra khỏi lớp học và đi xuống đường. Khi phép lạ bắt đầu xảy ra thì chúng tôi nghe thấy tiếng kêu la của những người đang đứng đầy ngoài đường phía trước cổng trường, đàn ông cũng như đàn bà…
Lúc bấy giờ có một người vô thần, mà cả buổi sáng hôm đó cứ rêu rao lên tiếng chê bai cười nhạo những người tới Fatima là “những kẻ ngu ngốc”, cốt chỉ để xem một đứa bé gái nhà quê. Nhưng trong suốt lúc xảy ra phép lạ thì ông ta đứng đờ ra như một người bị bất toại cả thân mình và chỉ đưa mắt cắm chặt vào mặt trời. Ông ta bắt đầu run rẩy cả mình mẩy lẫn chân tay, rồi quỳ xuống trên bùn lầy và giơ hai tay lên trời cầu xin Chúa tha thứ cho mình.”
5. Một hiện tượng không thể cắt nghĩa được
Qua sự trình bày của tất cả mọi nhân chứng có mắt hôm đó khi xảy ra phép lạ mặt trời quay, người ta có thể nói được rằng phép lạ cả thể đó có bốn đặc điểm khác nhau:
1. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào một vật sáng chói lọi, mà họ cho là mặt trời, chứ họ không cần phải đeo kính nhâm hay bất cứ phương tiện bảo vệ mắt nào cả.
2. Vừng sáng chói lọi đó đã tỏa ra những tia sáng mầu sắc rực rỡ xuống trên mặt đất, đến nỗi mọi cảnh vật đều bị nhuộm mầu hết.
3. Vừng sáng chói lọi rực rỡ đó rơi xuống trên đám đông.
4. Chỉ trong vòng mấy phút mà cả vùng đất Fatima đang bùn lầy dơ bẩn bổng chốc trở thành khô cứng, và áo quần của đám đông trên dưới 60 ngàn người từng bị cơn mưa cả buổi sáng làm ướt đẫm, cũng hoàn toàn khô ráo bình thường.
Đúng vậy, chỉ trong vòng khoảng 10 phút đồng hồ mà cả mặt đất lầy lội cũng như quần áo ướt át của đám đông bổng chốc khô ráo hoàn toàn. Đó quả là một điều đã minh nhiên nói lên rằng ngoài phép lạ siêu nhiên ra, không thể tìm ra được lời giải thích theo phương diện tự nhiên được.


[XEM ĐI RỒI KHÓC] Xin Lỗi Em Là Người Con Gái Tệ Nhất Anh Từng Yêu Đúng Không | TAD HAY


[XEM ĐI RỒI KHÓC] Xin Lỗi Em Là Người Con Gái Tệ Nhất Anh Từng Yêu Đúng Không | TAD HAY
Blog tâm trạng, blog tình yêu, blog buồn, tin nhắn tình yêu, truyện ngôn tình….!!!!\r
\r
► cảm ơn mọi người đã xem video của mình…..\r
hãy ủng hộ mình bằng cách đăng kí kênh và like video nhé…….\r
\r
✬mọi người đăng kí kênh 2 giúp ad với nha, iu mọi người nè:\r
https://bit.ly/2BFLB5D\r
Link kênh của em trai Ad: Wow NVT YouTube \r
https://bitly.vn/7zru\r
\r
fb ad:https://www.facebook.com/soithoi0401\r
Zalo : 0393431475\r
\r
✬liên hệ quảng cáo:\r
★gmail: soithoi123@gmail.com\r
\r
✬ Mọi người vào page này theo dõi trang để kết bạn nói chuyện cho vui nhé\r
?https://www.facebook.com/SoiThoi95\r
Link nhạc: https://www.youtube.com/channel/UCVwNxxcdEFOVVb9DMeByS8w?view_as=subscriber\r
\r
tadhay xemdiroikhoc blogtamtrang\r
\r
© Bản quyền thuộc về TAD HAY\r
© Copyright by TAD HAY☞ Do not Reup\r
\r
★ TAD HAY:_CHÚC CÁC BẠN CÓ MỘT NGÀY VUI VẺ_\r
…………………………………………………….✬✬✬✬✬✬✬

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kỹ Năng Sống
Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kỹ Năng Sống

Related Articles

Back to top button