Kỹ Năng Sống

80 bài thơ về bạn thân cực ý nghĩa, cảm xúc

Bạn đang gặp khó khi làm bài Cảm nhận bài thơ Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng? Đừng lo! Hãy tham khảo những bài văn mẫu đã được tuyển chọn và biên soạn với nội dung ngắn gọn, chi tiết, hay nhất của THPT Ninh Châu dưới đây để nắm được cách làm cũng như bổ sung thêm vốn từ ngữ nhé. Chúc các bạn có một tài liệu bổ ích!

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Hoàng Hạc Lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng

1. Mở bài

Bạn đang xem: Cảm nhận bài thơ Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng – Văn mẫu 10 hay nhất

– Giới thiệu sơ qua vài nét về tác giả Lí Bạch: Là nhà thơ nổi tiếng thời Đường (Trung Quốc), được người đời mệnh danh là “thi tiên”

– Giới thiệu khái quát giá trị nội dung tác phẩm Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng.

2. Thân bài

* Cảm nhận hai câu thơ đầu: “Cố nhân… Dương Châu” (Bạn từ lầu Hạc… xuôi dòng)

– Nội dung chính: Khái quát khung cảnh chia tay giữa người đi – Mạnh Hạo Nhiên (bạn thân chí cốt của tác giả) lên đường đi Quảng Lăng thuộc Dương Châu để làm quan và người đi tiễn – nhà thơ Lí Bạch 

– Thời gian: Vào mùa hoa khói, mùa xuân

– Địa điểm của cuộc chia li: Tại lầu Hoàng Hạc ở phía Tây 

– “Cố nhân”: Hạo Nhiên là người bạn đã thân thiết từ rất lâu, người bạn tri âm, tri kỉ của tác giả

=> Người đi, kẻ ở lại khiến con người ta có gì bứt rứt trong lòng.

* Cảm nhận hai câu thơ cuối: “Cô phàm… thiên kế lưu” (Bóng buồm… trên trời)

– Được coi là linh hồn của bài thơ đồng thời là tâm trạng của tác giả

– Các hình ảnh đặc sắc:”bóng buồm, dòng sông, bầu trời”…

+ Cánh buồm: Nhỏ bé, xa dần, mờ dần rồi mất hút, khiến tác giả trông theo mà chỉ thấy “dòng sông trên trời”

+ Dòng sông, bầu trời: Rộng lớn, bao la

=> Cánh buồm cô đơn, lẻ loi hay cũng như tâm trạng của Hạo Nhiên, của tác giả khi đó

– Lí Bạch đứng đó trông theo rất lâu từ khi con thuyền xuôi dòng cho đến khi biến mất xa tít tắp, không còn một dấu chấm nhỏ nhoi

=> Tình cảm sâu nặng của ông dành cho người bạn cố nhân của mình

* Khái quát lại giá trị nghệ thuật bài thơ: 

+ Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật vẻn vẹn trong 28 chữ nhưng cô đọng, hàm súc

+ Hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc

+ Cả bài thơ không có từ ngữ nào miêu tả trực tiếp cảm xúc, tâm trạng buồn bã, cô đơn nhưng lại giúp người đọc cảm nhận rõ sự trống vắng, hụt hẫng của tác giả.

3. Kết bài

– Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm

– Nêu suy nghĩ, cảm xúc của bản thân. 

Cảm nhận bài thơ Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của Lí Bạch – Bài văn mẫu 1

       Lí Bạch là một nhà thơ nổi tiếng và lỗi lạc thời Đường. Tuy những tác phẩm của ông đã có phần bị thất lạc nhưng đến ngày nay, sự nghiệp thơ của Lý Bạch vẫn còn lưu giữ lại được gần một nghìn bài, trong đó có những thi phẩm được tôn vinh là kiệt tác. Thơ ông có phong cách phóng khoáng, thể hiện lòng hào hiệp, khát khao tự do và thái độ xem thường công danh, phú quý, tiền bạc. Ông thường sáng tạo ra những hình ảnh độc đáo, những cảnh sắc huyền ảo và lung linh, vi diệu. Do đó, người đời vẫn tôi tặng ông danh hiệu “thi tiên”.

       Trong những sáng tác được lưu truyền đến ngày nay của Lý Bạch, ta không thể không nhắc đến bài thơ tứ tuyệt vô cùng nổi tiếng “Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”  dịch nghĩa là “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng.”

       Như chúng ta đã biết, Lý Bạch có nhiều bạn bè với nhiều tầng lớp khác nhau. Tình bạn của ông bao giờ cũng rất nồng hậu và chân thành. Ông có một tình bạn tuyệt vời với Uông Luân, một người bạn nông dân vô cùng chất phác và ông cũng đã từng chia sẻ tình cảm của bạn đối với mình là “sâu hơn nghìn thước”. Hay khi nghe tin bạn thơ Vương Xương Linh gặp phải chuyện chẳng lành, Lý Bạch đã mượn ý thơ mà chia sẻ với bạn nỗi buồn:

Ta gởi nỗi sầu cho trăng sáng

Theo gió đi về đất Dạ Lang

       Thêm vào đó, tình bạn giữa Lý Bạch và Đỗ Phủ vẫn là thứ tình bạn tri âm, tri kỷ tuyệt vời nhất mà hậu thế vẫn luôn ca ngợi. Cũng như vậy, Mạnh Hạo Nhiên là người bạn chí cốt, quen biết đã lâu của Lý Bạch. Hai người có rất nhiều điểm tương đồng như: đều muốn ra làm quan nhưng con đường công danh lại không được toại nguyện. Vì vậy họ đều tìm vui thú ở chốn non xanh, nước biếc. Đặc biệt, hai phong cách thơ của hai thi nhân có rất nhiều điểm gặp gỡ. Bởi vậy, khi phải nặng lòng tiễn bạn đi xa, lẽ nào nhà thơ chẳng lưu luyến?

       Hai câu đầu của bài thơ:

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu

In hoa tam nguyệt hạ Dương châu

       Ta dễ tưởng đây chỉ là những câu thơ trần thuật đơn giản. Không gian đưa tiễn là lầu Hoàng Hạc, thời gian đưa tiễn là một ngày tháng ba mùa yên hoa nở, nơi mà Mạnh Hạo Nhiên đến là Dương Châu. Tất cả đều được truyền đạt thông qua hai câu thơ ngắn gọn với đầy đủ những thông tin về cuộc đưa tiễn người bạn tri âm. Nhưng, khi đọc kỹ, ngẫm cho thấu ý thơ thì đó không chỉ là những thông tin lạnh lùng trên tranh giấy mà còn bao trùm lên đó là nỗi buồn thầm kín mà thấm thía. Chữ “cố nhân” ở Câu thơ được dịch thành chữ bạn. Tuy không sai nhưng nó lại chưa lột tả được sắc thái biểu cảm mà nguyên tắc Lý Bạch đã sử dụng. Cố nhân là bạn cũ, bạn lâu năm và hơn nữa đó phải là người mà ta đã từng rất trân trọng, gắn bó. Xa bạn cũ chẳng ai mà thấy không buồn, hơn nữa, với người bạn đã thân thiết từ rất lâu, nỗi buồn kia chắc chắn rằng sẽ phải nhân lên gấp bội.

       Cũng như nhiều cuộc chiến biệt được diễn tả trong các áng thơ Đường, cuộc chia tay này cũng diễn ra bên bờ sông. Nhưng điểm nhìn của người đưa tiễn lại bắt đầu từ lâu Hoàng Hạc. Dường như, nhờ đứng ở trên lầu cao chót vót mà Lý Bạch có thể nhìn kỹ, nhìn lâu và nhìn xa hơn hình ảnh của người bạn thân. Và cũng từ đó mà nỗi buồn xa bạn, xa người thương trở nên thấm thía hơn khi đối diện với sự bao la của đất trời.

       Điều này sẽ được thể hiện rõ nét hơn ở trong hai câu thơ cuối:

Cô phải làm viện ảnh bích không tận,

Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

       Nếu như hai câu thơ đầu chủ yếu tường thuật về cuộc diễn biến buổi chia tay thì hai câu thơ sau lại là nỗi lòng của kẻ đưa tiễn. Ở câu thơ thứ ba, bản dịch đã thiếu mất chữ “cô” – cô đơn lẻ loi. Đây là một từ ngữ vô cùng quan trọng để có thể miêu tả được sinh động hơn nội tâm của nhà thơ. Ngoài ra, câu thơ dịch này còn để mất ba chữ “bích không tận” – mất đi khoảng cách của không gian xanh biếc, chất chứa biết bao tâm trạng của nhân vật trữ tình. Và như vậy, câu thơ dịch dễ khiến cho người đọc hiểu lầm rằng đó chỉ là thơ tả cảnh đơn thuần, không lồng xen với tình cảm. Hình ảnh của bóng cánh buồm cô lẻ xa dần trong khoảng không gian xanh biết khiến cho người đọc có nhiều liên tưởng phong phú. Sự cô đơn của cánh buồm rất có thể là sự cô đơn của chính tác giả Lý Bạch cũng như người ra đi là Mạnh Hạo Nhiên. Chỉ bằng một hình ảnh, thi nhân đã bộc bạch được lòng mình, lòng bạn trong buổi chia phôi đầy xao xuyến.

       Đến câu thơ thứ tư, bản dịch đã giữ được hình ảnh dòng sông bên trời mộng mơ nhưng đáng tiếc lại thêm hai chữ “trông theo”. Hai chữ này đã làm lộ ý thơ, thơ của Lý Bạch vốn được diễn tả theo phong cách “ý tại ngôn ngoại” nên bản dịch đã khiến cho nét đặc sắc tiêu biểu trong thư ông biến mất.

       Thông thường, khi viết về những cuộc chia ly, người ta thường hay miêu tả cử chỉ và ngôn ngữ của kẻ chia ly và người đưa tiễn. Nhưng bài thơ này của Lý Bạch lại thật đặc biệt, ông không làm như vậy. Chia ly mà chẳng hề nhắc đến những giọt lệ tiễn biệt, những lời nói lâm li, đầy lưu luyến. Nhà thơ đã phá vỡ hệ thống ngôn từ, cách kể và cách tả cảnh chia ly quen thuộc từ trước đến nay. Sự phá vỡ ấy đã tạo ra một nghệ thuật, một bài thơ thật đặc sắc. Để rồi, khi nhắc đến Lý Bạch, nhắc đến những buổi chia ly người ta vẫn nhớ đến một “Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” đặc biệt, đầy ngập ngùi dù chẳng có bất cứ ý một giọt nước mắt hay một lời xót xa nào.

Xem thêm :  Mẫu bản kiểm điểm đảng viên năm 2016, bản kiểm điểm đảng viên năm 2016

Cảm nhận bài thơ Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của Lí Bạch – Bài văn mẫu 2

Cảm nhận bài thơ Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng (ngắn gọn, hay nhất) (ảnh 2)

       Lí Bạch là nhà thơ trữ tình thời Đường, ông nổi tiếng học rộng biết nhiều Qua thơ ông, chúng ta có thể dựng lại hình ảnh của một trí thức có hoài bão. có tài năng, sống trong chế độ chuyên chế đang bước vào thời kì suy thoái Thơ ông phóng khoáng, tự do, có những hình tượng độc đáo. Ông viết về tình yêu, tình bạn về chiến tranh và đặc biệt là nói về tình yêu thiên nhiên. Bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” là một trong những bài thể hiện rõ đặc trưng thơ ông.

“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu

Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu

Cô phàm viễn ảnh bích không tận

Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu’’.

       Mở đầu bài thơ tác giả đã giới thiệu cố nhàn là người tri âm tri kỉ. Người bạn ấy từ phía Tây đi đến điểm hẹn chia li là lầu Hoàng Hạc. Như vậy bại. đã từ giã, lí tưởng ẩn cư xuất thế của mình để ra đi. Điểm gặp hẹn ước là một nơi người trần đã thoát lên tiên. Vậy mà, con người tiên cốt của Mạnh Hạo Nhiên lại từ bỏ giấc mơ tiên để về với đời trần. Để rồi sau đó bạn xuôi xuống vùng đô hội của thành Dương Châu vào tiết cuối xuân có những bông hoa khói tụ trên những lớp sóng của Trường Giang. Câu thơ tả cảnh rất đẹp. Với một người có cốt cách tiên ông như Mạnh Hạo Nhiên thì con thuyền của Mạnh đi giữa sự êm dịu của sóng nước tràn lan. Đi tới đâu hoa khói cứ nở búp trên đầu ngọn sóng sao mà đẹp thế. Hiểu bạn mình như vậy quả là tri ki bởi Mạnh Hạo Nhiên là nhà thơ có khí vị tiên phong đạo cốt. Tuy nhiên xuống “Dương Châu” là nguyên nhân để cho cuộc đời ý nghĩa nhất của mình di vào những ngày tàn cuộc, đi xuống Dương Châu giấc mộng phồn hoa sẽ như những búp sóng có đấy rồi sẽ tan đấy.

“Cô phàm viễn ảnh bích không tận”.

       Đã nói về hình ảnh chiếc thuyền chở bạn mình đi xa dần xa dần chi còn thấy cánh buồm và cánh buồm ấy như một chấm nhỏ cứ nhích dần nhích dần vào khoảng không gian vô tận của màu xanh ngọc bích. Câu thơ đã gợi về thời gian rất dài, từ khi con thuyền xuôi bến, đôi mắt của nhà thơ đã dán vào nó, rồi con thuyền đã xuôi mãi về phía chân trời xanh. Bạn đã ra đi để lại một mình nhà thơ cô đơn nhưng chính Lí Bạch lại thấy điều ngược lại. Thấy bạn mình ra đi trong cô đơn và cuộc phiêu lưu phía trước chưa hứa hẹn điều gì tốt đẹp. “Cô phàm” đâu phải chỉ là cánh buồm cô đơn? Như vậy kèm theo đôi mắt đăm dăm, Lí Bạch đã gửi vào cánh buồm lẻ loi cô đơn của bạn một niềm ái ngại không biết chuyến đi này của bạn lành dữ ra sao. Có lẽ chính vì những nỗi lo âu ấy mà họ Lí không tin bạn mình xuống Dương Châu. Kì lạ thay con thuyền xuôi dòng sông nước lại được nhìn như cánh thuyền nâng mình bay vào vũ trụ của màu xanh mênh mông. Vậy là trong ý thức, Lí Bạch biết bạn mình xuống Dương Châu nhưng trong mơ ước, trong mong mỏi, ông muốn bạn mình là con người của cõi tiên tìm ý nghĩa của cuộc sống không phải ờ nơi bụi bậm mà ở nơi của cái cao siêu thanh sạch – nơi “bích không tận”.
 
       Câu cuối cùng của bài thơ có một cách chiếm lĩnh hiện thực rất riêng biệt của Lí Bạch như cánh buồm đã hòa tan vào không gian xanh. Trước mắt Lí Bạch chỉ còn một dòng sông tràn lan mênh mông chạy mãi phía bên trời. Bạn đi tất cả đều trống vắng. Đây là tâm cảnh chứ không phải là thực cảnh. Bởi không ai có thể tin được dòng Trường Giang phía thành Dương Châu đô hội đầy những thuyền bè tấp nập buôn bán mà chỉ cần thiếu cánh buồm của họ Mạnh thì trở nên trống không .Trường Giang này là con sông ờ trong lòng và dòng chảy vẫn cố gắng theo bạn mình đến chốn xa xôi. Cuộc đưa tiễn dường như đã kết thúc nhưng con mắt nhìn của nhà thơ vẫn cứ đăm đăm và nỗi lòng của Lí Bạch vẫn theo dòng nước Trường Giang về phía bạn mình.

       Lí Bạch là một nhà thơ lớn của đời Đường, tâm hồn cũng như thơ của ông thật phóng khoáng. Bài thơ không hề có từ nào là buồn, thương, nhớ, cũng chẳng có giọt lệ nào trong buổi tiễn đưa mà vẫn gợi nên cái buồn mênh mông sâu lắng. Với một nghệ thuật thật độc đáo, Lí Bạch đã thể hiện tình bạn da diết. Đó chính là chủ đề tư tưởng của tác phẩm mà tác giả đã gửi gắm vào nó bằng chính cả tấm lòng của mình.

Cảm nhận bài thơ Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của Lí Bạch – Bài văn mẫu 3

       Lí Bạch – một nhà thơ nổi tiếng thời Đường ở Trung Quốc. Ông có tài năng thơ ca lãng mạn nên người đời gọi ông là Thi tiên (Tiên thơ). Trong sự nghiệp của ông, ông đã để lại nhiều tác phẩm văn học với trên một nghìn bài thơ và bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng có thể coi là một bài thơ kiệt tác. Bài thơ đã thể hiện tình bạn chân thành mà sâu sắc giữa Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên qua cuộc chia tay thật xúc động.

       Mở đầu bài thơ, tác giả đã khái quát được cả khung cảnh chia tay:

“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu

Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”

(Bạn từ lầu Hạc lên đường

Giữa mùa hoa khói, Dương Châu xuôi dòng)

       Chỉ với hai câu thơ, người đọc đã có thể nắm bắt được cả thời gian, không gian địa điểm của cuộc chia li. Người đi, kẻ ở lại khiến con người ta có gì bứt rứt trong lòng. Mạnh Hạo Nhiên – người bạn thân chí cốt của tác giả, đã lên đường đến một nơi rất xa, đó là Quảng Lăng thuộc Dương Châu – một nơi phồn hoa đô thị với sự nghiệp làm quan. Còn tác giả chính là người đưa tiễn cũng là người ở lại và mang trong mình nỗi buồn chất chứa. Thời gian chia tay vào mùa hoa khói, mùa xuân là một mùa đầu tiên của một năm, ấy vậy tác giả đã phải nói lời tạm biệt với người bạn của mình trên lầu Hoàng Hạc ở phía Tây, một nơi phong cảnh trữ tình. Lí Bạch gọi “bạn cũ” là “cố nhân” có thể thấy rằng, Hạo Nhiên là một người bạn đã thân thiết từ lâu, người bạn tri âm, tri kỉ, vậy mà giờ họ đã ly biệt trong một khung cảnh đẹp như vậy.

       Cuộc chia tay nào rồi cũng có hồi kết thúc, nhưng tình cảm đọng lại của người ở lại mãi không thôi khi theo dõi người ra đi từng chút xa dần:

“Cô phàm viễn ảnh bích không tận

Duy kiến Trường Giang thiên kế lưu.”

(Bóng buồm đã khuất bầu không

Trông theo chỉ thấy dòng sông trên trời.)

       Hai câu thơ cuối chính là linh hồn của bài thơ, mà cũng chính là tâm trạng của tác giả qua các hình ảnh: Bóng buồm, dòng sông, bầu trời. Cánh buồm thật nhỏ bé so với một dòng sông bao la rộng lớn ấy, với khoảng không trước mặt, một bầu trời lớn hơn. Cánh buồm cô đơn lẻ loi, phải chăng tác giả cũng cảm nhận được tâm trạng của Hạo Nhiên lúc ấy, cũng buồn như tác giả. Hình ảnh đó cứ xa dần, mờ dần, rồi mất hút, khiến tác giả trông theo mà chỉ thấy “dòng sông trên trời”. Dễ thấy, tác giả đã đứng đó trông theo rất lâu, ta càng cảm nhận được thời gian rất lâu từ khi thuyền xuôi dòng cho đến khi biến mất xa tít tắp, không còn một dấu chấm nhỏ nhoi, ta càng thấy được tình cảm của ông dành cho người bạn cố nhân của mình. Giờ đây, trước mắt ông chỉ là một bầu trời xanh biếc với dòng sông Trường Giang dài rộng vô tận, sự cô đơn, chống vắng ngày càng sâu đậm hơn.

       Một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật chỉ vẻn vẹn trong hai mươi tám chữ đã cô đọng lại biết bao cảm xúc. Tác giả đã rất thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ thật tài tình, những hình ảnh thiên nhiên trời đất vừa gợi hình, gợi cảm. Một điều đặc biệt mà tác giả đã đem lại cho người đọc đó là, cả bài thơ không có từ nào miêu tả cảm xúc, một tâm trạng buồn bã hay cô đơn, nhưng ta lại càng cảm nhận rõ sự chống vắng hụt hẫng của tác giả thế nào khi chia tay người bạn của mình. Ông thật xứng đáng được mệnh danh là “Thi tiên”.

       Bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả, không chỉ về cái hay về nghệ thuật miêu tả cảnh mà hay ở tình cảm của tác giả trong câu chữ đó. Một tình bạn sâu sắc, chân thành bao trùm lên tất cả và luôn sống mãi với thời gian.

Cảm nhận bài thơ Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của Lí Bạch – Bài văn mẫu 4

       Nhà thơ Lí Bạch – một cây đại thụ trong nền văn học nói chung và thơ ca Trung Quốc nói riêng, ông là một nhà thơ lãng mạn, bay bổng, lại hay nói đến cõi tiên cảnh nên còn được gọi là “Thi tiên”. Lí Bạch đã để lại khối lượng thơ ca đồ sộ và phong phú, trong đó có bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” là một trong những bài thơ hay của ông về tình bạn. Đó là tình bạn rất chân thành, trong sáng và thắm thiết giữa Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên, một tình bạn mà dù ở thời đại nào cũng rất đáng để người đời trân trọng và cảm phục.

Xem thêm :  Những bài thờ tình hoa lục bình với kiếp trôi nổi, lênh đênh những bài thơ tình yêu hay viết về loài hoa lục bình, một loài hoa mà suốt đời mãi chỉ lênh đênh, trôi nổi cuốn theo dòng nước. hình ảnh ho

       Nguồn cảm hứng của bài thơ chính từ buổi chia tay đầy lưu luyến giữa hai người bạn tri kỉ là Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên, trong lòng người ở lại là Lí Bạch chan chứa những nỗi niềm lưu luyến, day dứt:

“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu

Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu

Cô phàm viễn ảnh bích không tận

Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu”

       Có thể thấy, trong bài thơ cảnh và tình đã được hòa quyện với nhau thật tinh tế và khéo léo, thứ nhất là vẻ đẹp của thiên nhiên trong khung cảnh tiễn biệt tại lầu Hoàng Hạc, thứ hai là tâm trạng và cảm xúc của người ở lại hay chính là của tác giả. Cảm nhận về không gian tiễn biệt, nhà thơ Lí Bạch đã vẽ nên một bức tranh tứ bình hoa lệ:

“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu

Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”

       Câu thơ vừa giới thiệu và khẳng định tình bạn của nhà thơ với Hạo Nhiên lại vừa cho thấy được không gian, thời gian của cuộc chia tay tiễn biệt tại lầu Hoàng Hạc. Lí Bạch gọi Hạo Nhiên là “cố nhân”, cho thấy đây là một người bạn tri âm, tri kỉ của ông, hai người hẹn nhau tại một nơi người trần thoát lên tiên – theo truyền thuyết Phí Văn Vi cưỡi hạc vàng bay lên trời. Lầu Hoàng Hạc nổi tiếng là một thắng cảnh đẹp của Trung Quốc với vẻ đẹp thanh cao, thoát tục, trong tiết trời tháng 3 cuối xuân – mùa hoa khói tạo thành lớp sóng trên sông Trường Giang tạo nên một cảnh tượng man mác, êm dịu, đượm buồn trong buổi tiễn biệt. Dòng Trường Giang đưa bạn hiền đến chốn phồn hoa đô hội trở nên mênh mông, hun hút, cảm giác xa cách nghìn trùng, quả thực “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, bức tranh thiên nhiên tuy đẹp và huyền ảo như chốn tiên cảnh nhưng vẫn không thể che giấu được nỗi buồn man mác trong buổi chia li giữa những người bạn tri kỉ.

“Cô phàm viễn ảnh bích không tận

Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu”

       Câu thơ chứa đựng nỗi buồn trong cô độc, lẻ loi của người ở lại, chiếc thuyền chở Mạnh Hạo Nhiên đã khuất vào trong làn sương khói mênh mông, Lí Bạch vẫn dõi mắt theo tiễn đưa cho tới khi không còn nhìn thấy con thuyền. Dòng sông Trường Giang, một trong những con sông lớn nhất của Trung Quốc, luôn nhộn nhịp và tấp nập thuyền bè qua lạinhưng trong bài thơ này nó trở nên vắng lặng và trống không trong con mắt và cảm nhận của Lí Bạch.Chỉ có con thuyền chở người bạn của nhà thơ đi Dương Châu, khi bóng thuyền đã khuất, nhà thơ chỉ còn thấy dòng sông bên trời. Đó chính là tâm trạng lưu luyến đầy tiếc nuối và cô đơn của nhà thơ, lại thêm không gian mênh mông, rộng lớn của dòng Trường Giang, càng tô đậm vẻ đơn độc, trống trải và hụt hẫng của tác giả khi phải chia tay người bạn tri kỉ đi về miền xa xôi.

       Bút pháp lãng mạn bay bổng cùng với tình cảm chân thành, tha thiết mà Lí Bạch dành cho Mạnh Hạo Nhiên trong bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” đã khẳng định một tình bạn cao đẹp, chân thành và trong sáng. Chỉ bằng những lời thơ nhẹ nhàng, không hề lâm li, thống thiết nhưng người đọc vẫn thấu hiểu được nỗi lòng của nhà thơ, lại vừa xúc động trước một tình bạn tri âm tri kỉ vang vọng mãi đến ngàn đời.

Cảm nhận bài thơ Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của Lí Bạch – Bài văn mẫu 5

 

       Tống biệt là mảng đề tài sáng tác quan trọng trong sự nghiệp thơ ca của thi tiên Lí Bạch. Cùng với các mảng đề tài viết về thiên nhiên, tình yêu, tình bạn, chiến tranh,… tống biệt đã góp phần khẳng định tài năng hiếm có của nhà thơ được mệnh danh là một trong những đinh cao sáng chói của thơ Đường. Bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng thể hiện tập trung nhất tài năng của nhà thơ về máng đề tài này.

       Phiên âm

Cô nhân tây từ Hoàng Hạc lâu

Yên ba tam nguyệt há Dương Châu 

Cô phàm viễn ảnh bích không tận 

Duy kiến trường giang thiên tế lưu

       Dịch nghĩa

Bạn cũ giã từ lầu Hoàng Hạc, ở phía Tây (hoặc Ngoái về phía Tây, bạn củ giã từ lầu Hoàng Hạc)

Xuôi về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói (hoặc mùa hoa nở rộ).

Bóng cánh buồm lẻ loi xa dần, mất hút vào khoảng không xanh biếc, 

Chỉ thấy sông Trường Giang chảy vào cõi trời (hoặc chảy ở bên trời).

       Dịch thơ

Bạn từ lầu Hạc lên đường,

Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng.

Bóng buồm đã khuất bầu không, 

Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời

                                                (Ngô Tất Tố dịch)

       Là người sống với tâm hồn lãng mạn tột độ, yêu say đắm cảnh vật thiên nhiên và thiết tha với tình bằng hữu, Lí Bạch đã tạo dựng được phong cách thơ mà đã khiến hậu thế suốt bao đời nay khâm phục, học hỏi. Nét đặc trưng trong thơ Lí Bạch là sự hào sảng của một tâm hồn lớn, người mang trang trí muốn giúp nước an dân. Thơ ông được dựng nên từ những hình ảnh kì vĩ, phi thường đến mức mà người đọc chỉ còn biết kính cẩn nghiêng mình chứ không thổ nào bắt chước nổi. Tình cảm trong thơ Lí Bạch tha thiết, nồng thắm. Đặc biệt là với tình bạn. Bài thơ Lí Bạch sáng tác nhân dịp tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng là một trong số đó.

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu 

       Bài thơ bắt đầu bằng hai khách thể: bạn cũ (cũng có nghĩa là bạn thân thiết) và lầu Hoàng Hạc. Bằng cách đặt vấn đề quan hệ này, nhà thơ đã vẽ nên sự trang trọng cho hồn thơ. Hình ảnh lầu Hoàng Hạc gợi lên âm hưởng phiêu diêu thoát tục, gắn với truyền thuyết Phí Văn Vi ờ nước Thục tu thành tiên cưỡi hạc vàng về thâm đất ấy rồi bay đi. Sự tích này được gợi lên từ động từ từ biệt (từ giã). Dường như đã có sự so sánh ngầm Mạnh Hạo Nhiên giã từ lầu Hoàng Hạc như cách tiên ông Phí Văn Vi từng rời đất này. Mảnh đất xây nén tòa lầu ấy đã trở thành đất thiêng và người giã biệt nơi ấy cũng mang cốt cách phi phàm.

       Câu thơ không dùng một từ miêu tả Mạnh Hạo Nhiên những hình ảnh của nhân vật này vẫn phảng phất, mơ hồ sau câu chữ. Đây chính là nghệ thuật dùng không để gợi có rất nổi tiếng của thơ Đường.

       “Ra đi từ phía tây” hoặc “ngoái về phía tây” để từ biệt có thể được hiếu từ cụm tây từ. Như thế địa điểm đã được xác định (lầu Hoàng Hạc), hướng đến cũng được xác định (đi từ phía tây) và tình cảm cũng được xác định (bạn thân) nhưng nỗi buồn li biệt vốn có thì không hề xuất hiện trong thơ. Vì lẽ đó bài thơ làm khi giã biệt này không đắm chìm trong nỗi buồn mà chi định để ghi lại kỉ niệm của một lần gặp gỡ, chia xa nơi đất khách quê người, một điểm dừng chân trên nẻo đường lang bạt.

Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu

(Xuôi về Dương Châu giữa tháng ba mùa hoa nở rộ)

       Ở câu thơ thứ hai, thời gian được xác định (giữa tháng ba) và địa điểm cũng được nêu rõ (Dương Châu). Nếu lầu Hoàng Hạc gắn với điển tích thần tiên thì Dương Châu là mảnh đất của thực tại, nơi phù trú, sầm uất bậc nhất Trung Quốc thời bấy giờ. Từ cảnh mộng, Lí Bạch đưa ta về thực tại. Một thực tại đẹp với cả “mùa hoa” đang “nở rộ” và thời gian dường như cũng muốn tôn thêm vẻ đẹp ấy. Đến đây, người đọc thấy rõ hơn bầu không khí của cuộc đưa tiễn. Cứ ngỡ nhà thơ đang đi hoặc sắp đi theo bạn. Chí có điều ta không biết họ sẽ đi bằng phương tiện gì, đi bộ, đi ngựa hay đi thuyền?

       Dương Châu là nơi đến nhưng người đi vẫn chưa đến. Lúc này đây, cảnh vật ngoài lầu Hoàng Hạc là cả rừng hoa nở rộ. Hoa trong sương, hoa như được khói bao phủ, hoa khói (yên hoa) gợi người đọc hình dung về bầu không khí ban mai trong lành, ấm áp của buổi đưa tiễn. Phải là khoảng thời gian trước buổi trưa thì bầu không khí thơ mới rộn ràng không rơi vào sầu cảm

       Lí Bạch thường miêu tả trăng. Trăng là bầu bạn của ông. Trăng là tác nhân mang nỗi nhớ:

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ cố hương

(Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh)

       Lí Bạch còn là nhà thơ của những buổi sớm mai. Lãng đãng trong hơi sương mặt trời mặt là từ thơ trầm hùng riêng thuộc về ông: “Nhật chiếu Hương I.Ô sinh tử yên” (Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía). Và đày Cling là buổi sáng nhưng không có mặt trời chỉ có “hoa khói” bởi tiên dưa nhau trong ánh nắng chói trang rực rỡ thì còn gì là nỗi buồn li biệt?

       Hai câu thơ, câu đầu ghi sự việc (bạn đi Dương Châu), câu sau miêu tả cảnh vật, thế mà tình người vẫn hiển lộ qua khung cảnh trầm mặc, đầy sắc màu của một sớm xuân. Không có nắng thì màu sương khói nói hộ nỗi lòng. Bón khách thế: cố nhân, lầu Hoàng Hạc, hoa khói, Dương Châu xuất hiện trong các mối quan hệ ở thực tại và cả ớ tầng vỉa văn hóa, thi pháp chìm ẩn đã tạo nên trường liên tưởng mênh mông vừa vẽ lên hình ảnh người ra đi và tâm trạng của người đưa tiễn. Phải gắn bó, thắm thiết lắm lắm thì Lí Bạch mới gọi Mạnh Hạo Nhiên là cố nhân

       Bài thơ bốn câu, nếu xét về mặt cú pháp ngữ nghĩa nội dung thông báo thì chi bao gồm hai câu. Câu thứ nhất: bạn từ đâu đi, lúc nào, đến đâu và khung cánh ra sao? (Ngoái về phía tây, bạn củ giã từ lầu Hoàng Hạc, xuôi về Dương Châu giữa tháng ba mùa hoa nở rộ).

       Câu thứ hai: đi bằng phương tiện gì, đi ra sao và trong khung cảnh nào? (Bóng cánh buồm lẻ loi xa xa mất hút vào khoảng không xanh biếc, chì thấy sông Trường Giang chảy ở bên trời).

       Điều kì diệu ở thơ Đường, đặc biệt ở thơ Lí Bạch là có rất nhiều bài, đọc lên ta chỉ thấy toàn cảnh vật, sự việc. Chúng được miêu tả xác thực, rất thật, ở bài thơ này cũng vậy: lầu Hoàng Hạc, Dương Châu, bóng cánh buồm, sông Trường Giang,… thì hầu như chẳng có gì xa lạ với bất kì ai từng đặt chân lên miền đất ấy. Thế nhưng, chí cần thêm một vài điểm nhấn, thì bản hòa âm tiễn biệt ấy đã mang một sắc thái kì lạ, âm hưởng không thể lẫn vào đâu được. Đấy là “khoảng không xanh biếc”, “chi thấy”, “chảy ở bên trời”.
Để hiểu được sự tài tình của Lí Bạch ở hai câu thơ sau, người đọc phải đọc đằng sau câu chữ, đọc giữa khoảng trống các từ và dùng liên tưởng để tiếp nối, lấp đầy những khoảng không mà thi nhân chưa nói hết.

       Đối với bài thơ này, chủ đề của nó là thông qua cảnh tiễn biệt, Lí Bạch bày tỏ tình bạn thắm thiết của mình với Mạnh Hạo Nhiên. Thế nhưng, toàn bộ bài thơ chi có hai chữ trực tiếp đề cập đến chuyện giã biệt: giã từ (từ) và xuống (há). Hai mươi sáu chữ còn lại dùng để kể và miêu tả sự việc, sự vật mà không hề đả động gì đến tình cảm của người đưa tiễn. Ấy thế mà, bài thơ vẫn trĩu cảnh lưu luyến, vấn vương.

       Khoảng không của văn bản trước hết được “gửi” qua các địa danh, thắng cảnh. Phần trước chúng tôi đã bàn đến sự tích lầu Hoàng Hạc. Bây giờ, chúng ta cùng chú ý đến Dương Châu. Thời Lí Bạch, Dương Châu là vùng đất sầm uất và là đô thị giàu có bậc nhất. Vì vậy, đi đến Dương Châu và rất có thể là đi du ngoạn thì không thể nào chuyến đi đó mang nỗi buồn được. Cái buồn ở đây chỉ là sự luyến tiếc, ngậm ngùi giữa hai người thân như mọi cuộc chia tay bằng hữu khác.

       Giữa câu hai và câu ba cũng có một khoảng trống nghệ thuật. Đang nói chuyện trên bờ (hoa nở) thi nhân lại quay phắt xuống sông. Đang nói khung cảnh đầm ấm, rộn ràng, nhà thơ lại hướng vào “cánh buồm lẻ loi” trên nền không gian xanh biếc tiếp nối giữa trời và nước. Điều đáng lưu ý là sông Trường Giang ngoài dáng vẻ hùng vĩ của nó, thời ấy đấy là nơi thuyền bè qua lại tấp nập. Dĩ nhiên, hầu hết là thuyền buồm. Như thế con thuyền đưa Mạnh Hạo Nhiên đi không phải là con thuyền duy nhất trên sông. Thế mà trọn bài thơ chi có mỗi một cánh buồm. Nhà thơ chỉ nhìn thấy (duy kiến) mỗi một cánh buồm ấy. Tinh bằng hữu sâu nặng được gói gọn trong một cái nhìn. Nhà thơ không đi nhưng cái nhìn thì mãi dõi theo đến ngút ngàn trời đất, cho đến khi cánh buồm ấy chỉ còn chiếc bóng xa (viễn ảnh).

       Chiếc bóng vừa diễn tả sự xa xôi của cánh buồm vừa ẩn dụ cho tấm lòng bè bạn: dường như chiếc bóng đó là mảnh hồn Lí Bạch dõi theo con thuyền cô đơn nơi trùng xa. Không tả người đi, không tả con thuyền, không tả cánh buồm mà là “viễn ảnh” của cánh buồm, Lí Bạch đã thả tâm hồn bè bạn theo điệu vời con nước.

       Quan hệ giữa dòng sông và bầu trời được thể hiện qua hình ảnh “bích không tận” (khoảng không xanh biếc). Nhà thơ chú ý đến màu xanh. Màu của cả dòng sông lẫn của bầu trời. Nơi tận cùng của cái nhìn là sự tiếp nối của trời nước mênh mông vô tận. Khoảng không xanh biếc bao la đó chính là nỗi lòng của Lí Bạch gửi theo người đi xa. Bóng con thuyền lẻ loi càng khuất thì nỗi luyến tiếc càng trải dài theo trời nước. Lấy thiên nhiên hùng vĩ để đo tình cảm con người, Lí Bạch bao giờ cũng tài hoa, khí phách trong cõi vô biên trời đất. Hình tượng thơ Lí Bạch, mang tầm vũ trụ, quả chẳng hề sai!

       Bóng buồm đã chìm khuất đường chân trời, chỉ còn lại dòng sông, chỉ còn lại cái nhìn, chi còn lại cả trời tiếc nuối của lần li biệt. Dòng sông không phải lặng im mà không ngừng trôi chảy ấy như mang cả cõi lòng Lí Bạch đi theo hướng bóng buồm. Một bóng buồm côi cút hay chính sự côi cút của thi nhân khi bóng buồm bỏ lại? Sự luân chuyển của dòng sông, cánh buồm khiến tứ thơ sống động. Nhưng trong sự trôi chảy đó không hề có âm thanh bởi âm thanh đã lặng chun cả vào ánh nhìn sâu nặng.

       Cũng ngay chính sự lẻ loi của cánh buồm (cỏ phàm) phần nào vẽ nên tâm thế của người ra đi. ở dây, dân phải riêng Lí Bạch dọc được sự cô đơn ấy mà cả Mạnh Hạo Nhiên cùng cám thâu nỗi cô đơn khi giã từ bằng hữu. Trong trường hợp này, bóng buồm cô đơn của Mạnh Hạo Nhiên là lực hút nỗi cô đơn từ Lí Bạch. Tình cảm của họ mạnh mẽ, lớn lao đến nỗi, bầu không khí tấp nập, phồn thịnh xung quanh đều được đổi dạng theo nỗi buồn tiễn biệt. Giữa bao nhiêu màu sắc, âm thanh, giữa bao sự bất biến, trường cửu của tự nhiên, khối chân tình nghệ sĩ của họ hiện lén biếc xanh cả trời đất.

       Thơ Đường và thơ cổ tòi kị nói trực tiếp đến những vấn đề tình cảm riêng tư. Đọc thơ Đường, ta thường bắt gặp những nhan đề mang tính phiếm chỉ. Tiễn người bạn (Biệt hữu nhãn, Lí Bạch)… và đa sô là nhan đề ngắn (có lẽ là để tương thích với độ ngắn của bài thơ) mà nếu có xuất hiện tên người đi thì nhan đề đó cũng luôn ngắn (Biệt Đổng Đại, Cao Thích). Thê nhưng, ở bài thơ này, Lí Bạch đã chọn một nhan đề “quá cỡ”, có đến 10 chữ (trong nguyên tác) so với 28 chữ của bãi thơ tuyệt cú. At hẳn, tình bạn lưu luyến buổi chia tay đã khiến cho cái nhan đề đó phải dài thêm ra để chuyển tải nỗi lòng? Thêm nữa, cái nhan đề dài 10 chữ với hai địa danh (Hoàng Hạc lâu, Quảng Lăng), hai động từ (tiễn, đi) và một danh từ riêng chỉ tên người ấy đã hàm chứa trong nó vẻ tươi tắn, náo nức (tuy có phần tiếc nuối) nhưng không hề bi lụy, bịn rịn của đa số các cuộc tiễn đưa khác.

       Bức tranh tiễn biệt, như thường lệ, cũng được phác họa trên nền tương phản: một bóng buồm đơn lẻ với cả dòng Trường Giang bao la. Kết thúc của cả hai câu thơ đều là khoảng không không giới hạn. Nơi trời nước có thể gặp nhau hay vĩnh viễn không thể gặp nhau. Ý thơ đã chuyển tải niềm tâm sự vương vấn của thi nhân: liệu biết bao giờ (hay còn có bao giờ) gặp lại nhau. Và biệt li tái hợp cũng như chuyện đất trời kia: dòng sông vẫn luôn chảy bên trời. Cũng vẫn màu xanh đến ngút ngàn trời đất nhưng chỉ thêm một cánh buồm, Lí Bạch đã khiến cõi vô tình thành hữu ý, vật vô tri bỗng tỉnh thức xao xuyến lạ thường. Chỉ còn đây Trường Giang ở lại. Nhưng con sông vẫn lặng lẽ trôi, mang cánh buồm xa tít tắp. Dẫu thế, Mạnh Hạo Nhiên, sông Trường Giang, Lí Bạch và cánh buồm vẫn đó, ngao du trong cõi trời đất vô cùng để hát lên bài ca tình bạn bất hủ.

—/—

Trên đây là một số bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng mà THPT Ninh Châu đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!

Đăng bởi: Đại Học Đông Đô

Chuyên mục: Lớp 10,Ngữ Văn 10


BÀI THƠ VĨNH BIỆT


Thơ : Nguyệt Thảo
Nhạc \u0026 Hòa âm : Đặng Vương Quân
Ca sĩ : Uyên Dung

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kỹ Năng Sống
Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kỹ Năng Sống

Related Articles

Back to top button