Những hạn chế của nông nghiệp Việt Nam hiện nay:
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.08 KB, 33 trang )
nuôi khác. Cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi còn thiếu đa dạng, tồn tại nhiều giống cây
cho hiệu quả và năng suất còn thấp, nhiều giống vật nuôi có chất lượng kém hơn so
với các sản phẩm cùng loại của các nước.
– Năng suất lao động chưa cao, chất lượng sản phẩm còn thấp, khả năng
cạnh tranh yếu do đó chưa hình thành được các chuỗi giá trị nông sản mạnh và
bền vững. Mặc dù năng suất lao động của ngành nông nghiệp có tăng trong nhiều năm
trở lại đây, tuy nhiên, theo báo cáo khoa học ngành nông nghiệp Việt Nam 2011-2015
(Bộ NN và PTNT) thì năng suất lao động bình quân của ngành nông nghiệp ở nước ta
chỉ bằng 0,16% đến 0,22% so với ngành công nghiệp từ năm 2006 đến nay. Chất
lượng sản xuất thấp cũng là một trong những vấn đề đặc biệt nghiêm trọng. Do chất
lượng sản xuất thấp dẫn đến giá trị xuất khẩu không cao, làm giảm thu nhập cũng như
hiệu quả lao động của người nông dân, làm giảm hiệu quả khai thác đất đai và các tài
nguyên khác. Theo thông báo mới nhất của ICO (tổ chức cà phê thế giới) tỷ lệ cà phê
dưới chuẩn CQP của Việt Nam lên đến 75% trong khi Indonesia chỉ ở mức 9%. Đây
cũng là lý do khiến tỷ lệ cà phê của Việt Nam bị loại ở sàn giao dịch Liffe năm 2008
lên tới 60%. Mặc dù là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, cho đến nay, Việt Nam
vẫn chưa xuất khẩu gạo có thương hiệu mạnh, giá gạo của Việt Nam vẫn luôn duy trì ở
mức thấp hơn so với giá gạo tương đương của Thái Lan. Người nông dân phần lớn vẫn
chú trọng nâng cao năng suất hơn là chất lượng sản phẩm. Khi giá lên cao, để đạt được
năng suất tối đa, người trồng cà phê sẵn sàng sử dụng phân hóa học, nước tưới, thuốc
bảo vệ thực vật với mức cao hơn mức khuyến cáo, tiết giảm các loại cây che bóng mát,
hái cà phê quả xanh hoặc hái lẫn quả xanh quả chín để tăng cao sản lượng. Cà phê hái
về ủ đống chờ đủ lượng mới đổ ra phơi trên sân đất gây nên tình trạng cà phê bị ủ,
phơi lâu khô, nhiễm nấm mốc trong khi phơi,… Tình trạng tương tự cũng xảy ra đối
với các loại cây trồng khác.
– Thị trường thiếu ổn định, còn nhiều yếu tố bất ổn trong quá trình sản xuất,
tiêu thụ đặc biệt là vấn đề giá cả. Bên cạnh những yếu tố rủi ro về thời tiết, mùa vụ,
trong một nền nông nghiệp hàng hóa thì người nông dân lại phải đối mặt nhiều hơn
với các rủi ro về thị trường giá cả, cung cầu cả đầu vào và đầu ra. Do các yếu tố về
cung cầu không ổn định, dẫn đến sự biến động về giá trở nên phức tạp và khó đoán
trước, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người nông dân. Đặc biệt là đối với trường
hợp của Việt Nam, khi các mặt hàng nông sản của chúng ta chưa làm chủ được thị
trường thì sự thụ động về mặt cung cầu càng tăng lên, đồng nghĩa với việc rủi ro về giá
cả càng trở nên nghiêm trọng đối với người nông dân. Sự khó khăn về vốn, sự yếu
kém về kỹ thuật trong các khâu phơi sấy, bảo quản dẫn đến người nông dân không làm
chủ được thời điểm tiêu thụ, buộc phải bán ngay cả vào thời điểm giá thấp. Sự bất ổn
về giá còn có nguyên nhân xuất phát từ chính người nông dân. Khi giá một loại nông
sản tăng lên trong một năm thì ngay mùa vụ sau, người nông dân lại đổ xô đi trồng
hoặc chăn nuôi loại nông sản đó, dẫn đến nguồn cung tăng đột biến, giá thành lập tức
hạ xuống.
Một số nguyên nhân dẫn đến những hạn chế còn tồn tại trong lĩnh vực
nông nghiệp hiện nay:
Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch chưa được thực hiện tốt, thiếu
những chiến lược và giải pháp nhằm quy hoạch ổn định, lâu dài đối với từng cây,
con, sản xuất phần nào còn mang tính phong trào tự phát gây ảnh hưởng tiêu cực
đối với các nguồn tài nguyên, đặc biệt là nguồn nước. Ví dụ như đối với cây cà phê,
27
mặc dù Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 150/QĐ-TTg về việc phê duyệt quy
hoạch chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp và thủy sản cả nước đến năm 2015
và tầm nhìn 2020, quy mô cà phê cả nước duy trì từ 450.000 đến 500.000 ha, nhưng
thực tế hiện nay cả nước có khoảng trên 525.000 ha, nhiều diện tích trồng mới không
nằm trong vùng quy hoạch, chủ yếu là trồng trên những nơi không thích hợp với đặc
điểm sinh lý, sinh thái của cây cà phê, do đó không những không đủ bù đắp sản lượng
thiếu hụt của những diện tích ca phê già cỗi mà còn đe dọa trực tiếp đến tính bền vững
của những diện tích cà phê còn lại do môi trường bị hủy hoại. Theo số liệu của ngành
nông nghiệp tỉnh Đắk Lắk, diện tích cà phê ở đây có lúc lên tới 270.000ha, trong đó có
đến hơn một nửa phải tưới bằng nguồn nước ngầm. Tình trạng khai thác nước ngầm
quá mức để phục vụ tưới nước cho cây cà phê, không tuân thủ theo đúng quy trình đã
dẫn đến hiện tượng chẩy tầng, tụt mạch nước ngầm. Theo điều tra, khảo sát của Đoàn
quy hoạch và điều tra tài nguyên nước 704 thì lượng nước ngầm hiện đã sụt xuống từ 3
đến 5m, những địa bàn có nguồn nước ngầm giảm mạnh đều rơi vào các địa phương
đã “cơ bản phá xong rừng”. Ngay cả đối với ngành chế biến nông sản, tuy phát triển
nhanh nhưng chủ yếu là tự phát thiếu quy hoạch và tầm nhìn chiến lược, phân tán,
thiếu liên kết, chưa tiếp cận đầy đủ nhu cầu thị trường để quyết định sản xuất chế biến.
Việc thiếu quy hoạch hợp lý trong sản xuất cũng dẫn đến hoạt động sản xuất
mất cân đối, chạy theo thị trường nhiều hơn là đón trước thị trường, do đó, rủi ro về
giá cả, tiêu thụ đối với người nông dân lại càng tăng lên.
Cũng do thiếu công tác quy hoạch nên quy mô sản xuất manh mún, khó hình
thành các vùng sản xuất tập trung, do đó, việc áp dụng các biện pháp khoa học kỹ
thuật hiện đại cũng trở nên khó khăn hơn.
Điều kiện khoa học kỹ thuật áp dụng trong sản xuất nông nghiệp vẫn ở mức
thấp. Các biện pháp canh tác, thu hoạch còn nhiều bất cập. Điều kiện phơi sấy, sơ chế,
chế biến và bảo quản còn nhiều hạn chế. Trong quá trình sản xuất vẫn còn nhiều khâu
người nông dân thực hiện một cách thủ công dẫn đến năng suất lao động không cao.
Việc nghiên cứu đưa vào sản xuất các giống cây, con mới cho năng suất chất lượng
cao vẫn còn hạn chế.
Chưa hình thành hệ thống kiểm soát chất lượng nông sản và vật tư nông
nghiệp. Tình trạng tồn đọng dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh trong
nông sản vẫn đang tồn tại phổ biến mà chưa có các biện pháp xử lý. Thiếu các biện
pháp kiểm soát chất lượng dẫn đến chất lượng nông sản bị thả nổi, tỷ lệ sản phẩm có
chất lượng thấp còn rất cao, không được phân loại dẫn tới giá thành sản phẩm thấp và
khó chiếm lĩnh được thị trường. Đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay, khi các
hàng rào thuế quan hầu như không còn được áp dụng theo các quy định về bảo hộ
thương mại của WTO, các hàng rào về tiêu chuẩn chất lượng lần lượt được các nước
dựng lên như một biện pháp bảo vệ hữu hiệu sản xuất nông nghiệp trong nước. Việc
chưa hình thành hệ thống kiểm soát chất lượng nông sản hiệu quả vừa gây khó quản lý
và nâng cao chất lượng nông sản trong nước vừa gây thiệt thòi cho ngành nông nghiệp
trong nước do không được áp dụng biện pháp bảo hộ hợp lý.
Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển sản xuất nông
sản quy mô lớn, nhất là ở các vùng miền núi, đặc biệt là giao thông, thủy lợi, thông
tin liên lạc… Vẫn còn 5% số xã chưa có đường ô tô, 28% xã chưa có trạm bưa điện và
17% trụ sở xã chưa có điện thoại, 11% xã chưa có điện và 90% xã chưa có trường phổ
thông, 40% dân sống ở nông thôn chưa có nước sạch sinh hoạt. Ngay cả đối với hệ
28
thống thủy lợi được đầu tư lớn, nhưng hiệu quả sử dụng thấp và quản lý yếu. Cơ sở hạ
tầng tại các vùng nông thôn chậm được xây dựng và nâng cấp gây khó khăn cho sản
xuất nông nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nông thôn. Có tới 21% doanh nghiệp
nông thôn cho rằng chất lượng giao thông nông thôn còn rất kém và là vấn đề nghiêm
trọng cản trở phát triển.
Khó khăn về vốn cho phát triển sản xuất. Trong khi đa số hộ nghèo tập trung
ở nông thôn và hầu hết người dân sống ở nông thôn có thu nhập thấp thì vốn cho phát
triển sản xuất là một vấn đề đặc biệt quan trọng. Do không có vốn, người nông dân
không thể mở rộng sản xuất cũng như không thể đầu tư áp dụng các phương thức sản
xuất tiên tiến, từ đó dẫn tới không thể nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất. Việc
thiếu vốn cũng dẫn tới người nông dân bị thụ động trong quá trình sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm, bị thương lái ép giá. Tính tới cuối năm 2008, tổng dư nợ tín dụng nông
nghiệp, nông thôn đạt 248.000 tỷ đồng, tăng 15,1% so với năm 2007 nhưng chỉ chiếm
20% so với tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế. Người nông dân không tiếp cận được
với nguồn vốn từ khu vực tài chính chính thức do thủ tục vay ngân hàng còn rườm rà
trong khi giá trị khoản vay thấp, dẫn tới chi phí vay cao. Hơn nữa, các yêu cầu cho vay
từ phía các ngân hàng là khá chặt chẽ, thông thường đòi hỏi có tài sản thế chấp (mà
chủ yếu là bất động sản) nên người nông dân không thể vay được do không có tài sản
thế chấp. Do đó, người nông dân thường phải chấp nhận vay từ khu vực phi chính thức
với lãi suất cao hơn là tiếp cận các ngân hàng. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng của hệ thống
ngân hàng cũng chưa có một hệ thống đánh giá rủi ro hợp lý để có thể tiến hành các
hoạt động cho vay vi mô, bản thân các ngân hàng cũng không muốn mở rộng cho
người nông dân vay do hoạt động sản xuất của họ mang nhiều yếu tố rủi ro dẫn tới
nguy cơ mất khả năng thanh toán.
Trình độ văn hóa và mặt bằng dân trí ở khu vực nông thôn còn thấp. Đây là
một rào cả đáng lo ngại. Thực tế cho thấy tình trạng đói nghèo đi liền với trình độ dân
trí thấp do đó một phần nguyên nhân hạn chế sản xuất nông nghiệp phát triển xuất phát
từ chính người nông dân, do họ không chịu sử dụng các giống cây trồng vật nuôi mới,
bảo thủ và chậm tiếp cận đối với các phương thức canh tác, chăn nuôi, chậm tiếp nhận
các quy luật cung cầu thị trường dẫn tới sản xuất hàng hóa chất lượng thấp, không phù
hợp với nhu cầu của thị trường.
Mối liên hệ giữa sản xuất và tiêu thụ còn yếu. Gắn liền sản xuất với tiêu thụ
chính là yêu cầu cơ bản của một nền sản xuất hàng hóa. Người nông dân hiện nay hầu
hết vẫn thụ động trong khâu tiêu thụ sản phẩm mà phụ thuộc chủ yếu vào thương lái
dẫn tới thường xuyên bị ép giá. Cũng do không có sự gắn kết giữa sản xuất và tiêu thụ,
dẫn tới khâu sản xuất không nhận được các tín hiệu về nhu cầu của thị trường mà
thông thường do quá trình tiêu thụ mang lại nên sản xuất không đúng cái thị trường
cần, quá trình tiêu thụ sản phẩm càng trở nên khó khăn hơn. Vấn đề thúc đẩy mối liên
kết “4 nhà” (Nhà nông, nhà khoa học, doanh nghiệp và Nhà nước) đã được đặt ra
nhưng chưa đạt được hiệu quả.
Bên cạnh những nguyên nhân trên, còn tồn tại nhiều yếu tố vĩ mô gây khó khăn
cho sản xuất nông nghiệp như: sự biến động của kinh tế thế giới dẫn tới cầu tiêu thụ
giảm sút mạnh mẽ, diện tích đất đai cho sản xuất nông nghiệp giảm do quá trình phát
triển công nghiệp và đô thị hóa, thiên tai và biến đổi khí hậu toàn cầu,…
Có thể thấy các khó khăn đang tồn tại đối với sản xuất nông nghiệp có mối quan
hệ đan xen, tác động lẫn nhau. Do khả năng tiếp cận vốn khó khăn, không có đủ vốn
29
cho sản xuất, người nông dân không thể mở rộng sản xuất cũng như áp dụng khoa học
kỹ thuật mới trong sản xuất, dẫn đến chất lượng sản phẩm không cao. Điều này lại đẩy
người nông dân tới chỗ phải chịu thiệt thòi trong tiêu thụ sản phẩm, không thu lại được
tiền đầu tư cũng như không có lợi nhuận sản xuất, từ đó càng trở nên khó khăn hơn về
vốn. Cũng do không có vốn, người nông dân phải bán sản phẩm đi ngay khi thu hoạch.
Do nhiều người bán cùng một lúc dẫn tới nguồn cung tăng đột biến, giá nông sản giảm
và người nông dân dễ bị thương lái ép giá. Những lý do đó tạo thành một vòng quay
luẩn quẩn khiến cho việc giải quyết những khó khăn đối với sản xuất nông nghiệp hiện
nay trở nên khó hơn và không chỉ nằm trong tay người nông dân.
2.
Một số giải pháp phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay:
-Chính phủ cần sớm xây dựng và phê duyệt quy hoạch phát triển tổng thể đối với các
phân ngành nông nghiệp, đặc biệt là đối với các ngành có ưu thế, tạo ra nhiều giá trị
xuất khẩu như sản xuất gạo, cà phê, cao su, chè, nuôi trồng và chế biến thủy sản,
trên cơ sở đó từng địa phương phải chỉ đạo kiên quyết, không để tồn tại các hiện
tượng phát triển ngoài quy hoạch. Đồng thời Chính phủ cũng cần có các biện pháp
hỗ trợ người nông dân thông qua các ưu đãi về sử dụng đất, tín dụng đầu tư,…
-Xây dựng cơ sở hạ tầng tại các vùng nông thôn. Đặc biệt cần chú trọng đầu tư vào hệ
thống giao thông, thủy lợi, điện, nước sạch. Bên cạnh việc sử dụng vốn nhà nước
cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng tại các vùng nông thôn, còn có thể kêu gọi sự tài
trợ từ các tổ chức, dự án quốc tế, đặc biệt là cần huy động sức mạnh từ trong chính
cộng đồng người dân sống ở nông thôn, kết hợp nhà nước và nhân dân cùng làm để
xây dựng và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng nông thôn.
-Tăng cường công tác trồng rừng và bảo vệ rừng. Việc duy trì diện tích rừng có ý nghĩa
đặc biệt trong việc bảo tồn các điều kiện thiên nhiên khí hậu và đất đai cho sản xuất
nông nghiệp.
-Đầu tư cho nghiên cứu phát triển khoa học kỹ thuật, tăng cường các giải pháp kỹ thuật
cho sản xuất nông nghiệp. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu phát triển
giống cây trồng vật nuôi, phát triển các biện pháp thâm canh, nuôi trồng mới cho
năng suất, chất lượng cao hơn. Đặc biệt hoạt động nghiên cứu phải gắn liền với sản
xuất, rút ngắn khoảng cách giữa lý thuyết khoa học và hoạt động sản xuất thực tế.
-Tăng cường công tác khuyến nông để có thể đưa giống cây trồng và vật nuôi mới có
năng suất chất lượng cao hơn đi vào sản xuất. Phổ biến các phương pháp canh tác,
chăn nuôi, các biện pháp thu hoạch bảo quản hiện đại, hiệu quả đến người nông dân
để nâng cao chất lượng sản phẩm. Phát triển đa dạng sản xuất nông nghiệp theo
hướng phát triển kinh tế sinh thái VACR để cải thiện đời sống nông dân.
-Nâng cao dân trí cho vùng nông thôn. Phát triển thêm hệ thống trường học, nâng cao
chất lượng trường lớp tại các vùng nông thôn. Đẩy mạnh công tác khuyến nông,
hướng dẫn và đào tạo ngắn hạn cho người nông dân. Tăng cường công tác đào tạo
cho đội ngũ khuyến nông và nâng cao chất lượng hệ thống cán bộ quản lý tại các
vùng nông thôn.
-Đẩy mạnh tạo lập thương hiệu cho hàng hóa nông sản Việt Nam. Đối với các ngành
sản phẩm tạo ra giá trị xuất khẩu cao, đã chiếm lĩnh được vị thế trên thị trường thế
giới, cần tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm để duy trì và nâng cao thương hiệu
hàng hóa. Nhà nước và doanh nghiệp cùng phối hợp trong việc quảng bá hình ảnh
nông sản Việt Nam đến người tiêu dùng thế giới, có thể lồng ghép trong các hoạt
30
động quảng bá du lịch. Tăng cường tham gia các sàn giao dịch nông sản quốc tế.
Người nông dân cũng phải tham gia quá tŕnh tạo lập thương hiệu bằng cách tuân thủ
nghiêm ngặt các quy trình đảm bảo chất lượng sản phẩm. Chỉ những sản phẩm có
chất lượng thực sự tốt mới có hình thành thương hiệu và định vị lâu dài trên thị
trường quốc tế. Việc tạo lập thương hiệu cho hàng hóa nông sản cần có sự tham gia
phối hợp của cả người nông dân, doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề và các cơ
quan quản lý Nhà nước.
-Hình thành mối liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ, thúc đẩy hơn nữa mối liên kết “4
nhà”, đặc biệt là mối liên kết giữa nhà nông và doanh nghiệp. Cần xây dựng các mô
hình tổ chức quản lý từ khâu trồng trọt, chăn nuôi đến khâu thu hoạch, bảo quản,
chế biến và tiêu thụ tạo thành một chu trình khép kín hợp lý, giúp người nông dân
có thể liên minh với doanh nghiệp, sử dụng nhiều biện pháp như ký gửi để có thể
tiêu thụ theo kế hoạch, lưu trữ sản phẩm để bán khi có giá cao.
-Xây dựng và phát triển các sàn giao dịch hàng hóa nông sản tập trung là đầu mối để
người nông dân tiếp cận thị trường cũng như các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn
sản xuất, giảm thiểu các khâu trung gian. Trên cơ sở phát triển của các sàn giao dịch
tập trung còn có thể hình thành thị trường các tài sản phái sinh như hợp đồng giao
sau, tăng cường cơ hội lựa chọn cũng như tính ổn định trong khâu tiêu thụ hàng hóa
cho người nông dân.
-Tạo điều kiện tiếp cho người nông dân tiếp cận vốn thông qua phát triển thị trường tài
chính nông thôn. Xây dựng cơ sở hạ tầng tài chính nông thôn, phát triển mạng lưới
các tổ chức tài chính cung cấp sản phẩm tín dụng nông nghiệp nông thôn, xây dựng
và phổ biến các tiêu chuẩn đánh giá, thẩm định trong quá trình cấp tín dụng nông
nghiệp, nông thôn từ đó giảm thiểu các yêu cầu, thủ tục cho người nông dân. Phát
triển các sản phẩm tài chính như là chứng chỉ lưu kho, hợp đồng giao sau để cho
phép người nông dân có tài sản thế chấp khi tiếp cận nguồn chính thức. Tăng cường
vốn cho vay nông nghiệp bằng cách huy động nguồn tiền tiết kiệm từ chính khu vực
nông thôn thông qua đa dạng hóa các loại tiền gửi tiết kiệm.
-Nâng cao vai trò của các hiệp hội và của hội nông dân Việt Nam. Các hiệp hội ngành
nghề (hiệp hội cao su, hiệp hội cà phê,…) đóng vai trò quan trọng làm cầu nối giữa
người nông dân với các cơ quan chức năng, phản ánh nhu cầu của người nông dân
đến cơ quan quản lý, đồng thời định hướng người nông dân phát triển theo định
hướng chung của Chính phủ. Hội nông dân cần tăng cường bảo vệ lợi ích cho người
nông dân, và thúc đẩy xây dựng nông thôn mới.
3.
Phát triển thị trường tài chính nông thôn, tạo nguồn vốn cho phát triển nông
nghiệp nông thôn
Từ những nghiên cứu trên cho thấy, những khó khăn đối với phát triển khu vực
nông nghiệp hiện nay có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó, nguồn vốn cho phát
triển nông nghiệp, nông thôn là một vấn đề quan trọng cần có sự quan tâm giải quyết
nhanh chóng. Việc tháo gỡ nút thắt về vốn còn có thể là đầu mối để giải quyết nhiều
vấn đề khác như: người nông dân chủ động được vốn trong sản xuất kinh doanh nên
họ có thể áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tốt hơn từ đó nâng cao chất lượng
sản phẩm nông sản, đồng thời họ có thể chủ động thời điểm tiêu thụ hàng hóa, tránh
tình trạng “bán lúa non” để trang trải nợ, từ đó giảm thiểu các rủi ro về giá,v.v…
31