Kỹ Năng Sống

Các bài suy niệm chúa nhật 8 thường niên năm c

Lời Chúa: Hc 27,4-7; 1 Cr 15,54-58; Lc 6,39-45

Mục lục
1. Đạo đức giả – Lm Antôn. Nguyễn Cao Siêu, SJ
2. Đừng xét đoán – Lm G.B. Trần Văn Hào, SDB
3. Cái xà, Cái rác – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
4. Lời nói, việc làm, ơn Chúa – Đức cố Giám mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

5. Những bậc thầy mới – R. Gutzwiller
6. Đạo đức giả
7. Bài giảng là hoa quả của trái tim – 
Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller
8. Ánh sáng thế gian
9. Cái rác – cái xà
10. Mù không thể dắt mù
11. Hãy tự biết mình
12. Cái rác, cái xà
13. Cẩn thận về việc xét đoán
14. Suy niệm của NCK
15. Chớ xét đoán
16. Tốt xấu.
17. Đồng hành với Chúa
18. Đừng lên mặt
19. Biết rõ tốt xấu – ViKiNi – 
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
20. Lấy rác, lấy xà

1. Đạo đức giả _ Lm Ant. Nguyễn Cao Siêu, SJ

Sống ở đời chúng ta liên tục phải đưa ra những phán đoán. 
Có những phán đoán về người khác: đúng, sai, tốt, xấu. 
Giáo dục một người là giúp người đó có được phán đoán khách quan. 
Khi Đức Giêsu dạy các môn đệ đừng xét đoán (Lc 6, 37), 
Ngài không bảo họ đừng đưa ra những phán đoán hay nhận định. 
Ngài cũng không coi thường những phán quyết của quan tòa. 
Đơn giản Ngài chỉ muốn chúng ta tránh một khuynh hướng dễ gặp, 
đó là chỉ trích phê phán, bới lông tìm vết, đối với tha nhân. 
Các môn đệ sẽ phải là những nhà lãnh đạo dân Chúa. 
Họ không thể là những người dẫn đường mù lòa. 
Chỉ với cặp mắt sáng, họ mới có thể chu toàn nhiệm vụ, 
dẫn dắt những người còn trong bóng tối ra ánh sáng bình minh. 
Nếu không, mù dắt mù, cả hai sẽ sa xuống hố (c. 39). 
Người lãnh đạo sáng suốt là người biết mình, 
biết cái mạnh, cái yếu, cái hay, cái dở của mình. 
Họ phải thấy rõ cái xà, hay thậm chí cái rác nơi mắt mình. 
Thiếu thái độ tự phê phán nghiêm túc, họ không thể dẫn dắt người khác. 
“Hãy biết mình” là câu được khắc ở một đền thờ nổi tiếng bên Hy Lạp. 
Như thế biết mình không phải là chuyện dễ. 
Chẳng ai gần mình, hiểu rõ mình bằng mình. 
Nhưng nhiều khi chẳng ai mù mờ về tôi bằng chính tôi. 
Lắm khi tôi chạy trốn chính mình, không đủ can đảm để thấy sự thật. 
Nói chung tôi không thích nhìn nhận những bóng tối và bóng mờ nơi tôi. 
Thậm chí, cái xà nơi mắt tôi, mà tôi cũng không để ý (c. 41). 
Tôi chỉ muốn thấy nơi mình toàn những điều trong sáng, tốt đẹp, giỏi giang. 
Càng có địa vị cao, càng thành công nhiều, càng có uy tín, 
tôi càng khó chấp nhận, khó thấy những nhược điểm của mình, 
Những người dưới quyền cũng không dám góp ý, 
nên tôi lại càng dễ nghĩ là mình đã thực sự hoàn hảo. 
Chắc chúng ta phải giúp người khác lấy rác ra khỏi mắt, 
vì họ khó tự mình lấy được, và thật khó chịu khi có rác trong mắt. 
Nhưng phải làm điều đó với rất nhiều yêu thương và khiêm hạ, 
bởi lẽ chúng ta biết mình cũng cần anh em giúp lấy rác khỏi mắt mình. 
Đơn giản là phải thấy cái rác và cả cái xà trong mắt mình trước, 
nhờ người lấy ra dùm, sau đó mới thấy rõ để đi giúp người anh em. 
Giúp nhau lấy rác trong mắt nhau, giúp nhau thấy rõ hơn sự thật về mình, 
đó là công việc bác ái thường ngày mà chúng ta làm cho nhau. 
Như thế Hội Thánh của chúng ta sẽ gồm những người sáng mắt, 
nhờ biết xin người khác lấy rác ra khỏi mắt mình, và giúp họ lấy rác của họ. 

Như thánh Phaolô trên đường về Đamát, 
xin cho con trở nên mù lòa 
vì ánh sáng chói chang của Chúa, 
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt. 
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa, 
ánh sáng phá tan bóng tối trong con 
và đòi buộc con phải hoán cải. 
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối 
chỉ vì chút tự ái cỏn con. 
Xin cho con khiêm tốn 
để đón nhận những tia sáng nhỏ 
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày. 
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý 
để Chân lý cho con được tự do. 

2. Đừng xét đoán _ Lm G.B Trần Văn Hào, SDB

Ngạn ngữ Ba tư có câu : “Mỗi người chúng ta vẫn thường mang nơi mình 2 cái bị, một cái phía trước để đựng những khuyết điểm của kẻ khác và một cái phía sau để giấu đi những lỗi phạm của chính mình. Chúng ta thường hay bới móc những lầm lỗi của cận nhân bằng cách lục lọi cái bị ở phía trước, nhưng rất ít khi chúng ta chịu ngoái cổ lại nhìn vào cái bị phía sau để lục soát những tội lỗi của chính chúng ta”. Đây là khuynh hướng tự nhiên nơi tất cả mọi người, không loại trừ ai. Vào thời Chúa Giêsu, những người Pharisiêu và các đầu mục tôn giáo ngày xưa cũng hay hành xử giống như vậy. Chúa Giêsu đã thẳng thừng gọi họ là những kẻ đạo đức giả. Đồng thời, Chúa cũng mời gọi chúng ta phải khiêm tốn và can đảm để ‘bẩy ra’ những cái đà to đùng nơi con mắt của chính mình, trước khi muốn ‘gắp bỏ’ những cái rác nhỏ xíu nơi con mắt của người khác.

Mù không thể dắt người mù

Để minh họa cho giáo huấn trên, Chúa dùng tới 3 dụ ngôn như chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay : Dụ ngôn về cái đà và cọng rác; dụ ngôn về cây tốt sẽ sản sinh trái tốt và nhất là dụ ngôn về 2 người mù dắt nhau để cả hai cùng rơi xuống hố. Những dụ ngôn trên rất dung dị và dễ hiểu, phù hợp với mọi tầng lớp khán thính giả. Tuy nhiên, đích nhắm mà Chúa Giêsu muốn nói đến, chính là những huấn dụ căn bản ngỏ cho các môn sinh về con đường nên thánh, song song với bản ‘Hiến chương Nước Trời’ mà Chúa công bố trong bài giảng đầu tiên ở trên núi, khi bắt đầu đi rao giảng công khai. Đây là quy chuẩn của đức ái Kitô giáo, giúp chúng ta vươn đến sự trọn lành. Thánh Phanxicô Salê, vị ‘Tiến sỹ Đức ái’, đã viết : “ Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái chính là sự hoàn thiện của tình yêu.” Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô, Thánh Phaolô cũng cắt nghĩa thêm : “ Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù.. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.. (1C 13,4 -7). Cũng vậy, Chúa Giêsu hôm nay nêu dẫn những tiêu chí rất cụ thể về đức ái và mời gọi chúng ta thực hành cách triệt để, hầu có thể vươn tới cuộc sống trọn lành.

Khiêm nhường là khởi đầu con đường nên thánh

Một vị tu đức đã nói : “Khiêm nhường là mẹ đẻ của mọi nhân đức và đó cũng là khởi đầu của con đường nên thánh”. Trong xã hội hôm nay, người ta vẫn hay đề cao sự khiêm tốn với những khẩu hiệu nghe rất kêu, ví dụ như ‘Cán bộ là đầy tớ của nhân dân’, ‘Vì nhân dân quên mình phục vụ’…nhưng nhiều khi những khẩu hiệu đao to búa lớn như thế cũng chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch và rất giả tạo. Tuy nhiên, khi bình thản nhìn vào nội bộ Giáo hội, chúng ta cũng sẽ thấy không ít những gương mù nơi các vị mục tử với lối sống trịch thượng theo kiểu cha chú (paternalism) mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh báo và nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần. Ngài kết án não trạng ‘cléricalism’ (đề cao giáo sỹ), cùng những cách sống mang tính khủng bố (terrorist) đang tàn phá Giáo hội rất kinh hoàng. Chúa Giêsu đã dạy các môn sinh : “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi có trái tim hiền lành và khiêm hạ”. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan 23 và Đức Thánh Giáo hoàng Phaolô 6 vẫn ký tên của mình sau các văn kiện của công đồng chung Vatican 2 để chuẩn nhận, luôn luôn đi kèm theo hàng chữ ‘Servus servorum’ (Đầy tớ giữa các người đầy tớ). Vì thế, chúng ta có thể quả quyết rằng, khiêm nhường chính là nhân đức ‘bản lề’ (Key virtue), giúp đạt đến sự trọn lành trong đức ái theo gương Chúa Giêsu. Đó không phải chỉ là một đức tính nhân bản, thuần mang tính xã hội, nhưng đây là linh đạo Thập giá mà Chúa Giêsu đã khai mở như lời Thánh Phaolô đã viết : “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã từ bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá.. (Phil 2, 6 – 8). Để khỏi rơi vào tình trạng ‘người mù dắt người mù, hay chỉ nhìn thấy những cái rác nhỏ nhoi nơi mắt của người khác, chúng ta cần phải tập sống khiêm tốn. Có khiêm tốn, chúng ta mới có thể nhận ra sự mù quáng nơi chính bản thân mình với biết bao gương mù hay gương xấu. Chỉ khi sống khiêm tốn, chúng ta mới có thể nhìn thấy cái đà to đùng nơi cái bị chúng ta đeo phía sau lưng, và không dám lục lọi những cái rác nhỏ nhặt của người khác nơi cái bị treo ở phía trước. Mỗi ngày trước khi đi ngủ, chúng ta nên dành ra những giây phút tĩnh lặng đặt mình trước mặt Chúa để xét mình và cầu nguyện. Có thế, chúng ta mới có thể thăng tiến trong đời sống thiêng liêng và vươn tới sự trọn lành.

Cẩn trọng khi xét đoán

Thánh Giacôbê đã viết : “Chỉ có một Đấng ra Lề luật và xét xử, đó là đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt, còn bạn là ai mà dám xét đoán người thân cận” (Gia 4,12). Vì vậy, khi chúng ta xét đoán người khác và kết án họ, chúng ta đang tiếm quyền hay ‘ăn cắp’ quyền năng của chính Thiên Chúa. Trong Tin mừng Luca, Thánh ký có thuật lại câu chuyện, Chúa Giêsu được mời đến tham dự 1 phiên tòa, xét xử người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Rất nhiều ‘các đấng các bậc’ hoặc những nhân vật ‘tai to mặt lớn’ cũng có mặt trong phiên tòa ngày hôm đó. Mỗi người cầm trong tay một hòn đá, rất hỷ hả chờ giây phút tuyên án để ném vào phạm nhân. Nhưng, tình thế cuối cùng đã thay đổi hoàn toàn. “Ai trong các ông vô tội, cứ việc cầm đá mà ném trước đi.” Dường như câu nói của Chúa Giêsu đã làm lay động lương tâm chai lỳ của đám đông khiến tất cả mọi người lần lượt bỏ ra về hết sạch, từ người lớn tuổi nhất đến người nhỏ tuổi hơn…Cuối cùng khi không còn ai, Chúa mới ôn tồn nói với người phụ nữ : “Tôi không kết án chị đâu. Chị hãy về đi và đừng phạm tội nữa.”. Mỗi lần chúng ta đến tòa cáo giải, Chúa cũng nói với chúng ta giống hệt như vậy. Mọi người chúng ta đều là tội nhân nhưng đã không bị Chúa kết án bao giờ. Vậy tại sao chúng ta lại dám to gan và lạnh lùng kết án lẫn nhau, nhất là nhiều khi chúng ta lại kết án một cách rất hồ đồ với nhiều ác ý. Đây là những sự vu khống rất thường hay xảy ra. Sự kết án với ác ý nhằm bôi nhọ người khác là 1 trọng tội, giống hệt như tội giết người. Ngạn ngữ tây phương có câu “Có một thanh gươm không bao giờ rỉ sét, đó là cái lưỡi của con người”. Thanh gươm không rỉ sét dùng để chém giết hay tàn phá danh dự lẫn nhau luôn là những công cụ rất nguy hiểm mà chúng ta  phải hết sức cẩn trọng và đề phòng.

Kết luận

Trong triều đại của mình, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã hơn 100 lần lên tiếng xin lỗi công khai vì những lỗi lầm mà Giáo hội đã gây ra trong quá khứ. Nhiều Hội đồng Giám mục địa phương cũng bắt chước Ngài, thể hiện sự khiếm tốn nhìn nhận những thiếu xót do chính con cái của mình gây nên. Những lỗi lầm ấy là những ‘cái đà’ trong dòng lịch sử của Hội Thánh, nằm chắn ngang con mắt khiến chúng ta rất dễ trở nên mù lòa và không thấy rõ đường đi nước bước. Người mù không thể nào dắt người mù được. Sự mù lòa tâm linh thường đi kèm theo những thành kiến mà chúng ta vẫn hay có khi nghĩ về người khác và dễ dàng kết án họ. Người ta vẫn thường nói rằng, phá đổ một thành kiến còn khó hơn phá vỡ 1 nguyên tử (nguyên tử hay ‘atom’, được định nghĩa là đơn vị vật chất nhỏ nhất không thể phá vỡ được).

Xin Chúa thanh tẩy cõi lòng, giúp chúng ta mỗi ngày mỗi trở nên giống Chúa hơn, để chúng ta luôn sống với một con tim hiền lành và khiêm nhường, đồng thời biết yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương chúng ta.

3. Cái xà cái rácLm Giuse Nguyễn Hữu An

Giả hình là việc phô trương bên ngoài nhằm che dấu thực tại bên trong. Thánh Kinh kết án sự giả hình, nhất là trong những việc liên quan tới niềm tin.Khi nhắc đến cách sống của những người đạo đức giả với lối sống chuộng hình thức bề ngoài, giả hình kiểu Pharisiêu, Chúa Giêsu thốt lên: “Hỡi kẻ đạo đức giả!  Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em”. 

Sống giả hình có nhiều dạng thức biểu hiện, Tin Mừng đã nhiều lần đề cập. Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đặc biệt chú trọng đến hai biểu hiện của người đạo đức giả và Ngài hướng dẫn cách để sửa lối sống giả hình ấy.

1/ Xét đoán người khác

Chúa Giêsu nhắc nhở về biểu hiện của người đạo đức giả, đó là thái độ che đậy mình bằng cách xét đoán người khác. Với những người này, Chúa đã mở đầu bằng lời khuyên nhủ: “Đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán”. Xét đoán khi đặt mình ở phía trên cao hơn người đối diện. Xét đoán khi đặt mình vào vị trí quan tòa. 

Xét đoán được ghép bởi hai động từ là xét và đoán. Xét là tìm hiểu, đoán là phỏng chừng. Xét thì khó vì phải tìm hiểu hoàn cảnh, nguyên nhân, phân tích để có sự kiện rõ ràng. Đoán thì dễ hơn, chỉ cần ước lượng là thế, phỏng chừng như vậy, đoán thì dựa trên những điều không đủ chắc, không rõ sự thật. Khi nói xét đoán một người thì có phần xét và có phần đoán. Nhiều khi phần đoán lại nhiều hơn phần xét. Sai lầm nảy sinh từ đó.

Thánh Giacôbê viết: “Xét đoán anh em là xét đoán Lề Luật. Nếu ngươi xét đoán Lề Luật thì ngươi không còn là kẻ giữ luật mà là Thẩm phán. Chỉ có một Đấng lập Luật và là Thẩm phán, Đấng có quyền cứu rỗi và tiêu diệt. Ngươi là ai mà dám xét đoán đồng loại?”(Gc 4,11-12).

Để giúp cho những người đạo đức giả sống lời dạy “đừng xét đoán”, Chúa Giêsu nói: “Anh em xét đoán thế nào thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy”, và mời gọi: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán”, như thế,Chúa Giêsu đã mở một con đường của yêu thương, không xét đoán thì sẽ nhận lại được sự tình thương của Thiên Chúa. Không ai muốn bị xét xử, và khi bị xét xử, ai cũng muốn được xét xử khoan dung thông cảm. Mà muốn được khoan dung thương xót, thì trước hết, chính mình cũng phải biết thương xót khoan dung.

Một trong những cách giúp con người đừng đoán xét tha nhân là năng kiểm điểm bản thân mình. Khi con người thành thật với chính mình, họ tìm ra trong người họ cũng đầy dẫy những tính hư, nết xấu, nhiều khi còn to lớn hơn của tha nhân gấp bội. Nhận ra bản thân như thế, họ sẽ dễ dàng thông cảm và không đoán xét tha nhân.

2/ Săm soi những lỗi lầm của người khác

Thái độ săm soi những lỗi lầm của người khác, thấy khuyết điểm của người khác thì muốn phóng đại; nhưng bản thân không muốn nhìn về những lầm lỗi và không muốn sửa sai những khuyết điểm của chính mình. Đây là một thái độ đạo đức giả tinh vi hơn. Nếu ở mức thứ nhất chỉ “xét đoán” thì ở mức thứ hai này mang nặng màu đạo đức kiểu như: “Dám góp ý, sửa sai và có ý tưởng giúp đỡ anh chị em nên tốt”. Với thái độ này, người ta che cho mình một lớp áo đẹp, một vẻ bên ngoài đạo mạo, là muốn làm điều tốt cho người khác, muốn chỉ bảo, sửa dạy, thay vì xét đoán. Họ hướng về người khác với ý hướng cao hơn, nhưng không dám đối diện với Chúa và cũng chẳng đủ khiêm tốn để đối thoại với anh chị em về yếu đuối hay lầm lỗi của mình. Với những người này thì họ bị cái xà ngăn chặn không cho họ thấy những điều tốt đẹp nơi người khác, họ nghĩ rằng ai cũng tội lỗi xấu xa và có cái xà lớn trong mắt giống như họ tưởng. Vì thế, những lỗi lầm của anh chị em dù nhỏ như cái rác, họ cũng biến nó trở thành to lớn như cái xà.

Chúa Giêsu dạy “đừng xét đoán” người khác nhưng trước tiên hãy xét mình,bởi vì khi mình chưa loại bỏ được cái xà trong mắt mình, là những nết xấu và thành kiến của mình, thì mình không thể thấy và lấy được cái rác trong mắt anh em. Với cái nhìn tầm xa hơn, việc xét mình còn giúp mình nhận thức rõ hơn thân phận mình trước mặt Thiên Chúa: thân phận tội lỗi. Như thế, nếu chúng ta mong được Thiên Chúa phán xét với lòng thương xót, thì chúng ta cũng phải biết sống với anh chị em bằng lòng nhân ái bao dung.

Để giúp cho những người đạo đức giả, Chúa Giêsu mời gọi họ nỗ lực khiêm tốn nhìn nhận lầm lỗi, hãy sửa đổi tâm hồn, hãy “lấy cái xà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người khác”. Hãy sửa sai chính mình trước khi đứng ở nơi cao làm thầy dạy sửa bảo người khác. Hãy đứng về phía anh em để cầu xin lòng thương xót Chúa chứ đừng dành chỗ của Chúa mà “xét đoán” anh em.

Chúa Giêsu còn dạy: xem quả thì biết cây. Thời gian sẽ cho biết cây nào xấu, cây nào tốt, khi chúng ra hoa kết trái. Thời gian sẽ cho biết ai thật ai giả. Công trình xây dựng có giá trị hay không, mưa nắng sẽ chứng nghiệm chất lượng. Chúa cũng căn cứ vào kết quả để biết rõ ai là môn đệ thật. Ngươi môn đệ thật là cây tốt sinh trái tốt.

Tục ngữ có câu:“Chân mình thì lấm bê bê,mà sao đốt đuốc đi rê chân người”.Con người khi đánh giá một sự việc, hay nhận xét về một người khác thường chỉ chú ý đến lỗi nhỏ nhặt và phóng đại lên. Họ soi mói “vạch lá tìm sâu” những khuyết điểm của người. Họ nhìn rõ những cái xấu của người trong mắt họ. Còn chính họ thì sao? Họ có khuyết điểm không, có những tính xấu không?

Chúa Giêsu nói: “Sao anh thấy cái rác trong mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt chính mình lại không để ý tới”. Hình ảnh “cái rác” và “cái xà” cho thấy, cái xấu của người rất nhỏ như cọng rác, còn cái xấu của mình thì rất lớn như “cái xà”. Do đó, trước khi phê bình người khác, hãy nhìn lại chính bản thân mình: “Lấy cái xà trong mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em”. Thánh Augustinô thường cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”. Biết mình thường hèn yếu lỗi lầm để đừng bao giờ khắt khe lên án anh em. Biết mình hay che đậy giả hình để cảm thông dung thứ cho kẻ khác. Biết mình thích phô trương háo thắng để đừng phê phán nhạo báng một ai.

Lời Chúa Giêsu dạy hôm nay về “đôi mắt linh hồn”. Cần sửa mình trước mới có thể giúp sửa người khác, không xét đoán trái lẽ, không săm soi xét nét, cần lấy cái xà trong mắt mình đã. Hãy thanh tẩy đôi mắt của mình trước. Mắt là cửa sổ linh hồn. Đôi mắt ấm áp của tâm hồn bao dung. Mắt chiếu tỏa đức ái của trái tim yêu thương. Thánh Giuse thấy Đức Mẹ có thai nhưng ngài không xét đoán mà chỉ âm thầm ôm lấy nổi đau lặng lẽ ra đi. Thánh Giuse trở nên người công chính. Người có lòng mến Chúa, có tâm hồn đơn sơ thì không bao giờ nghĩ xấu cho ai, trái lại họ luôn nghĩ tốt, nói tốt về người khác. Thánh Têrêxa Hài Đồng khi thấy chị nào có lỗi thì thường tự bảo mình rằng: chị đó chẳng may lỗi một điều, nhưng biết đâu lại chẳng đã làm được một trăm điều lành mà tôi không thấy. Biết đâu lỗi lầm của chị chỉ là cái màn Chúa dùng để che nhân đức sâu xa của chị.

Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận đã viết đại ý rằng : Có một sáng suốt đáng buồn, khi chỉ nhìn thấy những điều xấu nơi người khác. Cũng có một xét đoán đầy yêu thương, khi đã nhìn thấy những điểm sáng tốt đẹp, ngay từ nơi bóng tối những điều không tốt đẹp của anh em mình.

Thánh Phaolô viết : “Điều khiến chúng tôi tự hào là lương tâm chúng tôi làm chứng rằng: chúng tôi lấy sự thánh thiện và chân thành Thiên Chúa ban mà cư xử với người ta ở đời, đặc biệt là với anh em. Chúng tôi không cư xử theo lẽ khôn ngoan người đời, nhưng theo ân sủng của Thiên Chúa” (2Cr 1,12; x. 2Cr 2,17; 1Tx 2,3-10).

Lạy Chúa, xin cho con biết nhìn những người chung quanh con với con mắt trong sáng để thấy những ưu diểm, nhiếu mặt tốt của họ. Xin cho chúng con biết nhận ra những thiếu sót, bất toàn của mình mà sửa trước khi sửa lỗi anh em. Amen.

4. Lời Nói – Việc Làm – Ơn Chúa _ Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

Ðọc và nghe lần đầu, chúng ta khó bắt được ý tưởng của các bài Kinh Thánh hôm nay. Ðó không phải là những lời khó hiểu. Những ý tưởng sở dĩ không dễ bắt vì cấu trúc của những đoạn văn này không chặt chẽ, và các tác giả dường như nói đến những vấn đề rất khác nhau. Chúng ta đừng lấy làm lạ vì trong các Chúa nhật quanh năm, phụng vụ muốn giáo dục chúng ta về đời sống đạo mỗi lần một tí và không cần theo một hệ thống nào. Vì đạo là sự sống chứ không phải là một hệ tư tưởng. Ðối với một hệ tư tưởng, muốn thuyết minh người ta phải theo luận lý đầu đuôi chặt chẻ. Còn đối với sự sống, không có quy luật tăng cường cố hữu nào. Mỗi chân lý đều co thể biệt lập mà vẫn có thể mồi thêm cho sự sống tinh thần của con người.

Tuy nhiên chúng ta có thể nói rằng ba bài Kinh Thánh hôm nay đều muốn nói đến việc phân biệt con người đạo đức thánh thiện, nhờ lời nói, nhờ việc làm, và nhất là nhờ ơn Chúa.

1/ Lời nói

Bài sách huấn ca không có vẻ gì là đạo đức cả. Ðó là mấy câu kinh nghiệm. Nó thuộc loại văn khôn ngoan, dạy cách xư xử ở đời. Nhưng nếu đặt những câu dạy khôn ngoan này vào văn mạch và luận lý của tác giả, chúng ta thấy chúng phục vụ đạo đức và rất có giá trị.

Tác giả Ben Sira là một học giả Do Thái, sống ở đầu thế kỷ II trước công nguyên. Như các nhà trí thức đương thời ông hiểu biết nền văn minh Hy Lạp đang thịnh hành ở mọi nơi. Nhưng vì là con người có đạo, ông biết dùng lời Chúa để phê phán nếp sống do nền văn minh ấy tạo ra. Và ông muốn chia sẻ các suy nghĩ của mình với đồng đạo và đặc biệt với lớp trẻ Do Thái đang lớn lên và hít thở nền văn minh Hy Lạp. Ông đã đưa ra nhiều nhận xét mới về đời sống gia đình (25,1-26,18). Ông đã đề cập tới nhiều nét trong đời sống xã hội, mà nổi bật nhất là nền mậu dịch, thương mại thời bấy giờ (26,28-27,15).

Ðây là điểm bén nhậy đối với người Do Thái. Họ biết làm ăn. Có thể nói họ có máu buôn bán. Việc tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp đã tạo nên nơi các cộng đồng Israen nhiều trung tâm thương mại nổi tiếng.

Tại đây người Do Thái buôn bán với dân ngoại. Họ không còn sợ luật pháp và để ý đến các tiêu chuẩn đạo đức nữa. Có thể nói họ như cảm thấy được ra khỏi đạo và các ràng buộc xưa nay của lương tâm công giáo. Chỉ còn một luật chi phối công việc làm ăn của họ là: mua rẻ bán đắt. Và cho được như vậy, môi mép và lời nói là phương tiện được sử dụng tối đa. Các tiên tri đã nhiều lần lên án các thói buôn gian bán lận và đời sống bê bối của các thương gia. Ben Sira cũng nhất trí cảnh cáo: giữa bán và mua tội chen vào giữa. Ông không thích doanh thương vì buôn bán làm sao vô tội? Nhưng ông chẳng cấm được. Và dường như ông biết lời khuyên chẳng công hiệu gì nơi tại kẻ đếm tiền. Có lẽ vì vậy ông quay sang nói với khách hàng, với những người dân vô tội phải đến mua ở các cửa tiệm. Ông thấy họ nhiều khi đã trở thành mồi ngon của các con buôn. Và như vậy chỉ vì họ dễ bị lời nói mua chuộc. Vừa nghe con buôn quảng cáo hàng hóa là họ đã sa bẫy. Thế nên trong đoạn văn vắn tắt này Ben Sira khuyên người ta đừng vội tin lời nói của con buôn. Hãy để cho nó nói mãi đi, cuối cùng điều nó che giấu sẽ lòi ra. Chẳng khác gì cứ sàng mãi, trấu bẩn sẽ còn lại và gạo sẽ lọt xuống… Và cũng như cứ đi qua lò, thì đồ sành thợ gốm sẽ được hay không. Hoặc cũng như phải chờ khi có quả mới biết cây dại hay cây tốt. Và Ben Sira kết luận cứ thong thả nghe lời biện luận của con người sẽ biết tâm tư của họ. Thành ra không nên vội phán đoán một ai trước khi nghe nhiều lời người đó nói.

Như vậy từ thái độ phải có đối với người mua bán, tác giả đã dẫn chúng ta sang thái độ phải có đối với mọi người: đừng vội tin ai và phê phán ai trước khi nghe người đó nói, bởi vì tâm tư con người lộ bày khi biện luận. Tác giả có lạc quan quá không? Có thể luôn luôn căn cứ vào lời nói của con người mà đánh giá họ không, cho dù không phải là tin vào một lời, nhưng là đã nghe người ấy luận lý rất nhiều? Tác giả Luca dường như không hoàn toàn tin như vậy. Người đưa thêm một số tiêu chuẩn nữa để hiểu biết con người như trong bài Tin Mừng sau đây.

2/ Việc làm

Chúng ta bảo Luca là tác giả của bài Tin Mừng này, mặc dù đây là Lời Chúa đã thốt ra từ miệng Chúa Giêsu Kitô. Chắc Chúa đã không nói tất cả những lời này một lần và không theo một thứ tự như ở đây. Rõ ràng chẳng có một thứ tự luận lý nào để khẳng định Chúa đã nói luôn một lần những điều ít ăn khớp với nhau. Cũng như tư tưởng này và những câu văn như thế, trong sách Tin Mừng Mátthêu chẳng hạn, lại nằm ở những chỗ khác và phục vụ những chủ đề khác. Như vậy chúng ta có thể nói được rằng, tác giả Luca đã dùng những câu Chúa nói ở những trường hợp khác nhau đem xếp cả vào chỗ này để phục vụ một chủ đề nào đấy.

Nếu chúng ta còn nhớ, thì Chúa nhật trước chúng ta cũng đã đọc sách Tin Mừng của Luca. Ðoạn trích hôm nay tiếp theo bài đọc lần trước. Thế mà hôm đó chúng ta đã thấy rằng Chúa dạy chúng ta phải yêu thù địch, không còn được duy trì đầu óc kỳ thị và phân biệt, và phải coi mọi người là con cái một Cha trên trời và hết thảy là anh em của nhau. Hôm nay dường như tác giả Luca muốn tiếp nối tư tưởng trên và nói đến thái độ bác ái ngay trong cộng đoàn các môn đồ của Chúa, tức là chính trong lòng Hội Thánh và Giáo Hội.

Chắc chắn câu đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay phải hiểu về các người lãnh đạo cộng đoàn tức là hàng giáo sĩ: linh mục, giám mục hiện nay của chúng ta. Thực ra câu văn có thể dùng trong một trường hợp khác. Và trong Mátthêu câu này đã được tuyên bố về giới tư tế, lãnh đạo trong Do Thái giáo. Họ là những người mù dẫn đàng cho người mù. Nguyên khởi đó chỉ là một câu cách ngôn. Chúa Giêsu có lần dùng để nói về luật sĩ và biệt phái vì họ không biết mở mắt đón nhận đường lối của Thiên Chúa đang bày tỏ nơi công việc của Ðấng Ngài sai đến. Họ ở cương vị lãnh đạo mà mù thì dẫn đàng chỉ lối cho người khác sao được?

Tác giả Luca nhớ có lần Chúa nói như vậy. Nay đang viết những lời Người khuyên bảo môn đồ, Luca sực nhớ câu đó. Người thấy nó vẫn hợp để nói với giới lãnh đạo trong Hội Thánh. Những người này cần nhớ rằng: ở cương vị lãnh đạo, họ phải sáng suốt. Ðó là thái độ bác ái quan trọng nhất họ phải thi hành cho những người được trao phó cho họ.

Xem thêm :  Giáo án văn học: thơ mẹ của em

Nhưng trong Hội Thánh, không phải chỉ có các nhà lãnh đạo. Ðại bộ phận Dân Chúa được gọi là môn đồ. Và tư cách đầu tiên, thái độ bác ái cơ sở của người môn đồ nằm trong quan hệ với Thầy mình. Môn đồ không lẽ hơn Thầy, hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy. Lời này thoạt nghe có vẻ chua chát, nhưng nếu nhớ Thầy của các môn đồ chính là Chúa Giêsu Kitô, thì đây là cả một lý tưởng cao cả: môn đồ phải cố gắng nên hoàn bị như Thầy.

Sau hai câu nói với hai hạng người trong Hội Thánh, những câu sau có thể nói, mới thật sự vào đề và muốn dạy dỗ mọi thành phần trong cộng đoàn tín hữu. Họ không nên để ý đến khuyết điểm của anh em trước, nhưng trước hết hãy muốn nhờ anh em giúp mình sửa đổi tính hư nết xấu. Nếu làm như vậy chắc chắn sẽ không có cãi cọ bất bình; một cộng đoàn như thế chắc chắn mỗi ngày một hoàn toàn hơn. Ai mà không có cảm tình yêu thương đối với người muốn sửa mình? Bác ái cộng đoàn được xây dựng chắc chắn nhất, khi các phần tử trong cộng đoàn luôn ý thức bổn phận phải sửa mình, trước khi nói đến các khuyết điểm của anh em. Nhất là khi trong cộng đoàn ấy, ai cũng theo gương Chúa mà sửa mình như trên vừa nói: hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy?

Thế nên người tốt phải chứng tỏ qua việc làm. Chúng ta đừng tưởng ở đây Luca mâu thuẫn hoặc nói khác với tác giả sách Huấn Ca. Cả hai đã trích câu tục ngữ: Xem quả biết cây. Nơi tác giả sách Huấn Ca, lời nói và biện luận là quả do tâm tư con người. Luca công nhận điều ấy vì ở đây người cũng viết: lòng ứa đầy những gì thì miệng nói ra. Nhưng lời nói nơi Luca không phải chỉ là các âm, các tiếng, mà còn là tất cả mọi việc mà con người làm. Các việc này cũng bày tỏ “lòng” người ta, vì “người lành tự kho lành lòng mình mà đem ra sự lành, và người dữ tự tính ác mà đem ra sự ác”.

Như vậy Luca muốn đầy đủ hơn tác giả sách Huấn ca. Người khiến chúng ta nên giải thích bài sách này một cách rộng rãi nhưng vẫn hợp ý với tác giả. Như chúng ta biết, ông viết những lời trên là để cảnh giác con cái Israen đề phòng sự gian dối của phường mua bán. Và sở dĩ như vậy vì ông thấy quá nhiều bất công và tội lỗi trong việc mua đi bán lại. Ông muốn xã hội công bằng huynh đệ hơn.

Vì thế chúng ta có thể hiểu bài sách Cựu Ước hôm nay về lòng bác ái. Cũng như bài Tin Mừng vậy. Nhưng ở một mức độ sâu sắc hơn. Tác giả sách Huấn Ca thấy thiếu bác ái trong việc mua bán. Tác giả Luca còn nhìn thấy trong thái độ người ta hay phê bình và chỉ trích nhau. Cuối cùng cả hai đều công nhận phải sửa chữa từ tâm tư và từ “lòng” con người. Do đó muốn biết người tốt, phải xem lời nói, phải xét việc làm. Nhưng muốn có lời tốt và việc lành, phải sửa đổi tâm tư và lòng trí, là con người bên trong của chúng ta. Có thể làm công việc này không?

3/ Ơn Chúa

Theo thánh Phaolô trong bài thư hôm nay, khi xác hay chết này mặc lấy sự trường sinh, thì bấy giờ con người mới thực sự công chính. Và đức bác ái yêu thương mới trọn vẹn. Ðối với chúng ta dĩ nhiên là như vậy rồi. Nhưng các độc giả trực tiếp của thánh Tông đồ, tức là những người Côrintô thời bấy giờ, chân lý ấy nên được giải thích rõ ràng hơn. Bởi vì họ là những người Hy lạp tòng giáo. Ít ra họ là các tín hữu mới mẻ đang hít thở bầu khí văn hóa Hy Lạp. Những người này quan niệm xác và hồn nơi con người là hai yếu tố rất dị biệt, chẳng thể hòa hợp với nhau. Hồn ở trong xác như ở trong tù, chỉ chờ đợi ngày thoát ra khỏi xác để được trở về sống như những thần linh, bởi vì trước kia linh hồn cùng ở chung với các thần thánh, nhưng đã sa đọa nên rơi vào xác thịt và bị giam ở đó. Thành ra bao lâu còn sống trong xác thể, linh hồn còn khổ sở và ấm ức. Con người không có sự hòa hợp ngay trong chính mình, nên cũng chẳng có hòa hợp được trong xã hội. Linh hồn đợi ngày giải thoát ra khỏi thân xác.

Quan niệm như vậy không hợp với đức tin. Ðành rằng xác thịt con người hiện nay là mồi cho sự chết. Nhưng chết không phải là hết. Nhờ sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, thân xác con người cũng sẽ sống lại. Không phải để rồi lại sống như trước đây, nhưng để trường sinh bất tử như “thần thánh”. Và sở dĩ như vậy là vì xác thể con người sẽ mặc lấy sự bất hoại, là đặc tính của Thiên Chúa. Lúc ấy con người sẽ ca khúc khải hoàn chế nhạo sự chết: Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu, ngươi đã dùng tội lỗi làm nọc sát hại con người. Và tội lỗi đã tỏ ra mãnh liệt trong chế độ Lề luật, toàn là cấm đoán mà không có cứu độ. Nhưng nay Chúa Giêsu Kitô đã đem ơn cứu độ đến, tẩy sạch tội lỗi, làm vô hiệu nọc của tử thần, khiến con người có Ơn Chúa không còn chết nữa.

Như vậy ơn của Chúa Giêsu Kitô cứu sống chúng ta khi tiêu diệt tội lỗi, và ban cho ta sự sống mới, sự sống của Thiên Chúa thay thế sự sống của xác thịt tội lỗi trước đây. Do đó ai muốn nên công chính, muốn sống bác ái yêu thương phải để cho Ơn của Chúa Giêsu Kitô biến đổi tâm tư và lòng trí. Và công việc này phải làm trong kiên nhẫn, không nao núng. Phải nhờ làm thêm nhiều việc lành, mà thánh Phaolô gọi là việc của Chúa.

Như vậy, người tốt không phải ở lời nói, nhưng ở việc làm, và nói rõ hơn, ở việc làm của Chúa. Ơn của Chúa là yếu tố cuối cùng quyết định sự công chính của con người chúng ta vậy. Và ơn của Chúa phong phú nơi các Bí Tích, đặc biệt trong mầu nhiệm thánh lễ. Nơi đây Chúa ban cho chúng ta bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng, để chúng ta có sức sống của Thiên Chúa, làm được các việc Chúa là các việc lành, hầu tâm tư, lòng trí chúng ta dần dần được cải hóa nên công chính. Chúng ta sẽ có những lời nói việc làm đầy bác ái yêu thương. Không những đời sống bản thân sẽ đạo đức hơn mà đời sống xã hội cũng công chính hơn. Bài thư Phaolô giúp ta đạt được những điều nhắn nhủ trong hai bài sách Huấn ca và Tin mừng vậy.

5. Những bậc thầy mới – R. Gutzwiller

1. Tinh thần

Bản tính con người là muốn dạy bảo người khác. Có những người quyền thế luôn cho mình là người hữu lý, họ muốn chinh phục những ai nghĩ tưởng khác họ về với ý kiến của họ. Lối phê bình đó đưa họ tới chỗ xét đoán và kết án mọi chuyện, mọi người, dĩ nhiên là trừ một mình họ. Quả thực, những người ưa phê bình tỏ ra rất nhậy cảm trước những lời người ta ca thán về mình.

Trong nước Chúa, sự việc phải xảy ra khác hẳn: người ta không xét đoán, không trù rủa nhưng cho đi và tha thứ.

Điều này không có nghĩa là mọi phán đoán đều bị đình chỉ. Giữa sự đoán xét của cá nhân và sự xét đoán theo lương tâm chức nghiệp có một sự khác biệt về căn bản. Khi cha mẹ xét đoán con cái, người có bổn phận giáo dục đối với thanh thiếu niên, bề trên đối với bề dưới, quan toà với tội nhân, những người đó hoàn tất một bổn phận cần thiết và do Thiên Chúa muốn. Thái độ của họ tuỳ thuộc vào tinh thần hướng dẫn họ. Và đó phải là một tâm tình khiêm hạ: không coi mình là hay hơn, tốt hơn người khác, phải xét đoán họ theo những quy tắc của họ, và phải áp dụng cho mình những đòi buộc tương tự, nếu không muốn nói là áp dụng cho mình những đòi hỏi cao hơn…

Sự dèm pha chua chát, kiểu phê bình không chút xót thương, những cách kết án phi nhân đạo, chủ nghĩa giáo điều vênh vang tự đắc, tất cả những cái đó nghịch với tinh thần của Đức Kitô.

2. Động lực

Chúa Giêsu đưa ra ba động lực chính để điều chỉnh thái độ của chúng ta:

Thứ nhất và trọng nhất là mối liên hệ của ta với Thiên Chúa. Chúng ta đang đứng trước pháp đình và không thể tự bào chữa cho mình được. Do đó, hẳn ta sẽ nghĩ đến lòng nhân từ. Như vậy ta phải thông cảm với bất cứ con nợ nào, và phải có tâm hồn bao dung, không xét đoán theo những luật lệ khắc nghiệt. Nhưng hành động theo lòng trắc ẩn. Những quan hệ đứng đắn với Thiên Chúa sẽ điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với nhau.

Thứ hai là mối quan hệ giữa người với người. Ai dạy dỗ người khác thì coi mình là người hướng đạo, trường hợp này điều chủ yếu là hướng dẫn viên phải sáng suốt để tránh tình trạng mù lại dẫn mù, và cả hai đều sa xuống hố.

Chỉ có hướng dẫn viên nào biết mình và xét đoán bản thân mình cách quân bình mới có thể hiểu biết và xét đoán tha nhân. Trong việc điều khiển chính xác, những điều kiện đầu tiên nhằm vào vị thủ lãnh. Mọi sự cải tổ đúng nghĩa đều phải khởi sự từ chính bản thân mình. Ta chỉ có thể phê bình người khác sau khi đã tự phê chính bản thân ta.

Thứ ba là phải có một caí nhìn thấu suốt chính bản thân mình. Bởi vì kẻ cho mình là tốt hơn tha nhân, theo lời Chúa Giêsu, là kẻ giả hình. Y tạo cho mình vẻ bề ngoài giả dối và hành động của y cũng như vậy. Y kêu rêu vì cọng rơm trong mắt anh em như thể mắt y không có gì cả, đang khi thực sự mắt y lại có cả một cái xà che khuất.

Như vậy, lý do Chúa Giêsu đưa ra đây hạ dần từ Thiên Chúa xuống tha nhân, và rồi đến chính mình. Ai tỏ ra lạnh nhạt với động lực đạo đức (quan hệ với Thiên Chúa). Thì ít là phải tỏ ra mẫn cảm với động lực xã hội… Nếu không, hẳn sẽ phải nhận mình là dị hợm vì khi đi khiển trách tha nhân và đề cao mình khi tìm cách cải thiện những kẻ tốt hơn mình và khi để ý đến lầm lỗi tha nhân, thì lại bị mọi người chế nhạo.

3. Lửa thử vàng

Muốn biết vị thày nào đáng cho ta tin cậy hay không, nên xem xét những việc ông ta làm, đây là tiêu chuẩn chắc chắn. Xem quả thì biết cây. Những hành vi lương hảo tượng trưng cho hoa trái chín thơm trên thân cây lành mạnh; còn hành động xấu xa là hoa trái ung thối do thân cây sâu bệnh mà ra.

Sự thiếu hoạt động nơi con người, có thể ví như một cây khô héo không còn sinh hoa kết quả: bởi vì không lẽ ta hái vả nơi bụi gai và vặt nho nơi cây dâu đất. Chẳng nên căn cứ vào lời lẽ bay bướm, hứa hẹn hay chương trình ồn ào phĩnh phờ, tình cảm kiểu cách biểu lộ hấp dẫn, hàng chuỗi sưả soạn nội bộ.

Bình tĩnh nhận xét hành vi và nếp sống là tiêu chuẩn định giá trị, là bằng chứng điều họ xác tín, và như thế ta biết có thể tin vào sự hướng dẫn của họ hay không. Nói cho cùng, hành động tinh thần chỉ là một, sự nhất trí này là mức độ sự thành toàn.

Bài giảng trên núi kết thúc bằng hình ảnh đặt quan trọng ở cách cư xử. Một ngôi nhà xây trên nền đá vững chãi, bão tố không làm chi được; còn căn nhà dựng trên bãi cát, sẽ sụp đổ một khi mưa giông, bão giật đổ tới. Người nào không chỉ nghe suông, nhưng mang ra thực hành, thì giống như người xây nhà trên đá; còn người nghe và hồ hởi đón nhận, nhưng tư cách không phù hợp với giáo lý là người xây nhà trên cát.

Chỉ có cách sống được tinh thần Chúa Kitô hướng dẫn mới là một Kitô giáo chân thực mà thôi.

6. Đạo đức giả

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một nguyên tắc để sửa lỗi anh em đó là: bản thân mình phải tốt mới có thể sửa dạy người khác.

Tiếng Việt của chúng ta dùng từ “sư phạm” để ám chỉ người dạy học. Sư là thầy, phạm là cái khuôn. Ý nói người làm thầy phải nên gương mẫu để học trò noi theo. Người thầy không chỉ là người truyền thụ một số kiến thức nhưng quan trọng còn là người phải nêu gương về cách sống, đạo đức.

Vì thế, kẻ muốn làm thầy người khác thì trước hết phải biết mình. Biết mình với những tính xấu, tật hư để tự sửa sai bản thân mình: “Tiên trách kỷ” sau đó mới có thể làm thầy, sửa dạy người khác “hậu trách nhân”. Nếu không biết mình để tu thân thì giống như Chúa Giêsu nói: “Mù dắt mù” thì kết quả là cả hai thầy lẫn trò sẽ sa xuống hố.

Đôi mắt của chúng ta thường dùng để nhìn người khác chứ ít khi nhìn mình. Do đó, chúng ta ít thấy lỗi lầm của mình, nhưng lại dễ dàng nhận ra những sai sót của tha nhân: “Sao anh lại có thể nói với người anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?”. Trong nhà thờ, người Công giáo hay đấm ngực mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”, nhưng khi ra ngoài nhà thờ thì đấm ngực người khác: “Lỗi tại nó…”.

Chúa Giêsu không ngại quở trách những người không “biết mình”, mà chỉ soi mói anh em giống như những Pharisêu, luật sĩ là những kẻ giả hình: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!”.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn chúng con phải là những con người biết nhìn nhận lỗi lầm của mình, biết tự sửa sai chính mình trước khi sửa sai người khác. Xin Chúa giúp chúng con biết nhận ra những thiếu xót, tội lỗi của bản thân và can đảm sửa đổi. Để nhờ cuộc đời thánh thiện, chúng con góp ý cho nhau trong tình huynh đệ chân thành nhằm làm lợi cho Nước Chúa. Amen.

7. Bài giảng là hoa quả của trái tim

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)

Chúng ta sống trong thời đại kỳ diệu giống như Tivi, máy tính và những cuộc du hành không gian. Hàu như mỗi ngày, những điều kỳ diệu đều hé mở. Ai biết được những gì sẽ xảy ra kế đó? Và một trong những điều kỳ diệu lớn nhất mà chúng ta cảm nghiệm được mỗi ngày sống, cũng giống như là từ khi bình minh của nòi giống con người. Đó là sự kỳ diệu của ngôn ngữ. Quả thật nếu không có ngôn ngữ thì khó thấy được sự kỳ diệu của thời đại chúng ta có thể phát triển bởi vì sự cộng tác giữa những con người với nhau thì quá khó khăn, ngn làm cho mọi sự có thể ngay khi không thể.

Ngôn ngữ của con người không đơn giản được rút ra từ trên một ngàn năm qua do kinh nghiệm. Ngôn ngữ là một đặc ân của Thiên Chúa tuôn trào từ chân lý mà chúng ta đã được tạo dựng nên theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Điều đó nâng chúng ta lên như là hữu thể con người vượt trên những tạo vật khác và thật sự đã làm cho chúng ta nên giống Thiên Chúa. Từ đời đời chính Thiên Chúa đã là Ngôi Lời. Ngôi Lời mà chúng ta đã biết từ mạc khải Người Con thần linh của Cha. Ngài đã có từ nguyên thủy với Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Tất cả những lời nói của con người chúng ta thì không có vấn đề gì trong ngôn ngữ nhưng được thông dự vào trong Lời của Thiên Chúa. Đặc ân ngôn ngữ của Thiên Chúa thì quý giá biết bao mà chúng ta không được coi thường. Những lời đến từ chúng ta như là hoa quả đến từ cây. Trái xấu thì đến từ cây xấu và sách Khôn ngoan ngày hôm nay đã cảnh cáo chúng ta rằng, những lỗi của con người đã xuất hiện khi hắn nói. Nói một cách khác, trái tốt thì đến từ cây tốt. Như thế Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng một người tốt sẽ sinh điều tốt, như từ điều tốt ở trong lòng của nó. Những từ ngữ của con người chúng ta sẽ là một diễn tả sự tốt lành của chúng ta.

Dĩ nhiên con người chúng ta được tự do sử dụng những đặc ân của Thiên Chúa theo điều đúng hoặc sai. Có lần chúng ta nói điều tốt nhưng lúc khác chúng ta lại nói điều xấu. Có lần chúng ta diễn tả sự kính trọng và tình yêu với những lời hay ý đẹp, nhưng lúc khác chúng ta lại tỏ ra mất kiên nhẫn và thù hận. Lúc này chúng ta nói sự thật, lúc khác chúng ta lại không nói sự thật.

Chúng ta có thể đồng ý rằng chúng ta không khinh thường những đặc ân của Thiên Chúa, cố gắng để sửa sai những từ ngữ của mình, nhưng sự thay đổi trái tim của chúng ta thì giống như cố gắng sinh sản ra những trái tốt từ cây xấu vậy. Chúng ta cần thay đổi bên trong của chúng ta. Đó là lý do vì sao mà Thiên Chúa muốn khi Ngài nói: “Mỗi người hãy nói từ sự phong nhiêu của lòng mình”.

Sự phong nhiêu nơi tâm hồn của chúng ta là gì? Với sự tốt lành nào mà tâm hồn đó đã được tràn đầy? Không có điều gì hơn sự tốt lành phong phú của Thiên Chúa. Vào mỗi ngày Chúa Nhật nơi Thánh Lễ chúng ta đã nghe những lời, những lời rất quan trọng, những lời phản ảnh Ngôi Lời lớn lao của Thiên Chúa. Chúng ta nghe những lời trong Thánh Kinh. Đức Kitô Ngôi Lời của Thiên Chúa đã nói với chúng ta khi những lời Thánh Kinh được tuyên bố trong phụng vụ. Từ những lời thánh này, chúng ta học được về Thiên Chúa và học được về chúng ta. Thí dụ trong bài đọc thứ hai của Thánh Phaolô ngày hôm nay đã nói với chúng ta về giá trị lớn lao như là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta rất giá trị trong đôi mắt của Thiên Chúa, cái chết thì không phải là tận cùng của chúng ta, sự chết đã được Đức Kitô chế ngự, Thánh Phaolô đã tuyên bố chân lý này để cho tâm hồn của chúng ta được tràn đầy sự tốt lành của Thiên Chúa, nhưng ngài cũng trình bày cho chúng ta là lời nói của chúng ta phải tuôn trào một sự hiểu biết về sự nhân lành đó. Ngài cũng nói thêm sự tuôn trào đó sẽ có giá trị phát xuất từ tâm hồn của chúng ta: “Hãy cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

Nếu tâm hồn của chúng ta được tràn đầy sự nhân lành của Thiên Chúa và những lời của chúng ta được tràn đầy sự nhân lành. Chúng ta sẽ không dùng những lời xấu nhưng là những lời tốt. Chúng ta sẽ làm tốt nếu mọi người nghe chúng ta nói có thể cảm nhận rằng chúng ta nói như Đức Giêsu Kitô đã nói xưa kia trên mặt đất này. Tiếp đó, đối với lời nói của chúng ta, chúng ta có thể đáp cách đúng đắn rằng: “Hãy cảm tạ Thiên Chúa”.

8. Ánh sáng thế gian

Ngày 11/09/2003 Hoa Kỳ và cả thế giới đã tưởng niệm các nạn nhân của cuộc khủng bố ngày 11/09/2001. Thế giới không những tưởng nhớ những người đã chết, thế giới còn nhắc nhở để ý thức về những sức mạnh mù quáng của sự dữ đang lôi kéo con người vào vòng tội ác. Những kẻ gây ra đau thương tang tóc cho người đồng loại mà vẫn nghĩ rằng mình đang làm điều tốt. Nhiều người đang bị lôi kéo vào vòng tội ác mà không hay biết.

Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Ngài đến để cứu thoát con người khỏi tăm tối của sự dữ. Ngài nói với loài người rằng họ đang bị sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo và trói buộc. Ngài đến để mang lại cho chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận thân phận tội lỗi của mình chúng ta mới thấy được sự cần thiết để được giải thoát.

Chúa Giêsu đã khẳng định: “Chỉ có sự thật mới giải thoát các ngươi”. Sự thật ở đây trước hết là sự thật về thân phận yếu hèn tội lỗi của chúng ta. Thật thế, chỉ khi nào biết mình đang đi trong bóng tối chúng ta mới cảm thấy cần có ánh sáng. Trái lại bao lâu vẫn không nhận ra thân phận mù lòa của mình, bấy lâu chúng ta sẽ chẳng bao giờ cảm thấy cần có ánh sáng.

Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh của người mù dắt người mù để nói lên tình trạng khốn khổ của con người. Ðể có thể là người dẫn đường, chúng ta phải là người thấy đường đã. Thấy đường ở đây không hẳn là nắm bắt hay chiếm hữu chân lý. Thấy đường thiết yếu là thấy được thân phận tội lỗi của mình và từ đó có một thái độ khiêm tốn hơn trong quan hệ với người khác. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy lấy cái xà trong con mắt mình trước đã rồi mới thấy rõ hầu lấy cái rác trong con mắt người anh em.

Tựu trung, chúng ta được mời gọi để sám hối và sống khiêm tốn hơn. Thế giới đang bị những sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo, xã hội trong đó chúng ta đang sống cũng đang bị nhận chìm trong tăm tối của sự dữ. Sự dữ đúc chế những danh từ hoa mỹ, sự dữ được cơ chế hóa, sự dữ được luật pháp che chở. Sống trong bóng tối con người chẳng còn phân biệt được ánh sáng và bóng tối. Ði trong tăm tối của sự dữ con người chẳng còn biết thế nào là thiện thế nào là ác, và cuối cùng ý thức về tội lỗi cũng bị đánh mất.

Lời đầu tiên của Chúa Giêsu khi khởi đầu sứ vụ công khai là kêu gọi con người sám hối và tin vào Tin Mừng. Có nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người mới có thể nhận ra được sự cần thiết của ơn cứu rỗi. Ðây chính là điều Giáo Hội nhắc nhở con cái mình mỗi ngày. Ở đầu mỗi thánh lễ chúng ta đấm ngực và xưng thú tội lỗi của mình, làm như thế chúng ta không những nói lên thân phận tội lỗi của mình mà còn mời gọi mọi người ý thức về những sức mạnh của sự dữ đang hoành hành trên thế giới. Sám hối là tâm tình cơ bản nhất của người tín hữu Kitô.

Nguyện xin Chúa cho đôi mắt tâm hồn chúng ta luôn được sáng suốt để nhìn thẳng vào nội tâm sâu kín của chúng ta, hầu nhận ra những bất toàn sai sót của mình. Ý thức về tội lỗi của mình chúng ta mới nhận ra được những sức mạnh của sự dữ đang bủa vây chung quanh chúng ta, và, với sự trợ giúp của ơn Chúa chúng ta mới đủ sức để chiến đấu chống lại sự dữ.

9. Cái rác – cái xà

(Suy niệm của Lm. Vinc. Đỗ Minh Thăng)

Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng một hôm, con tê giác đang đi uống nước thì nghe tiếng một con chích choè đang hót trên cành cây. Nó bực mình thét to: “Im đi, cái con chim xấu xa. Mầy không thấy tao đang uống nước sao?”

Con chích choè không chịu thua, cãi lại: “Bộ ông đẹp đẽ lắm sao? Ông thử soi mặt ông trên mặt nước rồi sẽ biết”.

Con tê giác nghĩ trong bụng: “Soi thì soi. Ai mà không biết ta là người hoàn hảo”. Nhưng vừa nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta bỗng giật mình vì khám phá một chiếc sừng quái dị nằm ngay trên mũi mình. Biết mình còn xấu xí hơn tất cả các con vật có sừng khác, nó xấu hổ quá.

Anh chị em thân mến,

Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường thấy cái rác trong mắt người khác mà không thấy cái xà trong mắt mình; thấy lỗi nho nhỏ của người khác mà không thấy lỗi lầm to lớn nơi bản thân mình; phê phán người khác mà không tự phê phán mình; đó là thứ mù quáng và giả hình mà Chúa Giêsu nhiều lần cảnh cáo bởi vì ai cũng dễ mắc phải.

Chúa Giêsu không cấm ta góp ý, sửa lỗi cho người khác, nhưng Ngài dặn ta trước hết hãy lấy xà khỏi mắt mình, để thấy rõ mà lấy rác nơi mắt anh em. Khi chúng ta lấy cái xà ra khỏi mắt mình rồi thì chúng ta sẽ có cái nhìn bao dung hơn với tha nhân.

Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng.

Lạy Chúa, “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”. Biết Chúa để thấy lòng quảng đại yêu thương vô bờ của Chúa; biết con để ý thức về sự yếu đuối, bất toàn của con, nhờ đó con sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác như Chúa đã đối xử cách đại lượng với con. Amen.

10. Mù không thể dắt mù

(Suy niệm của Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP)

Trong cuộc sống, vẫn còn đó rất nhiều người dốt, nhưng lại được mua chuộc bằng tiền, bằng quyền để lãnh đạo và dạy dỗ người khác. Tệ hơn nữa là những kẻ đạo đức giả tạo lại oang oang nói về lòng nhân từ hay tha thứ một cách “ngọt như đường mía lau”!

Không những thế, những kẻ trá hình này lại còn lôi kéo nhiều người khác đi vào con đường mù quáng, sai trái của mình…

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu răn dạy các môn đệ và những ai bước theo Ngài trong vai trò chứng nhân, phải khôn ngoan, sáng suốt, thông hiểu về Giáo Lý và có đời sống gương mẫu, có đủ tư cách phù hợp với vai trò của mình và nhất là phải giữ vững bản chất của một người thuộc về Chúa để nên giống Chúa.

Nếu người môn đệ mà mù mờ về Giáo Lý, hiểu sai ý Thiên Chúa và sống một cuộc đời phản chứng, gương mù và biến chất, thì sẽ gây nên những hậu quả khôn lường. Bóng tối thêm vào bóng tối vẫn là bóng tối chứ không tạo ra được tia sáng nào. Mù mà dắt mù ắt sẽ rơi xuống hố.

Như vậy, muốn thành công, người môn đệ phải có sự hài hòa giữa đời sống nội tâm và hành động. Nói khác đi, cần phải làm gương trước khi khuyên bảo người khác… để lời nói và hành động của mình trở nên “nhất ngôn, nhất hành”.

Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu giãi Ánh Sáng là Chân Lý của Chúa vào trong tâm hồn chúng con. Xin cũng cho chúng con luôn thuộc về Ánh Sáng và phải có trách nhiệm chiếu giãi Ánh Sáng đó cho mọi người. Amen.

11. Hãy tự biết mình

“Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán.” (Lc 6,32)

Chỉ là thụ tạo mà muốn làm Thượng đế, đó là ảo tưởng muôn đời của con người. Ngay từ đầu lịch sử nhân loại, Ông Bà nguyên tổ của loài người đã trải qua cơn cám dỗ ấy. Ma quỉ nói với Ông Bà: Các ngươi hãy ăn trái cấm, các ngươi sẽ trở thành Thiên Chúa, nghĩa là các ngươi hãy chối bỏ Thiên Chúa và tự tôn mình thành Thiên Chúa để sống mà không cần có Thiên Chúa. Ðó là cơn cám dỗ triền miên của con người: sống không cần Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, để tự tạo cho mình một bậc thang giá trị và trở thành thẩm phán tối cao cho mọi hành động của mình cũng như của người khác.

Những lời Chúa nói hôm nay không đơn thuần chỉ là bài học có tính cách luân lý. Chúa Giêsu không chỉ khuyên chúng ta không nên xét đoán người khác. Ngài còn mời gọi chúng ta tự đặt mình vào mối tương quan với Thiên Chúa: Chỉ có Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng con người mới có thể xét xử con người. Nhìn nhận quyền xét xử của Thiên Chúa, con người cũng sẽ nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. “Hãy lấy cái dằm ra khỏi mắt ngươi trước đã”, nghĩa là hãy nhận ra thân phận bất toàn của mình trước.

Có nhận ra mối tương quan đích thực với Thiên Chúa, con người mới thấy được tương quan của mình với tha nhân. Thật thế, chối bỏ và cắt đứt mối tương quan với Thiên Chúa, con người sẽ đi đến chỗ chối bỏ tha nhân. Ngược lại, nhận ra Thiên Chúa là Chủ tể, con người cũng sẽ nhận ra thân phận thụ tạo yếu hèn của mình và tình liên đới với tha nhân.

Ngày xưa, nhà hiền triết Hy Lạp là Socrate đã đề ra khẩu hiệu như bài học vỡ lòng cho các môn sinh của mình: “Hỡi người, hãy tự biết mình”. Chúa Giêsu của chúng ta cũng đề cao sự sám hối: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. “Hãy sám hối” trước tiên là nhận ra thân phận bất toàn đầy dẫy những lỗi lầm thiếu xót của mình, để rồi từ đó con người sẽ biết sống cảm thông, kiên nhẫn, bao dung và tha thứ đối với người khác hơn. Sống như thế, con người mới đạt được cùng đích của mình là trở nên giống Thiên Chúa, chứ không phải trở thành Thiên Chúa để gạt bỏ chính Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.

Lịch sử đời sống tu trì ở những thế kỷ đầu của Kitô Giáo có ghi lại một giai thoại như sau:

Tại một tu viện nọ, có một tu sĩ bị bắt quả tang phạm một lỗi nặng. Vì ích chung của cộng đoàn, các tu sĩ ở chung nhà liền mở một phiên xử và mời vị Tu Viện Trưởng đến tham dự, nhưng ngài đã từ chối. Một vài người đại diện các tu sĩ đến nài nỉ:

– Xin cha đến giúp chúng con, vì chỉ có cha mới giúp cho chúng con biết phải phán xét và sửa trị người anh em này như thế nào.

Vì thế vị Tu Viện Trưởng nhận lời đến dự phiên xử.

Khi ngài đến thì mọi người ngạc nhiên, vì thấy ngài mang trên vai một cái giỏ đầy cát. Những hạt cát chui theo một lỗ hổng chảy dài trên lưng của ngài. Thấy mọi người ngạc nhiên, ngài giải thích như sau:

– Anh em hẳn đã thấy những hạt cát rơi lã trã trên lưng của tôi, nhưng tôi thì không hề nhìn thấy. Tội lỗi của tôi cũng giống như những hạt cát này, nó chảy tràn lan trong tôi mà tôi không nhìn thấy. Tội lỗi đầy tràn mà tôi không thấy, thì làm sao tôi dám đoán xét người khác.

12. Cái rác, cái xà

Sao anh lại có thể nói với người anh em: này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong mắt anh ra, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong mắt người anh em! (Lc. 6, 42)

Chúa có lý, chắc chắn đúng! thực vậy làm sao người mù lại có thể dắt người mù được! nhất là không thấy cái xà trong mắt mình thì làm sao thấy cái rác trong mắt người lân cận được. Kẻ đó quá bệnh tật, không chỉ bệnh mù mắt mà còn mù trí khôn, không thấy và cũng không biết suy nghĩ phán đoán.

Biết bao nhiêu kẻ mù như thế trên con đường nhân trần này! có thể trong đó có tôi! biết bao nhiêu người tưởng mình có cái nhìn sâu sắc thiên bẩm, nhưng chỉ khi nhìn người khác thôi, còn mình thì lại mù. Tất cả chúng ta ít nhiều đều mắc tật đó! nếu chúng ta có cái nhìn khách quan, chúng ta sẽ run sợ vào chính mình và nhận ra tại sao mình lại sùng bái cái xà trong mắt mình mà lại không tôn trọng người khác chỉ có cái rác thôi. Lúc đó chúng ta mới lo sửa mình.

Khi Đức Kitô nói về những người biệt phái và về những tiến sĩ luật: “Hãy làm những điều họ nói và đừng làm như họ sống, họ đặt những gánh nặng cho người khác, còn họ không vác”. Chúng ta có thể chắc rằng họ phải nổi giận bất bình với lời tố cáo như thế vì họ không cho họ là giả hình. Chúng ta có tốt hơn họ chăng?

Chúng ta tố giác anh chị em mình, chê trách họ đủ điều sai trái, chúng ta thấy họ nhiều thiếu xót không thể tha thứ được, không thể khoan hồng, không thể thông cảm và không cần tử tế với họ. Chúng ta sẽ giật mình ghê sợ nếu họ cũng kết án chúng ta như chúng ta kết án họ, nếu họ bảo chúng ta biết rõ những lỗi lầm của chúng ta như chúng ta khám phá thấy nơi họ.

Chúng ta mù lại thích tôn mình hướng dẫn người mù khác!

Trái lại, người khác phải là cái gương giúp ta soi thấy ta, nếu không thì không thể tha thứ cho ta được. Chúng ta thích than trách thảm thiết những nhỏ nhen người ta làm cho ta phải chịu, vậy ta hãy tự hỏi mình xem ta có làm đúng như họ không? Cái xà chống cái xà, cái rác chọi cái rác. Hãy nhớ: “Ác giả ác báo, tích thiện giả thiện”.

13. Cẩn thận về việc xét đoán

“Xem quả thì biết cây” (Lc 6,44)

Sợi chỉ đỏ:

Cuối bài Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu khuyến cáo đừng xét đoán. Lời Chúa hôm nay nói tiếp về đề tài xét đoán:

– Trước khi xét đoán người khác thì phải tự xét đoán bản thân (Bài Tin Mừng)

– Phải xét đoán cẩn thận dựa trên nguyên tắc nhân quả, vì “xem quả thì biết cây” (Bài đọc I và Bài Tin Mừng)

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến

Bắt đầu mỗi Thánh lễ, chúng ta đều được kêu gọi hãy kiểm điểm lương tâm và nhận biết tội lỗi. Không phải nhận biết tội lỗi của người khác mà tội lỗi của chính mình; nhận biết như thế rồi không phải để trách người khác mà để tự trách mình và nhận lãnh trách nhiệm của mình mà sửa đổi.

Giờ đây mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lương tâm và thành tâm sám hối.

II. GỢI Ý SÁM HỐI

– Chúng con thường làm ngơ trước khuyết điểm của mình, nhưng lại khắt khe với lỗi lầm của người khác.

– Chúng con hay phê phán và lên án người khác.

– Chúng con thường sống giả hình.

III. LỜI CHÚA

1. Bài đọc I (Hc 27,4-7)

Sách Huấn ca gom góp những giáo huấn giúp sống khôn ngoan. Trong trích đoạn hôm nay, giáo huấn nhắm đến lời nói:

– Lời nói bộc lộ cái dở của một con người

– Nghe người ta nói, ta mới biết rõ ai rởm ai hay.

– Chớ vội khen hay chê khi chưa nghe người ta nói.

2. Đáp ca (Tv 91)

Người công chính thật được nhìn thấy qua cuộc sống tốt lành của mình: họ như cây dừa tươi tốt được trồng nơi Nhà Chúa, già cỗi rồi vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn.

3. Tin Mừng (Lc 6,39-45)

Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy cho môn đệ mình 3 điều:

– Dụ ngôn người hướng dẫn mù và cái xà trong mắt: Nếu người môn đệ Chúa mà mù quáng thì sẽ dẫn người khác đi vào sai lầm. Bởi thế, trước khi sửa lỗi người khác, mỗi người hãy tự sửa lỗi của mình.

– Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43-44): Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Chúa Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.

– Dụ ngôn kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt. Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu.

4. Bài đọc II (1 Cr 15,54-58) (Chủ đề phụ)

Đây là đoạn cuối của chương 15 thư I Côrintô bàn về vấn đề kẻ chết sống lại. Trong đoạn này, Thánh Phaolô rút ra những hệ luận từ tín điều sống lại:

– Cuối cùng Tử thần cũng phải bị đánh bại.

– Tín hữu hãy kiên tâm bền chí, tích cực tham gia vào công việc của Chúa, bởi xác tín rằng trong Chúa thì mọi khó nhọc sẽ không trở nên vô ích.

IV. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Bàn về lời nói

Ben Sira, tác giả sách Huấn Ca, cho rằng lời nói có giá trị bộc lộ sự thật: dựa vào lời nói của một người, ta có thể biết người ấy thực ra là dở hoặc hay. Hơn nữa, lời nói của một người còn giúp ta hiểu được lòng của người đó.

Nhưng Chúa Giêsu thì dạy khác: điều quan trọng không phải là nói, mà là làm. Ngài đã trách các kinh sư do thái rằng “Họ nói mà không làm” (Mt 23,3).

Không phải giáo huấn của Cựu Ước và Tân Ước nghịch nhau. “Lời nói” mà Ben Sira đề cập là lời thốt ra cách hồn nhiên, chân thành, chưa bị ngụy trang hay uốn nắn bởi những toan tính quanh co.

Ngày nay người ta phát triển những kỹ thuật để nghiên cứu và khảo sát lời nói: phân tích từng chữ từng câu để khám phá ý nghĩa thật. Các nhà phân tâm còn tìm cách cho bệnh nhân nói để chữa trị tâm bệnh của họ.

Lời khuyên của Ben Sira có lẽ không hợp nếu ta dùng nó để xét đoán lời nói của người khác, nhưng rất hữu ích nếu ta dùng để tự xét đoán bản thân:

– Tôi thường nói những chuyện gì? Nói nhiều về một vấn đề chứng tỏ tôi quan tâm nhiều hay bị ám ảnh bởi vấn đề đó.

– Tôi thường phê bình chỉ trích hay khích lệ, ủi an? Điều này giúp tôi biết tôi là người hẹp hòi hay rộng lượng; là người gây chia rẻ xáo trộn hay là người kiến tạo bình an.

– Khi nói về bản thân, giọng điệu của tôi thế nào? Điều này cho thấy tôi kiêu căng hay khiêm tốn.

* 2. Sửa mình trước khi sửa người

Chúa Giêsu chỉ rõ một thực tế rất thông thường: Thấy cái rác nhỏ xíu trong mắt người khác thì dễ hơn thấy cái xà to tướng nằm ngay trong mắt mình. Thấy khuyết điểm của người khác dễ hơn nhận ra khuyết điểm của mình.

Lý do là mình thường dễ dãi với bản thân và khắt khe với người khác. Đó là khuynh hướng tự nhiên. Nhưng đó là một căn bệnh: bệnh mù quáng, bệnh lệch lạc.

Ta có thể áp dụng giáo huấn của Chúa Giêsu vào hai trường hợp:

– Áp dụng cho chính bản thân: hãy cẩn thận đừng phê phán người khác, vì chưa chắc gì mình đã tốt hơn ai.

– Khi lãnh trách nhiệm lãnh đạo: vì trách nhiệm mà nhiều khi ta phải sửa lỗi người khác. Để cho lời nói của ta không là giả hình, để cho lời sửa dạy của ta có sức thuyết phục, ta hãy lo sửa đổi bản thân trước, nhờ đó ta trở thành một tấm gương, và tấm gương đó hỗ trợ khiến cho lời sửa đổi của ta đáng được người khác nghe theo.

* 3. Cây đời xanh tươi

Triệu Quát là con trai cha Triệu Xa – một danh tướng thời Chiến Quốc – thời trai trẻ từng đọc rất nhiều binh thư. Là một người khá thông minh, thích nói về quân sự, người khác không nói lại được, cha anh là Triệu Xa đôi khi cũng không tranh luận nổi với anh. Do đó, anh tỏ ra kiêu ngạo, tự cho mình là giỏi nhất thiên hạ.

Tuy nhiên Triệu Xa lại rất lo lắng cho con mình, ông cho rằng Triệu Quát chẳng qua chỉ nói phét. Ông còn nói: “Sau này nước Triệu không nên dùng nó, kẻo nó sẽ làm cho quân Triệu đại bại”.

Quả thật, khi quân Tần sang xâm lược, vua Triệu quyết định cử Triệu Quát thay thế Liêm Pha. Lạn Tương Như đang bệnh cũng phản đối: “Triệu Quát chẳng qua chỉ là đọc được một số sách binh thư của cha mình, căn bản không biết vận dụng thế nào, không thể cử hắn làm tướng”. Mẹ của Triệu Quát cũng đến gặp vua Triệu nói rằng con mình không thể làm đại tướng.

Nhưng vua Triệu không nghe, vẫn cử Triệu Quát ra tiền tuyến nghênh địch, hậu quả là 40 vạn quân Triệu chỉ trong chốc lát đã bị tiêu diệt hoàn toàn, bản thân Triệu Quát cũng tử trận thê thảm.

***

“Mù mà lại dẫn mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố” (Lc 6, 39). Làm nhà lãnh đạo hay người hướng dẫn phải có đủ tài đức; phải sáng suốt trong tư tưởng, khôn ngoan trong lời nói, và liêm chính trong việc làm, để khỏi dẫn đưa người khác cũng như chính mình vào con đường lầm lạc hay diệt vong. Những kẻ khoác lác, dối trá, giả hình có thể nhất thời lừa bịp được một số người, nhưng sớm muộn cũng sẽ bị bại lộ và sẽ phải chuốc lấy hậu quả khó lường: “Cây kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra”.

Cha mẹ của Triệu Quát vì sống cùng anh ta, nên thấu hiểu lời nói và việc làm của con mình không thể đảm nhận việc lớn. Nhưng vua Triệu không quan tâm đến câu: “Lời nói phải đi đôi với việc làm”, cứ cho rằng Triệu Quát là bậc kỳ tài trong thiên hạ và trao cho việc lớn. Kết quả không chỉ Triệu Quát bị hại mà còn liên quan đến tính mạng của 40 vạn quân. Mù mà dẫn mù thì việc sa xuống hố chỉ là sớm hay muộn mà thôi.

“Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới” (Lc 6,41). Người ta thường rất hà tiện trong lời khen ngợi, nhưng lại quảng đại trong tiếng chê bai. Có thể nói một trong những tội con người dễ phạm nhất: đó là hay xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ sai cho người khác.

Để có đôi mắt trong sáng, chúng ta không nên nhìn vào đôi mắt kẻ khác để thấy “cái rác” trong đó, hay “bới lông tìm vết” để xét đoán, chỉ trích họ, nhưng hãy nhìn vào chính đôi mắt tâm hồn mình, để thấy “cái đà” của kiêu căng tự mãn, của phô trương giả hình, để thanh lọc cho nên trong sáng. Vì người xưa có câu: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”, nên việc nhìn lại chính mình để tự kiểm thảo luôn là điều cần thiết của mỗi tín hữu Ki tô, nhất là những vị lãnh đạo, hướng dẫn các tâm hồn. Triết gia Chilon cũng cho chúng ta một luật sống bất hủ: “Hãy tự biết mình”. Thánh Augúttinô thường cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.

Biết mình thường hèn yếu lỗi lầm để đừng bao giờ khắt khe lên án anh em.

Biết mình hay che đậy giả hình để cảm thông dung thứ cho kẻ khác.

Biết mình thích phô trương háo thắng để đừng phê phán nhạo báng một ai.

Một tác giả kia đã nhận định: Những kẻ may mắn thường là những người có tâm hồn lạc quan vui vẻ, họ có thói quen nhìn vào mặt tích cực của sự việc và vào điều tốt của kẻ khác. Trái lại, những kẻ bất hạnh thường có thái độ tiêu cực, thù hằn, họ thích nhìn vào điều tồi tệ nơi kẻ khác, họ rất ham chỉ trích; và ưa “vạch lá tìm sâu”.

Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Cây tốt thì sinh trái rốt, cây xấu thì sinh trái xấu” (Lc 6,43). Lời nói việc làm của người tín hữu Ki tô chỉ có thể sinh hoa kết trái tốt tươi, nếu siêng năng suy niệm và thực hành Lời Chúa. Đời sống của chúng ta chỉ có thể “phát xuất ra sự lành” nếu chúng ta được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa vì Lời Chúa là lời yêu thương và Mình Chúa là Bí tích tình yêu. Những ai sống trong vị kỷ, xét đoán, chỉ trích và thù hằn, kẻ ấy sẽ chết trong bóng tối gian ác của chính mình.

***

Lạy Chúa, xin đừng để chúng con khô héo trong thái độ chỉ trích, trong lối nhìn tiêu cực, trong cách nghĩ đen tối, nhưng xin cho cây đời chúng con được xanh tươi để sinh hoa kế trái của an bình, hạnh phúc và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc)

* 4. Phải để ý đến lầm lỗi của chính mình

Một thầy dòng trẻ tuổi kia phạm một lỗi nặng. Lập tức các thầy dòng lớn tuổi họp lại để lên án anh ta. Tuy nhiên cần phải có mặt của Thầy Bề Trên thì phiên họp mới tiến hành được. Vì thế họ phái người đi mời Bề Trên: “Xin Bề trên đến mau, cộng đoàn đang chờ Thầy”. Thầy Bề Trên đứng dậy, lấy một chiếc thúng có nhiều lỗ thủng. Thầy đổ đầy cát vào thúng, rồi mang nó sau lưng đi đến phòng họp. Dĩ nhiên cát rơi đầy dọc đường. Các Thầy già hỏi Bề Trên làm việc đó vì ý gì thế. Và Thầy Bề trên trả lời: “Tội lỗi tôi rơi đầy sau lưng tôi. Tôi đi đến đâu cũng để lại một dãy tội phía sau. Chỉ có điều là tôi không thấy chúng. Thế mà hôm nay anh em lại bảo tôi ngồi tòa kết tội một người anh em của tôi sao!” Nghe thế, các thầy già xấu hổ và bỏ ý định lên án ông thầy trẻ.

Ai trong chúng ta cũng có thể trở thành những chuyên gia tìm ra tội người khác và phê phán họ. Nhưng những kẻ phê phán không phải là những người cải tạo thế giới. Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy lấy cái xà trong mắt mình ra trước, rồi mới tính đến chuyện lấy cái rác khỏi mắt anh em. Chúng ta phải lo dọn dẹp nhà mình cho ngăn nắp trước, rồi mới bảo người khác dọn dẹp nhà họ. Nếu không làm như thế thì chúng ta không phán đoán anh em vì quan tâm tới họ, mà chỉ vì thù ghét muốn làm hại họ. Ít có việc nào thoả mãn tính ích kỷ của mình cho bằng vạch tội người khác.

Một người dẫn đường chỉ có thể dẫn dắt người khác nếu bản thân người ấy thấy rõ con đường. Một người thầy dạy chỉ có thể chia xẻ cho người khác những kiến thức mà mình đã biết. Nếu không muốn làm một người hướng đạo mù, thì ta phải biết tự phê phán mình.

Chúng ta rất tích cực sửa lỗi người khác vì nghĩ rằng nếu mọi người khác trong cộng đoàn của mình mà biết được lỗi lầm và sửa chữa thì đời sống cộng đoàn sẽ tốt đẹp biết mấy. Nhưng ngược lại chúng ta rất khó chịu khi bị người khác vạch lỗi của chúng ta ra. Phải chăng đó là biểu hiện của tính ích kỷ?

Một người kia có thói quen hút thuốc và có nuôi một con vẹt. Một ngày kia anh thấy con vẹt cứ ho mãi, anh liền bỏ hút thuốc. Anh còn mời một bác sĩ thú y đến khám xem khói thuốc đã làm hại sức khoẻ con vẹt đến mức nào. Sau khi khám rất kỹ, bác sĩ cho biết con vẹt chẳng bị bệnh gì cả. Sở dĩ nó ho là vì nó bắt chước những cơn ho của chủ nó thôi. Khi đó, người ấy mới khám phá mình bị bệnh ho!

Người đạo đức giả – mà Chúa Giêsu gọi là giả hình – là người chỉ lo sửa lỗi kẻ khác. Người đạo đức thật là người biết tự sửa mình. (FM)

* 5. Cái xà trong con mắt

Không có gì làm ta mù quáng cho bằng để ý đến lỗi lầm của người khác.

Ngày xưa có một con tê giác luôn bị ám ảnh bởi ý tưởng mình là người hoàn hảo. Bởi thế nó tự cho mình có trách nhiệm sửa chữa những khuyết điểm của các con vật khác. Mà theo nó nghĩ, khuyết điểm nghiêm trọng nhất là có sừng trên đầu, cho nên tất cả những con vật có sừng đều không được ở yên với nó.

Thế nhưng nó đâu có biết rằng nó có một cái sừng mọc ngay trên cái mũi xấu xí của nó. Những con vật kia đều thấy rõ điều đó, nhưng chẳng con nào đủ can đảm nói cho nó biết.

Một hôm, con tê giác đang đi uống nước thì nghe tiếng một con chích choè đang hót trên cành cây. Nó bực mình thét to: “Im đi, cái con chim xấu xa. Mầy không thấy tao đang uống nước sao?”. Con chích choè không chịu thua, cãi lại: “Bộ ông đẹp đẽ lắm sao? Ông thử soi mặt ông trên mặt nước rồi sẽ biết”. Con tê giác nghĩ trong bụng: “Soi thì soi. Ai mà không biết ta là người hoàn hảo”. Nhưng vừa nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta bỗng giật mình vì khám phá một chiếc sừng quái dị nằm ngay trên mũi mình. Biết mình còn xấu xí hơn tất cả các con vật có sừng khác, nó xấu hổ quá: “Ta không thể nhìn mặt các con vật khác được. Ta tiều đời rồi”. Kể từ hôm đó, khi đi, nó luôn cúi gằm mặt xuống đất. Nó cũng chẳng dám cho ai thấy mặt cả, cứ trốn trong các lùm cây.

Nhưng làm sao trốn tránh mãi được. Cuối cùng nó chẳng còn lựa chọn nào khác là chấp nhận sự thật. Khi đã có can đảm đối diện với chính mình, nó cũng dần dần can đảm đối diện với các con vật khác. Và các con vật kia rất ngạc nhiên khi gặp lại nó: một anh tê giác khác hẳn trước, thật hiền lành và dễ thương làm sao!

Con tê giác của chúng ta đã thay đổi nhờ biết chấp nhận những con vật khác, không phải theo hình ảnh mà nó muốn, nhưng đúng với hình ảnh thật của chúng, nghĩa là có sừng, có gai và có đủ thứ khuyết điểm khác. Nó cũng thay đổi nhờ biết chấp nhận bản thân mình, không xấu hổ vì chiếc sừng của mình nữa và cũng không lo các con vật kia sẽ nghĩ sao về nó nữa.

Chúa Giêsu bảo chúng ta đừng mất công tìm trái vả nơi bụi gai, hay tìm trái nho nơi bụi rậm. Nơi cây nào thì tìm trái của cây ấy. Bài học này có thể áp dụng cho việc đánh giá về người khác và về chính bản thân mình. (FM)

* 6. Sửa đổi tính tình

Một thầy tu kia có khuynh hướng hay nổi giận. Khuynh hướng này khiến thầy trở thành một gánh nặng không những cho người khác mà còn cho cả bản thân thầy. Thầy tin rằng thầy chẳng tiến bộ chút nào trên đường nhân đức. Thầy nói rằng nhưng người khác khiến thầy phải thụt lùi vì cứ làm phiền thầy và luôn quấy rầy khi thầy cầu nguyện.

Vì thế thầy quyết định rời tu viện để vào rừng ẩn tu. Thầy nghĩ rằng đó là cách khỏi phải bị người khác làm phiền và nhờ đó mà bỏ được tính nóng giận. Thế là thầy dựng một căn lều trong rừng, chẳng mang theo gì khác ngoài một bình nước. Nhưng trong một lần bất cẩn, thầy làm đổ bình nước, nên phải trở về tu viện để lấy bình nước khác. Tuy nhiên khi trở về lều, thầy lại bất cẩn làm đổ nước nữa. Lại chịu khó lần nữa. Nhưng sự việc lại tái diễn lần thứ ba. Khi ấy cơn giận bốc lên ngùn ngụt. Thầy dập chiếc bình vỡ tan tành, rồi ngồi bẹp xuống đất, hoàn toàn thất vọng về bản thân mình.

Khi cơn giận nguội xuống, thầy bắt đầu suy nghĩ và nhận ra rằng cái tính nóng giận của Thầy không phải do nơi những thấy khác mà do chính bản thân mình. Tính xấu đó nằm ngay trong con người thầy, cho nên dù thầy đã vào tận trong rừng sâu, nó vẫn còn đi theo thầy.

Thế là Thầy quyết định trở lại tu viện, xin lỗi các thầy khác và hứa sẽ cố gắng sửa tính nóng.

Chẳng khó gì nhận ra chính chúng ta trong câu chuyện trên. Khi gặp một vấn đề trục trặc, chúng ta hay đổ lỗi cho người khác. Thế nhưng nguyên do những trục trặc của chúng ta nằm ngay nơi bản thân chúng ta chứ không nơi người khác. Vậy chúng ta phải lo sửa mình trước, rồi mới có thể sống hòa thuận với người khác được. (FM)

* 7. Chuyện minh họa

Một nhà đại thần bí Ấn độ nói về chính mình: “Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu nguyện với Chúa là: “Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để cải tạo thế giới”

Khi đến tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời qua đi mà không một tâm hồn nào được thay đổi. Tôi đổi lại lời cầu: “Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải tất cả những người tiếp xúc với con.

Bây giờ tôi đã già và gần kết thúc cuộc đời. tôi cảm thấy mình ngu dại biết bao. Lời câu nguyện của tôi bây giờ là: “Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải chính con”. Nếu tôi xin điều này ngay từ đầu, tôi đã không lãng phí cuộc đời”.

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi hết thảy mọi Kitô hữu hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời. Với ước muốn nên trọn lành, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin:

1. Hội thánh luôn cần những vị mục tử tài đức và thánh thiện để hướng dẫn Dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho Hội thánh nhiều vị mục tử khôn ngoan / sáng suốt và nhiệt tình trong đời sống mục vụ.

2. Ngày nay / tội ác diệt chủng vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa hoán cải con tim của người thời nay / để họ biết tránh xa tội ác / và nỗ lực làm nhiều việc thiện / nhờ đó nhân loại tránh được biết bao thảm họa đau lòng.

3. Trong cuộc sống thường ngày / có những người lúc nào cũng thích ngồi ghế thẩm phán / xét xử và kết án anh em mình cách vô trách nhiệm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn ý thức thân phận tội lỗi yếu đuối của mình / để đừng bao giờ lên án bất cứ ai.

4. Xét mình là một việc làm hết sức cần thiết trong đời sống đức tin của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mỗi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết trung thành xét mình mỗi ngày / để sửa chữa những thiếu sót lỗi lầm.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Chính anh em là muối cho đời và là ánh sáng cho trần gian. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con luôn giữ vững phẩm chất của người Kitô hữu chân chính. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

14. Suy niệm của NCK

Câu hỏi gợi ý:

1. Bạn là người đang có trách nhiệm hướng tinh thần hoặc tâm linh dẫn một số người, chẳng hạn những người trong gia đình bạn, con cái bạn, hay một tập thể lớn nhỏ nào đó. Bạn có ý thức rằng nếu bạn không đủ khôn ngoan sáng suốt thì bạn sẽ dẫn cả gia đình hay tập thể của bạn vào con đường sai lầm tai hại không? Bạn phải làm gì để tránh được tình trạng đó?

2. Có thể căn cứ vào lời nói của một người để biết người đó tốt hay xấu, ngay thẳng thật thà hay quanh co gian dối không? Kinh nghiệm cho bạn thấy thế nào về những người khéo nói, nói hay, nói giỏi?

3. Tại sao thấy lỗi của người thì dễ, mà thấy lỗi của mình thì khó? Bạn có thấy mình có khuynh hướng xấu ấy không? Làm sao để sửa?

Suy tư gợi ý:

1. Những người dẫn lối chỉ đường cần phải sáng mắt

Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?. Đức Giêsu đưa ra một chân lý liên quan đến việc hướng dẫn, lãnh đạo bằng một minh họa rất cụ thể. Về tinh thần hay tâm linh, người không đủ khôn ngoan sáng suốt về mặt này mà lại dẫn lối chỉ đường cho người khác đi, thì chỉ có nước làm hại người ta thôi. Làm hại người ta về mặt vật chất nhiều khi không tai hại bằng làm hại người ta về mặt tâm linh. Vì thế, những người đang có trách nhiệm hướng đạo về mặt tâm linh cần phải có khả năng đích thực, phải biết nhìn xa trông rộng, và nhất là phải có tình yêu rộng mở, có lòng nhiệt thành, và có một đời sống tốt đẹp phù hợp với những hiểu biết về tâm linh.

Những người hướng dẫn người khác về mặt tinh thần hay tâm linh, không những phải có những kiến thức đúng đắn và lành mạnh về tâm linh, mà còn phải có một đời sống tâm linh thật sự và sâu xa nữa. Thời nay, rất nhiều người hướng dẫn tâm linh quá chú trọng tới những kiến thức (về tâm linh, về đời sống tâm linh, về Thiên Chúa, về đạo đức, về những việc phải làm), nhưng lại quá ít chú trọng tới kinh nghiệm đích thực về tâm linh, không chủ yếu giúp người khác cảm nghiệm về Thiên Chúa, có tương quan thật sự cá nhân với Ngài. Người được họ hướng dẫn nhận thấy họ nói quá nhiều và quá hay so với thực tế họ sống và cảm nghiệm được. Họ quên rằng đời sống nội tâm của người hướng dẫn về tâm linh có sâu xa thì mới có khả năng hấp dẫn và lôi cuốn người khác đi vào con đường ấy. Lời nói hay chỉ có tác động thoảng qua, còn gương sống mới có tác dụng lôi cuốn đích thực. Người hướng dẫn sáng suốt là người giúp người khác sống được, thực hành được, chứ không phải chỉ giúp họ hiểu rõ hay hiểu đúng mà thôi.

2. Căn cứ vào hành động mà biết được con người

Ngày nay, người ta chán ngán nhiều người trong xã hội cũng như trong Giáo Hội nói quá hay mà làm chẳng ra làm sao. Nhiều từ ngữ, nhiều tuyên bố kiểu dao to búa lớn, nghe rất kêu nhưng nội dung rỗng tuếch được lập đi lập lại hằng ngày trên các đài phát thanh, trên tivi, trên các chương trình quảng cáo, trên các bài giảng, bài báo, trong các mẩu đối thoại, những cuộc nói chuyện, v.v. Nhiều người lầm tưởng những người nói hay như vậy, là những người tốt. Nhưng Đức Kitô đã đưa ra cho chúng ta một nguyên tắc rất thực tiễn để biết được ai tốt ai xấu: Cứ xem quả thì biết cây. Để biết một người là tốt hay xấu, phải nhìn vào hành động của họ, chứ không chỉ nghe lời họ nói. Lời nói hay chỉ có thể chứng minh được sự thông minh và lanh lợi, khả năng suy nghĩ sâu xa hay nông cạn của người đó, chứ không nói lên được tính đạo đức, tình yêu thương, sự quảng đại, cao thượng, ngay thẳng, trong sáng, can đảm của họ.

Kinh nghiệm đời thường cho thấy người càng hô hào cổ vũ bằng miệng nhiều, càng tuyên bố nảy lửa, giật gân, hùng hồn, thì càng ít hướng về hành động. Nghĩa là càng nói nhiều thì càng làm ít.

Kitô giáo – cũng như linh hạnh Khôi Bình – là một đường lối sống, là một con đường hành động, chứ không phải là một lý thuyết để học hỏi, để bàn luận, tranh cãi. Đặc tính của Kitô giáo – cũng như linh hạnh Khôi Bình – là nghiêng về hành động, hay hướng về hành động. Lý thuyết tuy rất cần thiết, nhưng chỉ là phương tiện để đi đến hành động. Lý thuyết mà không đi đến hành động chỉ là lý thuyết xuông, vô giá trị. Thế giới được biến đổi nên tốt đẹp hơn là nhờ những con người hướng đến hành động hơn là những con người lý thuyết.

Vì thế, mỗi Kitô hữu, mỗi thành viên Khôi Bình, muốn sống đúng lý tưởng hay bản chất của mình, thì phải tự phấn đấu để trở nên một con người của hành động. Nghĩa là phải biến tất cả những điều mình chủ trương thành thực tế, phải biến Tin Mừng của Chúa Kitô thành hành động cụ thể. Tuyệt đối tránh tình trạng nói mà không làm, hay nói nhiều mà làm ít. Tốt nhất người Kitô hữu hay thành viên Khôi Bình nên nói ít mà làm nhiều. Làm cho bằng được rồi mới nói mới khuyên. Chưa làm được thì chưa nói gì, chưa khuyên ai.

3. Tự sửa mình nhiều hơn sửa người khác

Người chủ trương làm nhiều hơn nói, tự nhiên sẽ quan tâm tới hành động của mình hơn là xét nét hành động của người khác. Họ sẽ tự xét xem hành động của mình còn thiếu sót chỗ nào, cần phải sửa chỗ nào. Họ nhận thấy sửa chính bản thân mình thì dễ thực hiện vì điều ấy tùy thuộc vào chính mình, do mình làm chủ, nên hễ mình muốn sửa là sửa được. Còn sửa lỗi người khác thì khó hơn rất nhiều vì điều ấy không tùy thuộc vào mình, không do mình làm chủ. Vả lại, họ muốn chính mình nên thánh trước đã. Mình đã là thánh rồi thì cảm hóa hay sửa chữa người khác sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Nếu bản thân mình còn đầy khiếm khuyết, thì mình sửa sang ai được? Người ta sẽ bảo Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy mình đã, đừng làm theo kiểu Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người.

Đức Kitô muốn chúng ta – những Kitô hữu, hay những thành viên Khôi Bình – hãy tự xét lỗi chính bản thân mình đã, chứ đừng vội xét lỗi người khác. Thường thì ta dễ thấy những lầm lỗi của người khác, cho dù lầm lỗi ấy rất nhỏ. Còn những lầm lỗi của chính mình thì mình lại không thấy, cho dù rất lớn. Nếu một tập thể hay một gia đình mà trong đó ai cũng đều có tính chỉ nhìn thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi của chính mình thì đời sống chung sẽ rất khó chịu. Khi chỉ thấy lỗi của người khác, thì mình sẽ dễ dàng trách móc, bực bội, hờn giận người khác, và sẽ thấy thật đau khổ khi phải sống chung với những người ấy.

Đây là một khuynh hướng chung trong tâm lý mọi người. Nếu chúng ta không ý thức và phản tỉnh, hay nói theo từ của Tin Mừng là không tỉnh thức, thì chúng ta khó lòng thoát khỏi tật xấu đó. Rất có thể ta đang có tật đó mà không biết, hoặc tưởng là không có. Chính tôi – người viết bài này – nhận thấy nhiều người chung quanh mình được coi là loại khá phản tỉnh mà cũng mắc phải tật này. Và biết đâu người khác nhìn vào tôi cũng thấy tôi có tật như vậy, đang khi chính tôi lại tưởng mình không hề có tật ấy!? Phải xét mình thường xuyên ta mới tránh được tật xấu này.

Nguyện:

Lạy Cha, xin cho con nhận ra những lầm lỗi của con, chứ không phải thấy lỗi của người khác. Thấy được lầm lỗi của mình thì có lợi hơn thấy lầm lỗi kẻ khác. Nhờ đó mà khiêm nhượng hơn, dễ sống với người khác hơn. Xin cho con đủ thành thật và khiêm nhượng để thấy được lỗi của chính mình. Amen.

Vào thời xa xưa, trước khi con người phát sinh ra các phương tiện phát thanh vá phát hình, tại một làng quê nọ có một thân viên nhà nước có bổn phận coi điện và phải trả lời cho những ai trong làng gọi đến muốn biết lúc đó là mấy giờ. Anh nhân viên này luôn luôn cho biết giờ giấc m cách xác tín, vì hằng ngày anh thường có thói quen kiểm soát lại đồng hồ và gờ giấc dựa theo tiếng còi hú gần nhấ của xưởng thợ duy nhất nhất gần đó. Nhưng một hôm đồng hồ của anh bị ngưng bất ngờ và có người gọi điện thoại đến hỏi xem là mấy giờ. Anh nhân viên trả lời rằng: anh đang chờ tiếng còi hú ở xưởng thợ gận bên để điều chỉnh lại đồng hồ, vì anh có thói quen canh giờ và điều chỉnh đồng hồ theo tiếng còi hú của xưởng thợ. Sau một lúc thinh lặng, người hỏi giờ trả lời: tôi là người có trách nhiệm kéo còi hú tại xưởng thợ đây và mỗi ngày tôi đều gọi anh để biết đúng giờ mà kéo còi hú. Vòng luẩn quẩn trên rất thường xảy ra trong cuộc sống và có lẽ trong chúng ta đôi khi có những người đã từng là nạn nhân bị cuốn vào trong cái vòng luẩn quẩn này, đó là trường hợp người mù dẫn người mù mà Chúa Giêsu nói đến trong phúc âm hôm này “thử hỏi người mù có thể dẫn người mù được không? Cả hai không sa xuống hố ứ?”. Trên bình diện thiêng liêng và luân lý khi phải phân biệt giữa điều nào tốt, điều nào xấu thì có những kẻ không biết phân biệt điều nào tốt hoặc xấu, nhưng họ dám lên tiếng góp ý, nếu không muốn nói là ra lệnh về việc tốt xấu, đó là trường hợp người mù dẫn người mù. Chúng ta cần tiến bước theo Đấng là ánh sáng thế gian “Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không bước đi trong tối tăm”. Chúng ta không lo chữa trị chính sự mùa lòa của tinh thần mà lại muốn làm tài khôn lo đi chữa lành sự mù lòa tinh thần của anh em. Chúa Giêsu dạy tiếp như sau: “Sao người nhìn thấy cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong mắt ngươi, người lại không thấy”. Mỗi người cần khiêm tốn đến với Chúa Giêsu, Đấng là Ánh Sáng có quyền trao ban ánh sáng cho chúng ta, có quyền giải thoát chúng ta khỏi tối tăm, khỏi những tật xấu làm lu mờ khả năng phán đoán và che khuất ý nghĩa cùng đích của đời sống con người. “Môn đệ không hơn Thầy”, đó là một chân lý mà Chúa Giêsu đã nói với mỗi người môn đệ muốn đi theo Chúa, vì thế mà chúng ta không thể khôn hơn, cao trọng hơn thầy chúng ta là được như Thầy mình là Chúa Giêsu, nghĩa là được chia sẻ sự sống và sự khôn ngoan của Ngài mỗi ngày một giống Chúa hơn. Đời sống Đức tin đòi môn đệ Chúa phải cố gắng liên lỉ để thanh luyện chính mình luôn mãi và chỉ có khi nào chúng ta thực hiện được điều này cho chính mình, thì chúng ta mới có thể trở thành hữu ích cho anh em, có thể iup anh em nhìn thấy Chúa và chấp nhận những mặc khải. Nếu chúng ta không sống theo ý Chúa, không canh tân chính mình theo giáo huấn của Ngài mà lại cả gan lên tiếng chỉ dạy anh em, thì quả thật chúng ta đáng Chúa trách là kẻ giả hình, là kẻ mù muốn dắt người mù.

16. Tốt xấu

Câu truyện cổ tích kể: một hôm con cọp thấy con trâu bị con người bắt kéo cầy. Cọp bảo trâu: mày to lớn khỏe mạnh thế, sao để thẳng người nhỏ bé bắt mày kéo cầy cực khổ vậy? Trâu đáp: nó nhỏ nhưng trí khôn nó lớn. Cọp hỏi người: trí khôn mày đâu cho tao xem? Người nói: Trí khôn tao để ở nhà, mày muốn xem, tao sẽ về nhà lấy cho xem, nhưng phải để tao trói mày lại, kẻo mày ăn thịt trâu tao. Cọp vui vẻ để người trói. Trói xong, bác nông phu vác cầy đập cọp, vừa đập vừa nói: trí khôn tao đây, trí khôn tao đây. Câu chuyện nói lên người hơn vật ở trí khôn, ở hiểu biết. Hiểu biết rất quan trọng, quan trọng nhất là biết nhận rõ tốt xâu, phải trái, đúng sai, hay dở, thật giả, thiện ác.

Mù mà Đức Giêsu nói ở đây, không phải là mù mắt, nhưng mù về trí khôn. Trí khôn mù về đạo đức, đạo lý, tâm linh, thiêng liêng. Những thứ mù này tai hại gấp bội mù thể xác. Mù mắt chỉ làm khổ người mắc bệnh và mấy người thân thuộc. Mù về trí thức khoa học cũng chỉ gây chậm tiến, lạc hậu. Còn mù đạo đức, đạo lý đã gây ra bao nhiêu tai họa khủng khiếp cho gia đình, quốc gia và cả thế giới. Một ông bố xí ke, nhiễm Sida lây lan cho vơ con và di truyền cho cả dòng giống, có khi cả làng nước. Một Hít-le đã chôn vùi cả thế giới trong chiến tranh tàn khốc.

Một giáo phái, một lý thuyết vô luân mù quáng lôi cuốn bao nhiêu thế hệ cuồng nhiệt xuống hố tiêu diệt lẫn nhau. Đó là những cây xấu, sinh trái xấu. Trái lại, một ông bố lành mạnh, sáng suốt, đạo đức phúc cho con cháu đến bao nhiêu đời. Một Đức Khổng, một Đức Phật đã giáo hóa hàng ngàn thế hệ tốt lành. Đó là những cây tốt sinh trái tốt.

Điều cốt yếu của lời Chúa hôm nay là đưa ra những bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần, làm thế nào để biết nhận rõ tốt xẫu đê nên tốt và sửa xấu.

Theo tin mừng, bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần là:

Thứ nhất: là bài thuốc chữa bệnh kiêu ngạo. Trò tự phụ hơn thầy là thứ trò hỗn láo kiêu ngạo. Muốn học giỏi trò phải biết khiêm tốn. Người xưa khiêm tốn đến độ học được một chữ hay nửa chữ cùng đáng là thầy mình: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Cả khi gặp nhau đi đường cũng nhận ra người tốt là thầy mình, người xấu là bạn mình: “Ba người đồng hành, người tốt là thầy tôi, người xấu là bạn tôi”.

Thứ hai là bài thuốc chữa bệnh chủ quan, ta thường thấy cái xấu của người khác nhưng lại mù quáng không thấy mình xấu: không thấy cái xà trong mắt mình, nhưng lại thấy cái rác, cái bụi trong mắt người. Mù quáng là do tính tự ái: yêu mình quá nên dù “trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”, do ích kỷ lo kiếm lợi cho mình, nhận lỗi sẽ làm hại danh dự mình. Mù quáng cn d tính kiêu căng, tự cao tự đại che đậy trí khôn, không nhận ra tội mình. Có kẻ bao nhiêu năm không xưng tội, vợ giục đi xưng tội, chồng nói: có tội đâu mà xưng. Trong khi đức Piô X, ngày nào cũng xưng tội vì Ngài thấy rõ tí bụi bay vò mắt mình.

Thứ ba là bài thuốc xét mình: phải luôn kiểm tra kết quả lời nói, việc làm của mình tốt hay xấu: “Cây tốt sinh trái tốt, cây xấu sinhra trái xấu”. Nha buôn phải tính sổ hằng ngày để biết mình lỗ hay lời. Lỗ phải tìm cách sửa lại, lời phải duy trì lâu dài. Mạng sống đời đời của chúng ta còn quý giá gấp triệu lần lời lãi thế gian, như Đức Giêsu đã dậy: “Được lời lãi cả thế gian mất mạng sống mình nào được ích gì”. Chỉ lời lãi nhỏ thế gian, nhà buôn còn phải lo tính sổ hằng ngày, huống chi mạng sốntg đời đời của chúng ta lớn lao quan trọng vô cùng, sao chúng ta không lo xét mình, kiểm tra đời sống của mình: còn hay mất, lời hay lỗ.

17. Đồng hành với Chúa

Chàng thanh niên trong một họ đạo kia có một lối sống khô khan: hững hờ với Chúa, không tha thiết với những công việc giữ đạo và sống đạo… Một hôm, gặp một linh mục, anh nói: Thưa cha, dầu sao đi nữa thì đời sống cũng vất đi! Vị Linh mục: Tại sao anh nói như vậy? Chành thanh niên: bởi vì sống chính là để chết đi! chết là hết chuyện! Vị linh mục: cha tin rằng con có lý. Sống là để chết đi. Hay đúng hơn là cho đi. Nhưng sống còn là để yêu. Nếu ta dâng hiến đời sống của ta cho những người mình yêu thì cao quí biết bao! Đúng vậy, sống là để yêu. Người ta có thể sống thiếu của cải vật chất, nhưng không thể sống thiếu tình yêu: hoa quả của tình yêu là sư hy sinh. Hy sinh càng nhiều, tình yêu càng tràn đầy. “ không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của kẻ thí mạng sống vì người mình yêu”. Chúa Giêsu đã dạy thế, và Chúa đã minh chứng bằng cái chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Chúa nhật này, chúng ta được nghe tiếng kêu hy vọng của thánh Phaolô: “Hỡi tử thần, chiến thắng của ngươi ở đâu? Hỡi tử thần, nọc độc của ngươi ở đâu?” Chính vì thế, thánh phaolô trấn an chúng ta: “Anh em hãy ăn ở bền đỗ và không nao núng, hãy luôn luôn thăng tiến trong công trình của Chúa. Hãy biết rằng công lao khó nhọc của anh em không phải uổng phí trong Chúa. Nói cách khác, chúng ta phải giữ vững đức tin. Vây, tin vào Chúa, mặc dầu có buồn đau, bệnh tật, chết chóc! Tin vào Chúa mặc dầu thế gian có những thủ đoạn lừa đảo, là những tay chân của thần chết là tội lỗi. Bạn chưa xác tín ư? Điều này không có gì lạ cả. Pascal nói: “Phải biết nghi ngờ đúng, phải biết tin tưởng đúng “. Thánh Tôma tông đồ đã nghi ngờ Chúa sống lại và đã xác tín Chúa sống lại. Như thánh Tôma tông đồ, người Kitô hữu không tin một cách mơ hồ, không tin nhảm nhí, mà là những người biết tin tưởng chắc chắn.

Đức tin công giáo, trước hết không phải là sự hiểu biết, mặc dầu một số cha mẹ vẫn nghĩ như vậy khi cho con đi học giáo lý. Đức tin công giáo không phải là sự khôn ngoan mặc dầu một số tín hữu chỉ biết giữ đạo theo nguyên tắc mà quên đi dự uyển chueỷn của cuộc sống. Đức tin công giáo cúng không phải là một tôn giáo, mặc dầu một số tín hữu đóng khung việc sống bí tích rửa tội trong một số nghi lễ phải giữ. Đức tin công giáo chính là sự tiếp đón, đón tiếp Thiên Chúa, là nhận biết sự hiện diện sống động và mầu nhiệm của Thiên Chúa ở giữa loài người. Đức tin chính là chấp nhận Thiên Chúa đồng hành, để Ngài ban cho ta sự sống của Người.

Chúa nhật này, chúng ta được mời gọi chuẩn bị tâm hồn bước vào mùa Chay. Mùa Chay là mùa bước theo Chúa trên đường khổ nạn để cùng Ngài sống lại vinh quang. Cuộc sống này đã được bắt đầu ngay từ đời này, ngay tại đây. Nó liên hệ tới sự đòi buộc của Phúc Âm hôm nay. “Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu… Cứ xem quả thì biết cây”.

18. Đừng lên mặt

Hẳn Chúa Giêsu đã mỉm cười khi vẽ ra bức họa về một người có cây xà trong mắt mình mà cứ gắng moi một mảnh bụi nhỏ ra khỏi mắt kẻ khác. Chúa Giêsu dạy rằng chúng ta không có quyền phê bình khi chúng ta còn khuyết điểm. Điều này có nghĩa là chúng ta không có quyền đoán xét gì cả, bởi vì “có nhiều điều xấu trong những người tốt nhất, có điều tốt nhất trong những người xấu nhất. Giữa chúng ta, đến nỗi ai trong chúng ta cũng phải xấu hổ khi muốn nói tội kẻ khác.”

Một em gái nhỏ vâng lời bà nội bảo đi quét nhà. Quét xong, bé đến thưa bà là mình đã qué sạch rồi. Bà nội hỏi lại: “Có thật quét xong chưa? để bà xem lại.” Nói rồi bà cụ đứng dậy xem khắp nhà. Xem một lượt, bà nói với đứa cháu gái: “Nhà chưa sạch gì cả, chỗ nào cũng đầy bụi. Con quét lại đi!” cô gái nhỏ vâng lời quét thêm một lần nữa, lần này bé quét thật kỹ. Quét xong liền đến trình cho bà nội. Cũng như lần trước, bà cụ xem qua một lượt rồi nói: “Nhà cũng chưa sạch gì cả, chỗ nào cũng đầy bụi. Sao quét dối vậy? Quét lại đi! Cô gái nghĩ rằng mình còn nhỏ quét chưa sạch được, nên cố vâng lời nội đi quét lần nữa. Quét xong, nó cũng đến trình cho nội. Lần này cũng như hai lần trước, bà cụ xem xong lại nói là nhà chưa sạch. Cô gái lấy làm lạ kỳ. Cuối cùng nó phát hiện ra là bà cụ mang cặp kính dính đầy bụi. Thì ra, vì vậy mà bà cụ nhìn đâu cũng thấy toàn là bụi cả. Chỉ có cắp mắt trong sáng, tấm lòng trong sạch mới có thể nhìn thấy sự thực.

Để phân biệt cây tốt xấu phải căn cứ vào quả – công việc – chứ không phải lá – lời nói “vì có nhiều người chỉ tìm thấy lá khi đến gần. Nào là lá to, lá rậm, lá bóng…lá, chỉ có lá, ngoài ra không có gì khác! nhiều người chạy đến chúng ta nói hy vọng tìm được giải khát, họ đang khát mong Thiên Chúa. Chúng ta đừng quên rằng chúng ta đang có trong tay tất cả những điều ấy. Chúng ta có đầy đủ giáo lý, với ơn Chúa, mặc dầu chúng ta không xứng đáng”.

Có người đã nói với một giáo sư rằng: “ tôi không thể nghe lời ông nói vì đã được thấy con người của ông rồi. “ Giảng và dạy, cả hai đều là sự thật qua nhân cách. Lời hay không bao giờ thay thế được việc tốt.

Một nhà chế tạo làm được một con ong, cũng vỗ cánh bay được, cũng kêu vo vo, người đứng xem không tài nào biết được ong giả cho tới khi hỏi rằng: “Nó có làm ra mật không?” Chỉ một sự thí nghiệm đơn sơ ấy đủ phân biệt ong thật với ong giả. Cứ xem quả thì biết cây. Khi có ai khoa khoang về đời sống đạo của họ, chỉ cần hỏi như thánh Phaolô: “Thế thì anh em được kết quả gì?” Con đường duy nhất để chứng tỏ Kitô giáo là đạo thật là chúng ta phải sống thế nào cho mọi người thấy Kitô giáo sản sinh ra những người tốt thật.

19. Biết rõ tốt xấu – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Câu truyện cổ tích kể: Một hôm con cọp thấy con trâu bị con người bắt kéo cầy. Cọp bảo trâu: Mày to lớn khỏe mạnh thế, sao để thằng người nhỏ bé bắt mày kéo cầy cực khổ vậy? Trâu đáp: nó nhỏ nhưng trí khôn nó lớn. Cọp hỏi người: Trí khôn mày đâu cho tao xem? Người nói: Trí khôn tao để ở nhà, mày muốn xem, tao sẽ về nhà lấy cho xem, nhưng phải để tao trói mày lại, kẻo mày ăn thịt trâu tao. Cọp vui vẻ để người trói. Trói xong, bác nông phu vác cầy đập cọp, vừa đập vừa nói: trí khôn tao đây, trí khôn tao đây. Câu truyện nói lên người hơn vật ở trí khôn, ở hiểu biết. Hiểu biết rất quan trọng, quan trọng nhất là biết nhận rõ tốt xấu, phải trái, đúng sai, hay dở, thật giả, thiện ác.

Tin Mừng nói: “mù dắt mù xuống hố”. Linh mục Thomas Carroll đã viết một cuốn sách được bác sĩ Chi Lan phiên dịch, nói lên những cực khổ của người mù rất tội nghiệp. Con mắt đã chết, làm chết luôn nhân cách, chết năng khiếu, chết nhận thức, chết hoạt động, chết giao tiếp với mọi người, mọi cảnh vật, cuộc đời thật tăm tối và như mất tất cả.

Mù mà Đức Giêsu nói ở đây, không phải là mù mắt, nhưng mù về trí khôn. Trí khôn mù về đạo đức, đạo lý, tâm linh, thiêng liêng. Những thứ mù này tai hại gấp bội mù thể xác. Mù mắt chỉ làm khổ người mắc bệnh và mấy người thân thuộc. Mù về trí thức khoa học cũng chỉ gây chậm tiến, lạc hậu. Còn mù đạo đức, đạo lý đã gây ra bao nhiêu tai họa khủng khiếp cho gia đình, quốc gia và cả thế giới. Một ông bố xì ke, nhiễm Sida lây lan cho vợ con và di truyền cho cả dòng giống, có khi cả làng nước. Một Hít-le đã chôn vùi cả thế giới trong chiến tranh tàn khốc.

Một giáo phái, một lý thuyết vô luân mù quáng lôi cuốn bao nhiêu thế hệ cuồng nhiệt xuống hố tiêu diệt lẫn nhau. Đó là những cây xấu, sinh trái xấu. Trái lại, một ông bố lành mạnh, sáng suốt, đạo đức để phúc cho con cháu đến bao nhiêu đời. Một Đức Khổng, một Đức Phật đã giáo hóa hàng ngàn thế hệ tốt lành. Đó là những cây tốt sinh trái tốt.

Điều cốt yếu của lời Chúa hôm nay là đưa ra những bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần, làm thế nào để biết nhận rõ tốt xấu để nên tốt và sửa xấu.

Theo Tin Mừng, bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần là:

Thứ nhất: Phải khiêm tốn để chữa bệnh kiêu ngạo. Trò tự phụ hơn thầy là thứ trò hỗn láo kiêu ngạo. Muốn học giỏi trò phải biết khiêm tốn. Người xưa khiêm tốn đến độ học được một chữ hay nửa chữ cũng đáng là thầy mình: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Cả khi gặp nhau đi đường cũng nhận ra người tốt là thầy mình, người xấu là bạn mình: “Ba người đồng hành, người tốt là thầy tôi, người xấu là bạn tôi”. Kinh Dịch là sách triết lý lớn nhất của Đông phương đã đặc biệt đề cao đức khiêm nhu của người quân tử: Khiêm là đạo trời, đạo đất và đạo người. Người quân tử khiêm nhu sẽ vượt mọi sông lớn, mọi đại họa: “Khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên”. Việc làm khiêm tốn của quân tử sẽ nuôi được vạn dân: “Lao khiêm quân tử, vạn dân phục chi” (Quẻ khiêm). Quân tử là bậc thầy, bậc con trời đã phải khiêm tốn, thì trò là môn đệ cần phải hạ mình xuống hết mức.

Thứ hai là bài thuốc chữa bệnh chủ quan, ta thường thấy cái xấu của người khác nhưng lại mù quáng không thấy mình xấu: Không thấy cái xà trong mắt mình, nhưng lại thấy cái rác, cái bụi trong mắt người. Mù quáng là do tính tự ái: Yêu mình quá nên dù “trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”, do ích kỷ lo kiếm lợi cho mình, nhận lỗi sẽ làm hại danh dự mình. Mù quáng còn do tính kiêu căng, tự cao tự đại che đậy trí khôn, không nhận ra tội mình. Có kẻ bao nhiêu năm không xưng tội, vợ giục đi xưng tội, chồng nói: Có tội đâu mà xưng. Trong khi Đức Piô X, một vị thánh Giáo Hoàng đầu tiên thế kỷ XX, ngày nào cũng xưng tội vì Ngài thấy rõ tí bụi bay vào mắt mình.

Thứ ba là bài thuốc xét mình: phải luôn luôn kiểm tra kết quả lời nói, việc làm của mình tốt hay xấu: “Cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh ra trái xấu”. Nhà buôn phải tính sổ hằng ngày để biết mình lỗ hay lời. Lỗ phải tìm cách sửa lại, lời phải duy trì lâu dài. Mạng sống đời đời của chúng ta còn quý giá gấp triệu triệu lần lời lãi thế gian, như Đức Giêsu đã dậy: “Được lời lãi cả thế gian mất mạng sống mình nào được ích gì”. Chỉ lời lãi nhỏ thế gian, nhà buôn còn phải lo tính sổ hằng ngày, huống chi mạng sống đời đời của chúng ta lớn lao quan trọng vô cùng, sao chúng ta không lo xét mình, kiểm tra đời sống của mình: còn hay mất, lời hay lỗ.

Bài đọc I nhắc nhở chúng ta phải cố gắng kiên trì sàng lọc mình cho sạch thói xấu; phải nhiệt tâm đốt mình khỏi mọi bợn nhơ dỉ ghét như lò lửa nung luyện bình sứ, dầu phải gian nan cực khổ đến đâu cũng phải chiến thắng tử thần để nên người công chính bất tử. Lúc đó con người “xác thịt hay chết của ta mới mặc lấy sự trường sinh nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Bài II).

20. Lấy rác, lấy xà

Suy Niệm

Biết mình là chuyện không dễ.

Ở một đền thờ bên Hy Lạp có khắc câu: Hãy biết mình.

Chẳng ai gần gũi với mình bằng chính bản thân mình.

Vậy mà tôi vẫn là một bí ẩn đối với tôi.

Người ta thích làm những bản trắc nghiệm

để biết về chỉ số thông minh, về tâm lý, tính tình…

Nhưng để biết mình cần trắc nghiệm bằng cả cuộc đời.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu nói về chuyện thấy mình.

Ngài dùng lối ngoa ngữ để dạy dỗ môn đệ.

Tôi không thấy cái xà trong mắt mình,

nghĩa là không nhận ra nơi tôi một khuyết điểm trầm trọng

mà ai ai cũng thấy, trừ chính tôi.

(Tôi không thể thấy hay tôi không muốn thấy!)

Nhưng tôi lại thấy cái rác nhỏ trong mắt anh em.

Dường như thấy cái rác nhỏ nơi mắt người khác

dễ hơn là thấy cái xà nơi mắt mình.

Phải chăng vì đứng gần mình quá nên tôi không thấy rõ,

hay vì tôi vẫn coi mình là hoàn hảo

nên khó chấp nhận những thiếu sót nơi mình?

Ðể thấy mình, cần khiêm tốn hỏi và nghe người khác.

Anh em tôi biết về tôi hơn tôi biết tôi.

“Hãy để tôi lấy cái rác trong mắt anh.

Tôi vẫn thường nói như vậy và làm như vậy.

Hăng hái, vội vã giúp người khác sửa mình,

sửa cả những chuyện chẳng đáng gì.

Ðức Giêsu không cấm ta góp ý cho người khác,

nhưng Ngài dặn ta trước hết hãy lấy xà khỏi mắt mình,

để thấy rõ mà lấy rác nơi mắt anh em.

Bao dung hơn với tha nhân,

và nghiêm khắc hơn với chính mình.

Không coi cái xà của mình nhỏ hơn cái rác của anh em.

Không thổi phồng tội người khác, không thu nhỏ lỗi của mình.

Khiêm tốn sửa mình trước khi góp ý cho tha nhân.

Ðức Giêsu còn cho ta những nguyên tắc nhận định.

Nguyên tắc thứ nhất: xem quả thì biết cây.

Bụi gai không sinh trái vả, bụi rậm không sinh trái nho.

Nhìn hậu quả, ta biết được nguồn gốc, nguyên nhân.

Ðể khỏi bị lừa, hãy để ý đến hậu quả cuối cùng:

quả tốt do cây tốt, quả xấu do cây xấu.

Lắm khi ma quỷ giả dạng thiên thần sáng láng,

lừa phỉnh dụ dỗ, cho ta trái thơm ngon.

Nhưng cuối cùng trái ngon lại là trái độc.

Cần có thời gian lâu dài và theo dõi kỹ lưỡng

ta mới thấy ma quỷ lòi đuôi xấu xa của nó.

Nguyên tắc thứ hai: lòng có đầy, miệng mới nói ra.

Lời nói là hoa quả của lòng dạ con người.

Những lời giả dối sớm muộn cũng sẽ bại lộ.

Nếu chúng ta được Chúa biến đổi cái tâm của mình,

hẳn toàn bộ đời sống bên ngoài của ta cũng đổi.

Nhưng đổi bên ngoài cũng ảnh hưởng đến bên trong.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn hiểu rõ về “cái xà” trong mắt bạn không? Nhờ đâu mà bạn biết được “cái xà” này?

Bạn có kinh nghiệm gì về việc “xem quả thì biết cây” và “lòng có đầy, miệng mới nói ra”?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,

xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng

trước mọi biến cố của cuộc sống,

khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,

hay gặp sự bất trung, bất tín

nơi những người con tin tưởng cậy dựa.

Xin giúp con gạt mình sang một bên

để nghĩ đến hạnh phúc người khác,

giấu đi những nỗi phiền muộn của mình

để tránh cho người khác phải đau khổ.

Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,

để đau khổ làm con thêm mềm mại,

chứ không cứng cỏi hay cay đắng,

làm con nhẫn nại chứ không bực bội,

làm con rộng lòng tha thứ,

chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.

Ước gì không ai sút kém đi

vì chịu ảnh hưởng của con,

Không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,

lòng cao thượng, tử tế,

chỉ vì đã là bạn đồng hành của con

trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.

Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,

xin cho con có lúc thì thầm với Chúa một lời yêu thương.

Ước gì đời con là cuộc đời siêu nhiên,

tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,

và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.

(dịch theo Learning Christ)


NỖI NHỚ CỰU CHIẾN BINH – TỐP CA NAM NỮ CCB THÀNH PHỐ HP


Trong chương trình ca nhạc kỷ niệm 70 năm ngày Thương Binh Liệt Sỹ của phường Lãm Hà Quận Kiến An . Quay phim Mạnh Thắng ĐT 077 372 0333

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kỹ Năng Sống
Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kỹ Năng Sống

Related Articles

Back to top button