1 khái niệm và đặc trưng của văn bản
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 144 trang )
G. Brown và G. Jule dùng từ “văn bản” nhƣ là một thuật ngữ khoa học để
chỉ dữ liệu ngôn từ của một hành vi giao tiếp [5, 22], và coi văn bản là biểu hiện
của diễn ngôn.
D. Nunan khi nghiên cứu về phân tích diễn ngôn và phân biệt diễn ngôn
với văn bản đã đƣa ra quan điểm về thuật ngữ “văn bản” dùng để chỉ bất kì cái
nào ghi bằng chữ viết của một sự kiện giao tiếp. Theo ông, văn bản (text) là
phần ghi ở dạng viết của một sự kiện giao tiếp, truyền đạt một thông điệp hoàn
chỉnh. Sự kiện giao tiếp tự nó có thể liên quan đến ngôn ngữ nói (ví dụ: một bài
thuyết giáo, một cuộc giao dịch mua bán…) hoặc ngôn ngữ viết (ví dụ: một bài
thơ, một quảng cáo trên báo, một bản kê các thứ mua sắm, một tiểu thuyết…).
Văn bản biến đổi từ những từ đơn đến những quyển sách kéo dài vài trăm trang.
[22, 21]Mak Halliday quan niệm văn bản là sản phẩm của ngôn bản. Ngôn bản là
một cái gì đó xảy ra, dƣới hình thức nói hoặc viết, nghe hoặc đọc. Khi tiến hành
phân tích ngôn bản thì ngƣời ta phân tích sản phẩm của quá trình ấy; và thuật
ngữ “văn bản” (text) thƣờng đƣợc cho là chỉ sản phẩm – đặc biệt là sản phẩm
trong hình thức viết văn, bởi vì đây là một vật thể có thể tri giác dễ dàng nhất.
[12, 496]. Tƣơng tự với cách nói này, Halliday còn cho rằng: Từ “văn bản” đƣợcdùng trong ngôn ngữ học để chỉ một đoạn nào đó, đƣợc nói ra hay đƣợc viết ra,
có độ dài bất kì, tạo lập đƣợc một tổng thể hợp nhất (dẫn theo Diệp Quang Ban
[4, 38])Một quan niệm khác về văn bản vừa có tính khái quát cao vừa có tính
hiện đại, có tầm rộng đƣợc giải thích cụ thể trong cuốn Bách khoa thƣ ngôn ngữ
và ngôn ngữ học. Văn bản: 1. Một quãng viết hay phát ngôn, lớn hoặc nhỏ, mà
do cấu trúc, đề tài – chủ đề … của nó hình thành nên một đơn vị, loại nhƣ một
truyện kể, một bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đƣờng… 2. Văn học. Trƣớc
hết đƣợc coi nhƣ một tài liệu viết, thƣờng đồng nghĩa với sách, […] 3. Phân tích
diễn ngôn, đôi khi đƣợc đánh đồng với ngôn ngữ viết, còn diễn ngôn thì đƣợc
dành cho ngôn ngữ nói, hoặc diễn ngôn đƣợc dùng bao gồm cả văn bản. (dẫn
theo Diệp Quang Ban, trong “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt”)
11
Đó là những quan niệm về văn bản, diễn ngôn của các nhà nghiên cứu
trên thế giới. Ở Việt Nam, các quan niệm về văn bản là sự kế thừa những quan
niệm, nghiên cứu đã có trên thế giới, đồng thời phát triển trên cơ sở nghiên cứu
những đặc thù riêng của văn bản tiếng Việt.
Đinh Trọng Lạc quan niệm: Văn bản với tƣ cách là sản phẩm của hoạt
động lời nói, với tƣ cách là tác phẩm lời nói không phải là một chuỗi câu hoặc
đoạn văn đƣợc tạo lập ra một cách tuỳ tiện, mà là một thể thống nhất toàn vẹn
đƣợc xây dựng theo những quy tắc nhất định. [18, 7]
Phỏng theo định nghĩa trong cuốn từ điển bách khoa của Liên Xô này,
Diệp Quang Ban đã đƣa ra một định nghĩa ngắn gọn hơn, dễ hiểu hơn về văn
bản: “Văn bản là một loại đơn vị đƣợc làm thành từ một khúc đoạn lời miệng
hay lời viết, hoặc lớn hoặc nhỏ, có cấu trúc, có đề tài… loại nhƣ một truyện kể,
một bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đƣờng…” [4, 37].
Các quan niệm của các tác giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc trên
đây đã đề cập tới cả văn bản và diễn ngôn, phân biệt việc sử dụng thuật ngữ
“văn bản” và “diễn ngôn”, đồng thời, coi đó là một trong những tiêu chí nhận
diện các giai đoạn phát triển của ngôn ngữ học văn bản nói chung. Tuy nhiên,
luận văn này lại không nhằm lí giải sự khác biệt đó mà chỉ nhằm kế thừa các
thành quả nghiên cứu, quan sát các quan điểm về hai khái niệm để làm cơ sở,
xuất phát điểm khi tiến hành nghiên cứu vấn đề của mình. Khái niệm “văn bản”
đƣợc dùng trong luận văn cũng không nhằm tới việc phân biệt văn bản với diễn
ngôn. Thuật ngữ “văn bản” đƣợc dùng để chỉ chung cho cả hai khái niệm, chấp
nhận một điểm chung của chúng để tiến hành các thao tác khác.
Để thuận tiện trong việc khảo sát, phân tích đối tƣợng nghiên cứu của
luận văn, chúng tôi sử dụng khái niệm về văn bản của Gaperin: “Văn bản là một
thông báo hoàn chỉnh nào đó, có nội dung riêng, được tổ chức theo mô hình
trừu tượng của một trong những hình thức thông báo (thuộc phong cách chức
năng, những biến thể và thể loại của nó) hiện hữu trong ngôn ngữ văn học và
được xác định bởi những đặc trưng đặc trưng khu biệt của nó.” [9, 41]
12
1.1.2 Phân loại văn bản
Khi tiến hành phân loại văn bản, ngƣời phân loại thƣờng dựa trên nhiều
tiêu chí khác nhau và để có kết quả cuối cùng ngƣời ta thƣờng dựa trên ít nhất
hai tiêu chí để phân loại văn bản.
Hoàng Trọng Phiến khi đề cập tới phân chia thể loại văn bản đã nêu ra
năm nguyên tắc và dấu hiệu sau [7, 94]: Chức năng giao tiếp theo các lĩnh vực
của đời sống xã hội; tổ chức ngôn ngữ và đặc điểm từ vựng, cú pháp; phƣơng
thức tu từ cùng các phƣơng tiện biểu đạt mang tính phong cách cho mỗi thể loại
văn bản; phƣơng pháp diễn đạt theo cấu trúc logic khách quan; phƣơng pháp
diễn đạt theo cấu trúc chủ đạo: chức năng thẩm mĩ.
Dựa vào các nguyên tắc và dấu hiệu trên, chúng ta sẽ có những kiểu phân
loại văn bản:
a. Theo nguyên tắc chức năng giao tiếp; tổ chức ngôn ngữ và đặc điểm từ
vựng, cú pháp; phƣơng thức tu từ thì văn bản đƣợc chia thành các loại: Văn bản
hành chính, văn bản khoa học, văn bản chính luận, văn bản nghệ thuật.
b. Xét theo chức năng thẩm mĩ thì văn bản đƣợc chia thành hai loại lớn là:
văn bản nghệ thuật và văn bản phi nghệ thuật. Mỗi kiểu loại văn bản lại đƣợc
phân chia tƣơng ứng với chức năng và đặc trƣng tổ chức ngôn từ.
c. Một quan điểm khác khi phân loại văn bản là dựa vào mô hình hay
khuôn hình của văn bản. Đinh Trọng Lạc trong cuốn “Phong cách học văn bản”
đã chia toàn bộ các văn bản ra hai nhóm lớn. Nhóm thứ nhất bao gồm những
văn bản đƣợc xây dựng theo các mô hình kiểu nghiêm ngặt đã trở thành khuôn
mẫu. Nhóm này có các văn bản thuộc phong cách hành chính (nhƣ: đơn từ,
chứng chỉ, biên bản, tài liệu pháp lí, quảng cáo, tuyên bố, chỉ dẫn…) và một số
văn bản trong văn xuôi khoa học – kĩ thuật (những lời chú giải của các bài báo)
hoặc tính chất pháp lí (những bằng phát minh sáng chế). Nhóm thứ hai là
những văn bản đƣợc xây dựng theo mô hình kiểu mềm dẻo. Mô hình kiểu mềm
dẻo lại đƣợc chia ra làm hai mô hình nhỏ là: mô hình thông dụng và tự do. Trên
cơ sở các mô hình thông dụng (vốn quy định khá nghiêm ngặt tính chất của các
thành tố của lƣợc đồ và phần nào là trình tự của chúng), ngƣời viết có thể xây
13
dựng đƣợc những văn bản văn xuôi khoa học (nhƣ: bài báo, luận văn, bản tóm
tắt luận án, bản nhận xét công trình khoa học…) và một số văn bản báo (nhƣ:
thông báo, bình luận, thiên phóng sự). Những mô hình tự do không mang tính
chất điều chỉnh mà mang tính chất chỉ hƣớng. Các văn bản đƣợc tạo ra theo mô
hình này là những văn bản nghệ thuật và những tuỳ bút chính luận. Vì vậy, các
văn bản thuộc hai nhóm này đƣợc hiện thực hoá trong những văn bản thuộc một
trong ba kiểu mô hình nêu trên (khuôn mẫu, thông dụng và tự do). Chúng có
tính chất bất biến và xuất hiện trong quan hệ hệ hình với nhau.
d. Phân loại văn bản theo thông tin, cấu trúc logic khách quan, tổ chức
ngôn ngữ, từ vựng, cú pháp và cấu trúc văn bản, ngƣời ta thu đƣợc sự đối lập
giữa văn bản quản lí và văn bản không quản lí. Văn bản hình thành, tham gia
vào quá trình quản lí, và có hiệu lực pháp lí trong quá trình quản lí. Những văn
bản hội đủ các yếu tố đó đƣợc xếp vào văn bản quản lí. Những văn bản còn lại
không nhằm mục đích tham gia quản lí sẽ đƣợc xếp vào một loại riêng. Tiếp tục
phân loại dựa vào cấu trúc logic, cơ cấu tổ chức ngôn ngữ… chúng ta sẽ thu
đƣợc các tiểu loại văn bản nhỏ hơn.
Trên đây chỉ là một số cách phân loại văn bản thƣờng gặp, ngoài ra còn có
nhiều cách phân loại khác nhƣ: văn bản đối thoại và văn bản độc thoại, văn bản
liên tục và văn bản gián đoạn…
1.1.3 Đặc trưng của văn bản
1.1.3.1 Tính nhất thể của văn bản
Tính nhất thể của văn bản đƣợc biểu hiện ở khả năng của văn bản hành
chức nhƣ là một chỉnh thể thống nhất. Tính nhất thể của văn bản có hai mặt: ngữ
nghĩa và hình thức – cấu trúc. Điều này thể hiện ở hai phƣơng diện có mối liên
hệ qua lại lẫn nhau là: tính toàn vẹn và tính liên kết.
a. Tính toàn vẹn
Tính toàn vẹn của văn bản đƣợc thể hiện qua nhiều nhân tố khác nhau
nhƣng ở đây chúng tôi lƣu ý những nhân tố có liên quan tới đối tƣợng nghiên
cứu của luận văn:
14
1. Tính đồng nhất của ý đồ giao tiếp: ý đồ giao tiếp là ý định lời nói của
tác giả. Trong văn bản, nó là mục đích, điều kiện, đặc điểm của các bên tham
gia giao tiếp. Khi các yếu tố đó đƣợc hiện thực hoá trong đặc trƣng của văn
bản thì đó là tính tình thái và hƣớng dụng học của văn bản. Tính tình thái của
văn bản bao gồm: tình thái chủ quan và khách quan và đa phần xuất hiện
trong các văn bản văn học nghệ thuật. Tình thái khách quan thƣờng đƣợc biểu
hiện trong truyện cổ tích, truyện khoa học viễn tƣởng. Trong khi đó, tính tình
thái chủ quan biểu hiện trong những thể loại diễn tả đƣợc thái độ, quan điểm
chủ quan của tác giả đối với sự tình đƣợc nói đến nhƣ: truyện ngắn, tuỳ bút,
bút kí… Hƣớng dụng học của văn bản hƣớng vào giải quyết một nhiệm vụ
giao tiếp nhất định. Có mặt trong văn bản là những câu thuộc kiểu dụng học
cụ thể, mà nội dung của những câu này đƣợc tạo nên bởi:
– Sự xác nhận sự kiện trong những giấy chứng nhận, những ghi chú, những
thông báo ngắn trên báo…
– Sự hứa hẹn trong những giấy cam đoan, những quy định, những lời hứa hẹn
(trƣớc cuộc bầu cử), những lời thề (chẳng hạn của quân đội), những lời tuyên
thệ (khi nhậm chức)…
– Sự thúc đẩy đi đến hành động trong những quyết định, những mệnh lệnh,
những huấn thị, những chỉ dẫn (sử dụng các loại máy móc thiết bị), những
quảng cáo. [18, 73-80]
Trong các văn bản hành chính – công vụ, báo chí – chính luận, khoa
học, hƣớng dụng học trên thể hiện rõ ràng hơn cả. Khi một văn bản đã đạt về
ý đồ, đạt tới đích thì văn bản đã kết thúc đƣợc.
2. Sự thống nhất chủ đề của văn bản thể hiện ở chủ đề và đề tài, tính
liên kết chủ đề và liên kết đề tài. Sự thống nhất chủ đề đƣợc hình thành nên từ
tính liên kết đề tài và liên kết chủ đề.
Chủ đề có thể đƣợc tách thành đề tài và chủ đề. Đề tài là sự vật, sự
việc, hiện tƣợng đƣợc nói đến trong văn bản. Chủ đề là vấn đề chủ yếu mà
ngƣời tạo văn bản muốn giải quyết trong văn bản. Khi chủ đề và đề tài trùng
nhau, hoặc không cần thiết phân biệt chủ đề và đề tài thì có thể gọi chung là
15
chủ đề – đề tài hoặc nói gọn là đề. Mỗi loại văn bản có thể đƣợc cấu tạo từ
nhiều đoạn, phần với các đề tài, chủ đề, chủ đề con khác nhau nhƣng các chủ
đề con đó đều trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ, thể hiện cho một chủ đề thống
nhất.
3. Chức năng liên kết biểu thị quan hệ logic và quan hệ ngữ nghĩa:
Quan hệ logic là các thao tác, quy tắc, luật logic, là sự vận hành của năng lực
tƣ duy, quan hệ luôn luôn đúng. Quan hệ ngữ nghĩa là những quan hệ khách
quan nhất định giữa các sự vật, hiện tƣợng trong hiện thực khách quan. Muốn
bảo đảm đƣợc tính liên kết logic của văn bản thì không những đảm bảo đƣợc
quan hệ logic đích thực, thuần tuý mà còn bảo đảm đƣợc các loại hình quan
hệ ngữ nghĩa.
4. Sự thống nhất về kết cấu thể loại: Tính toàn vẹn của văn bản bổ sung
thêm cả một bộ các dấu hiệu đem đến cho độc giả cái khả năng xếp văn bản
vào một chức năng cụ thể, một thể loại cụ thể, và do đó tiếp cận văn bản nhƣ
một tác phẩm đã hoàn chỉnh. Đó là sự thống nhất về kết cấu thể loại.
b. Tính liên kết của văn bản
Liên kết là những dấu hiệu hình thức chỉ ra các kiểu quan hệ giữa các câu
hoặc các bộ phận trong văn bản. Liên kết đƣợc đề xuất bởi hệ thống của văn bản
và phụ thuộc theo quy mô của văn bản. Chúng là một phạm trù không thể tách
rời của văn bản. Sự liên kết đảm bảo cho thông tin nội dung sự kiện đƣợc lí giải
nhất quán. Tính hoàn chỉnh và tính liên kết có quan hệ qua lại, tác động lẫn
nhau. Kết quả của sự liên kết gắn liền với phạm trù tính hoàn chỉnh. Nó đƣợc
thực hiện trong những mức độ và hình thức khác nhau tuỳ theo loại hình văn
bản: trong văn bản khoa học, chính luận, hành chính – công vụ và trong văn bản
nghệ thuật. Trong văn bản khoa học và hành chính – công vụ tính liên kết đảm
bảo cho thông tin đƣợc liên tục. Tuy vậy, liên kết trong các văn bản này thƣờng
đƣợc xác định sẵn và phƣơng thức liên kết cũng không đa dạng nhƣ một số kiểu
loại văn bản khác ví dụ nhƣ văn bản văn học – nghệ thuật.
Liên kết nội dung và liên kết hình thức là hai mặt của tính liên kết văn
bản, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Liên kết nội dung đƣợc thể hiện
16
bằng các phƣơng tiện liên kết hình thức, còn liên kết hình thức đƣợc dùng để
diễn đạt sự liên kết nội dung. Liên kết nội dung có hai bình diện: liên kết chủ đề
và liên kết logic. Liên kết chủ đề là sự kết nối các sự vật, hiện tƣợng đƣợc nói
đến trong câu và có hai cách để thể hiện là: duy trì chủ đề và phát triển chủ đề.
Liên kết logic là đặc trƣng trong một câu hoặc giữa câu với câu (hoặc tập hợp
câu, giữa các phần trong văn bản). Liên kết hình thức là liên kết bằng các
phƣơng tiện ngôn ngữ. Nó có các phƣơng thức nhƣ: thế, lặp, liên tƣởng, tỉnh
lƣợc…
1.1.3.2 Tính khả phân
Tính khả phân của văn bản là khả năng phân chia văn bản thành các phần,
đoạn. Việc phân chia văn bản hoàn chỉnh thành các phần là do ngƣời viết muốn
chuyển từ chủ đề này sang chủ đề khác, hoặc giữa các chủ đề con hay từ các nội
dung trong một chủ đề. Tính khả phân là chức năng bố cục chung của tác phẩm,
quy mô các phần và thông tin nội dung sự kiện cũng nhƣ mục đích thực tế của
ngƣời tạo dựng văn bản. Quy mô các phần thông thƣờng nhằm làm cho ngƣời
đọc có thể tiếp nhận khối lƣợng thông tin một cách đầy đủ, hợp lí và để cho
thông tin “không bị thất thiệt”.
I.R. Gaperin [9] nói tới hai cách phân chia văn bản: theo khối lƣợng thực
tế của văn bản (trong đó có tính đến khối lƣợng (hay quy mô) của bộ phận và
hƣớng chú ý của ngƣời đọc) và theo cách phân chia đƣợc tạm gọi là biến thể ngữ cảnh. Cả hai hình thức phân chia đều quy định lẫn nhau và đều nêu ra thông
tin nội dung – quan niệm. Nhƣng một số nhà ngôn ngữ đề xuất những hình thức
phân chia khác cho văn bản văn học nghệ thuật và những văn bản khác. Khi tiến
hành nghiên cứu sâu vào từng loại văn bản, phân chia văn bản thực tế thì sẽ gặp
những khó khăn nhất định. Vì đối với văn bản văn học nghệ thuật, sự phân đoạn
văn bản nằm trong ý đồ của tác giả, mục đích sáng tạo nghệ thuật.
Trong các văn bản khoa học, công vụ, báo chí thì sự phân đoạn dựa vào
những nguyên tắc hoàn toàn khác. Trong một văn bản không đảm nhiệm chức
năng nhận thức thẩm mĩ thì nguyên tắc chủ đạo của phân đoạn là tổ chức logic
của thông báo. Cách phân đoạn văn bản theo logic rạch ròi nhất đƣợc thấy rõ
17
trong tài liệu khoa học, hành chính – công vụ. Tính rành mạch đƣợc thể hiện cả
bằng cách tách biệt các phần bằng những kí hiệu chữ số nhƣ: 1.1; 1.2; 2.1, 2.3…
Cách phân đoạn văn bản nhƣ thế diễn ra do tác giả muốn chỉ rõ sự lệ thuộc giữa
các mảnh đoạn của phát ngôn. Đồng thời, trong cách phân chia này cũng gián
tiếp lộ ra chính quan niệm của tác giả về sự chi phối qua lại giữa các phần tách
biệt [9, 110]. Trong văn bản khoa học còn có phần ghi chú dùng dấu [ ] để ghi rõ
nguồn trích dẫn, và để đảm bảo sự liền mạch, liên tục của tƣ duy, lập luận của
ngƣời viết.
Trong các văn bản ngoại giao nhƣ: công ƣớc, hiến chƣơng, hiệp nghị,
hiệp định thƣ, tuyên bố chung… ngƣời ta thƣờng áp dụng hình thức phân đoạn
theo chữ số và theo chữ cái. Cách phân đoạn trong văn bản báo chí phần lớn tuỳ
theo mục đích thực dụng và phụ thuộc vào kích thƣớc trang báo nên hình thức
hết sức linh hoạt. Trong cách phân chia văn bản mang tính cách biến thể ngữ
cảnh, nhiệm vụ của tác giả quy lại là chuyển những hình thức của hành vi ngôn
tác, chẳng hạn từ miêu tả sang đối thoại, từ đối thoại sang lời bình của tác giả…
Việc chuyển đổi những hành vi ngôn tác khác nhau là đặc trƣng chủ yếu cho các
văn bản văn xuôi nghệ thuật. Cách phân chia văn bản mang tính cách biến thể
ngữ cảnh là một trong những phƣơng tiện làm cho bạn đọc gần gũi với sự kiện
thông báo, khiến cho bạn đọc trở thành nhƣ ngƣời tham gia những sự kiện này.
Nhƣ vậy, tính nhất thể (bao gồm: tính hoàn chỉnh và tính liên kết) của văn
bản làm thành một mặt của vấn đề. Nó cùng với tính khả phân của văn bản hợp
thành thể thống nhất của hai mặt đối lập, mặt này quy định mặt kia, tác động qua
lại lẫn nhau.
1.1.3.3 Tính thông tin
Theo Gaperin thông tin đƣợc hiểu theo hai nghĩa: nghĩa thông dụng và
nghĩa thuật ngữ. Thông tin với nghĩa thứ nhất đƣợc hiểu là một thông báo bất kì
nào đƣợc trình bày nhƣ một tổ hợp từ mang tính cách định danh. Nghĩa thứ hai
của thuật ngữ “thông tin” đƣợc sử dụng trong những công trình viết về lí thuyết
thông tin. Việc phân tích những loại thông tin khác nhau dựa vào những văn bản
công vụ chính thức, báo chí, nghệ thuật, chính luận cho thấy thông tin mang tƣ
18
cách một phạm trù cơ bản của văn bản, chỉ thuộc về văn bản. Gaperin cho rằng
nên phân biệt thông tin: a) về nội dung – sự việc, b) về nội dung – quan niệm, c)
về nội dung tiềm văn bản.
Thông tin nội dung sự việc gồm thông báo về sự việc, sự cố, quá trình
đang diễn ra, đã diễn ra, sẽ diễn ra, trên thế giới bao quanh ta, thế giới hiện thực
hoặc tƣởng tƣợng. Thông tin nội dung sự việc, xét thực chất là tƣờng minh,
nghĩa là bao giờ cũng biểu đạt thành lời. Những đơn vị ngôn ngữ trong thông tin
này thông thƣờng đƣợc sử dụng theo nghĩa đen, nghĩa logic sự việc, nghĩa từ
vựng mà ngƣời ta gắn cho những đơn vị ấy theo kinh nghiệm xã hội định ra.
Thông tin nội dung quan niệm thông báo với bạn đọc cách hiểu của cá nhân tác
giả về quan hệ giữa những hiện tƣợng đƣợc miêu tả bởi các phƣơng tiện của
thông tin nội dung sự việc, về những liên hệ nhân quả của chúng, giá trị của
chúng trong đời sống xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá của nhân dân, kể cả quan
hệ giữa những cá nhân cụ thể ; về tác động qua lại phức tạp giữa tâm lí với nhận
thức thẩm mĩ của họ. Sự khác biệt giữa thông tin nội dung – sự việc với thông
tin nội dung – quan niệm có thể đƣợc hình dung là thông tin mang tính cách hiện
thực và thông tin mang tính cách thẩm mĩ nghệ thuật, tuy nhiên phải hiểu thông
tin mang tính cách hiện thực không những là thực tế có thật mà còn cả tƣởng
tƣợng nữa. Thông tin nội dung quan niệm – thƣờng thuộc phạm trù văn bản nghệ
thuật, mặc dù có thể tiếp nhận từ văn bản nhận thức khoa học. Đây chỉ có khác ở
chỗ là thông tin nội dung quan niệm trong văn bản khoa học bao giờ cũng đƣợc
biểu đạt khá rõ, còn trong văn bản nghệ thuật (hẳn là loại trừ giáo huấn ca) thì
đòi hỏi phải suy ngẫm mới có thể giải mã thông tin này. Thông tin nội dung tiềm
văn bản là thông tin tiềm ẩn, đƣợc rút ra từ nội dung sự việc dựa vào khả năng
của các đơn vị ngôn ngữ có thể sản sinh những nghĩa liên tƣởng và nghĩa hàm
chỉ.
Phạm trù tính thông tin của ngữ pháp là một đặc trƣng bắt buộc của văn
bản, có thể biểu hiện trong những hình thức khác nhau. Do đó, khi xem thông tin
là một phạm trù ngữ pháp văn bản thì trƣớc hết cần tính đến những loại hình văn
bản khác nhau. Văn bản vừa có thể phân loại theo phong cách chức năng vừa có
19
thể theo tính cách thông tin. Chẳng hạn, những văn bản ngoại giao đƣợc thống
nhất bởi phong cách chức năng chung của ngôn ngữ văn bản chính thức có thể
dựa theo tính cách thông tin mà trình bày dƣới dạng: công ƣớc, hiệp ƣớc, bị
vong lục, công hàm, tuyên bố chung, tối hậu thƣ… Phong cách ngôn ngữ văn
học – nghệ thuật đƣợc thể hiện trong vô vàn thể loại và hình thức: truyện ngắn,
ngụ ngôn, tiểu thuyết, thơ, kịch, trƣờng ca, truyện vừa… Phong cách ngôn ngữ
báo chí đƣợc thể hiện trong văn bản của những thông báo ngắn, tít báo, xã luận,
thông cáo… Phong cách hành chính – công vụ đƣợc thể hiện trong các văn bản:
luật, nghị định, quyết định, thông báo, chỉ thị, công văn…
Thông tin nhận đƣợc từ mỗi loại văn bản, chừng mực nào đó đƣợc định
trƣớc bởi chính tên gọi của loại hình văn bản này. Ví dụ: văn bản “công ƣớc” là
một loại hiệp định đƣợc kí kết giữa hai nƣớc, hiệp định mà trong đó có nêu
những điều kiện xác định, tiêu biểu cho chính văn bản công ƣớc. Văn bản
“thông báo” là truyền thông tin về sự tình đang, đã hoặc sắp diễn ra đến đối
tƣợng tham gia giao tiếp. Những văn bản thuộc bình diện phi nghệ thuật thì
thông tin dễ giải mã hơn ít nhiều, vì ở những văn bản nhƣ vậy, hình thức mang
trong mình một nội dung do nó định trƣớc bởi hệ thống ngôn ngữ. Điều đó có
nghĩa là hình thức phần lớn thực hiện nhiệm vụ (chức năng) đƣợc giao phó,
nhiệm vụ riêng của nó. Thông tin trong những văn bản nhƣ vậy, nếu nó là kết
quả những công trình nghiên cứu, quan sát, thực nghiệm, tranh luận, suy đoán,
giả định… thì mang tính quan niệm. Trong loại văn bản “Nghị quyết” thì thông
thƣờng có tóm tắt những kết luận, những quyết định, những kiến nghị thu đƣợc
do kết quả hoạt động đã tiến hành. Mô hình loại này giả định chia ra hai phần:
phần thực chứng và phần hiệu quả. Văn bản (quyết định, nghị quyết, lệnh….)
trên bình diện tổ chức cú pháp, là một câu phức chính phụ, thực ra là gồm một
loại câu tạo thành chỉnh thể đơn nhất. Đây là câu – văn bản. Chính hình thức
những văn kiện nhƣ thế cũng có ý nghĩa thông tin. Nó nhấn mạnh tính đẳng
nghĩa của đề ngữ và thuyết ngữ trong câu dài – văn bản. Hình thức này tạo ra
khả năng tập trung chú ý vào những phần phụ xét từ góc độ quan hệ cú pháp.
Nội dung văn bản này, về logic đƣợc phân thành một loạt mệnh đề độc lập nằm
20
trong dạng một câu, khiến phải lí giải lại tính cách của quan hệ mệnh đề – thuyết
ngữ. Ở những văn bản (hành chính – công vụ) thông tin tƣơng đối dễ giải mã,
bởi vì những mô hình vạch sẵn của văn bản thật sự giúp ta tách biệt cái chính,
cái cơ bản với cái đi kèm, cái thứ yếu. Trong những văn bản phức tạp hơn thể
hiện đặc trƣng hành chính – công vụ thì thông tin đƣợc phân bố một cách không
đồng đều tuỳ theo sự triển khai của thông báo.
1.1.3.4 Tính định hướng trong giao tiếp văn bản
Tính định hƣớng trong giao tiếp là một trong những phạm trù quan trọng
của văn bản nói chung, bởi vì khi tạo lập ra một văn bản, tác giả bao giờ cũng –
hoặc tự giác hoặc không tự giác – nhằm vào một ngƣời hoặc nhóm ngƣời đọc
nhất định, với một mục đích nhất định tác động vào đối tƣợng đó. Trong văn bản
hành chính – công vụ, tính không tự giác trong tháo tác định hƣớng đối tƣợng sẽ
không có, mà tính tự giác sẽ là chính, đƣợc đề cao hơn, ý đồ giao tiếp đƣợc cụ
thể hoá rõ ràng. Đó có thể là sự định hƣớng về tình cảm (nhƣ: yêu, ghét…), về
thông tin (nhƣ: thông báo, mệnh lệnh…) Liên quan tới định hƣớng trong giao
tiếp chính là thông tin chứa trong mỗi loại hình văn bản. Thông tin sự việc là
thông tin chủ yếu trong văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ. Bên
cạnh đó, thông tin quan niệm cũng xuất hiện trong loại hình văn bản hành chính
– công vụ hay văn bản để quản lí, điều hành, nhất là ở những văn bản luật, hay
văn bản thể hiện ý kiến chỉ đạo, quyền lực nhà nƣớc. Từ việc xác định loại thông
tin cần thể hiện, chuyển đạt trong văn bản sẽ giúp cho việc định hƣớng đối
tƣợng tiếp nhận, thông tin trong văn bản đƣợc chính xác, cụ thể hơn.
1.1.3.5 Cá tính/ phi cá tính
Đinh Trọng Lạc đã có những phân tích, nhận xét về phạm trù cá tính/ phi
cá tính của văn bản rất cụ thể. Ông cho nó vốn đƣợc biểu hiện trong văn bản nhƣ
là khả năng có thể biểu đạt/ không thể biểu đạt nhân tố tác giả hay nhân tố cá
nhân – của ngƣời viết. Phạm trù này đƣợc hiện thực hoá ở những mức độ khác
nhau trong các kiểu văn bản khác nhau. Giá trị phong cách của phạm trù này tỏ
rõ trƣớc hết là ở khả năng có thể biểu đạt/ không thể biểu đạt nhân tố tác giả.
Đây là một trong những tiêu chuẩn phân giới các phong cách chức năng và các
21
Khái quát văn bản nhật dụng – Ngữ văn 7 – Cô Nguyễn Thị Thu Trang – HOCMAI
Khái quát văn bản nhật dụng Ôn luyện Ngữ văn 7 Cô Nguyễn Thị Thu Trang
Thông tin khóa học : https://hocmai.vn/giaovien/188/conguyenthithutrang.html
Hotline : 19006933 nhánh 2
page : facebook.com/THCS.Tieuhoc