Kỹ Năng Sống

Bốn duyên sinh các pháp

Bạn đang xem: Bốn duyên sinh các pháp Tại Website chongthamvietnam.vn
Bạn đang xem: Bốn duyên sinh các pháp Tại Website chongthamvietnam.vn

BỐN

DUYÊN SINH

CÁC PHÁP

Chân Hiền Tâm

Thế giới

này là

thế giới

Duyên khởi

.

blankKhông có gì

xuất hiện

hay mất đi không theo qui luật

Duyên khởi

. Một đứa trẻ ra đời, không phải

tự nhiên

mà có. Cần đến tinh cha huyết mẹ (nhân) với bao sự chăm sóc (duyên), đủ ngày đủ tháng (duyên) mới sinh ra. Nhân và duyên phải đủ, pháp (quả) mới

hiện thành

. Dù khoa học

tiến bộ

, không cần đến cha và mẹ thì những

điều kiện

vật lý

để đứa trẻ

thành hình

cũng không thể thiếu. Không có gì

xuất hiện

ngoài

Duyên khởi

.

Không có gìhay mất đi không theo qui luật. Một đứa trẻ ra đời, không phảimà có. Cần đến tinh cha huyết mẹ (nhân) với bao sự chăm sóc (duyên), đủ ngày đủ tháng (duyên) mới sinh ra. Nhân và duyên phải đủ, pháp (quả) mới. Dù khoa học, không cần đến cha và mẹ thì nhữngđể đứa trẻcũng không thể thiếu. Không có gìngoài

tư tưởng

như Tự

sinh,

Tha sinh

, Cộng sinh hay

Vô nhân

sinh không

còn chỗ đứng.

thiền định

thâm sâu

như người

đời xưa

. Cái khoảng mà

hành giả

trụ trong

phạm vi

thức ấm

hay

hành ấm

nhưng chưa thấu được thực tánh của các ấm, đã

xuất hiện

những

cảnh giới

khiến các

tư kiến

như Tự

sinh,

Tha sinh

, Cộng sinh và

Vô nhân

sinh

xuất hiện

. Thấy là chuyện

bình thường

, nhưng khi cho cái thấy ấy là

chân lý

, hình thành nên cái gọi là

vạn pháp

tự sinh,

tha sinh

v.v… thì

mâu thuẫn

hiện ra

.

Ngày nay, nhữngsinh,, Cộng sinh haycòn chỗ đứng. [1] Bởi ít người có được phầnnhư người. Cái khoảng màtrụ tronghay [2] nhưng chưa thấu được thực tánh của các ấm, đãnhữngkhiến cácsinh,, Cộng sinh vàsinh. Thấy là chuyện, nhưng khi cho cái thấy ấy là, hình thành nên cái gọi làtự sinh,v.v… thì

chân lý

, nó phải mang tính phổ quát. Nếu mang tính phổ quát thì tất cả những gì ta đang thấy đây phải bị qui luật đó

chi phối

. Nhưng

hiện thực

thì không có gì tự sinh. Con bò không thể tự

hiện thành

con bò. Mọi

xuất hiện

đều cần đến

điều kiện

(

nhân duyên

).

Xem ra

, Tự

sinh không

mang tính phổ quát, chỉ là pháp

xuất hiện

theo duyên. Trong cái duyên là

thiền định

cộng với cái nhân là

tập khí

của mỗi người,

thế giới

của tự thân

xuất hiện

.

Tập khí

của người này không phải là

tập khí

của người kia, nên

cảnh người

này thấy trong

thiền định

không

nhất thiết

là cảnh mà người kia phải thấy.

Tùy duyên

có pháp nên Tự sinh,

Tha sinh

v.v… vẫn không ra ngoài

Duyên khởi

.

Nếu cái thấy đó là, nó phải mang tính phổ quát. Nếu mang tính phổ quát thì tất cả những gì ta đang thấy đây phải bị qui luật đó. Nhưngthì không có gì tự sinh. Con bò không thể tựcon bò. Mọiđều cần đến)., Tựmang tính phổ quát, chỉ là pháptheo duyên. Trong cái duyên làcộng với cái nhân là [3] của mỗi người,của tự thâncủa người này không phải làcủa người kia, nênnày thấy trongkhônglà cảnh mà người kia phải thấy.có pháp nên Tự sinh,v.v… vẫn không ra ngoài

Ngày nay, với cái nhìn của các nhà

vật lý

thiên văn

hiện đại

, việc cho có một vị thượng đến sinh ra muôn loài (

Tha sinh

) bị

bác bỏ

hoàn toàn

. Vì

thời gian

xuất hiện

đồng thời

với

không gian

. Trong Giai Điệu

Bí Ẩn

Con Người

Đã Tạo Ra

Vũ Trụ

, giáo sư Trịnh Xuân Thuận nói: “Vật lý

hiện đại

cho rằng

thời gian

không gian

được tạo ra

đồng thời

với

vũ trụ

. Khái niệm này không phải là mới. Ngay từ thế kỷ thứ IV

sau công nguyên

, chính thánh Augustin đã viết rằng

thế giới

không phải được tạo ra trong

thời gian

không gian

. Thật là khôi hài nếu nghĩ rằng đức Chúa Trời phải đợi một khoảng

thời gian

dài vô hạn rồi mới

đột nhiên

quyết định

tạo ra

vũ trụ

. Cụm từ

sáng tạo

ra

vũ trụ

phỏng còn

ý nghĩa

gì nếu

thời gian

không tồn tại

và chỉ

xuất hiện

cùng với vũ trụ?”. Cho nên, nếu thấy có

thượng đế

sinh ra muôn loài để hình thành nên

tư kiến

Tha sinh

, thì cái thấy ấy cũng chỉ là

cảnh giới

tâm thức

của vài người. Nó không mang tính phổ quát để

hiện thành

chân lý

. Mọi thứ chỉ như ngủ rồi mộng. Mộng của người này không hẳn đã giống mộng của người kia.

Cộng sinh và

Vô nhân

cũng như thế. Chỉ là

pháp tùy duyên

, không mang tính phổ quát để có

thể hiện

thành thực

lý, dù chỉ là thực lý ở

thế gian

.

BỐN

DUYÊN SANH

CÁC PHÁP

Lăng-già,

Thập Nhị Môn Luận

cũng như trong

luận Thành Duy Thức

có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp.

Nhân duyên

.

Thứ đệ duyên

.

Duyên duyên

.

Tăng thượng duyên

. Các pháp ở

thế gian

khi

xuất hiện

sẽ chịu sự

chi phối

của một, hai, ba hay cả bốn duyên đó.

Tùy theo

cách

diễn tả

tổng quát hay chỉ

nhấn mạnh

ở mặt

tâm thức

mà cách

diễn giải

có khác nhau, nhưng

nghĩa lý

thì không khác.

Trong

Thập Nhị Môn Luận

, Bồ-tát

Long Thọ

nói về

Nhân duyên

như sau: “Nhân duyên, là chỗ mà pháp từ đó sinh ra, đang từ đó sinh ra, sẽ từ đó sinh ra”. Do những

yếu tố

(

điều kiện

) nào đó mà một sự việc hay một sự vật (nói chung là mọi

hiện tượng

thuộc tâm hay vật)

xuất hiện

thì những

yếu tố

đó gọi là duyên, cũng gọi là nhân, cũng gọi là

nhân duyên

(đối với quả đã

xuất hiện

). Với

điều kiện

đó thì tất cả

pháp hữu vi

đều là

pháp duyên

sinh.

Lăng-già phân

nhân duyên

sinh thành

hai loại:

Nội duyên

ngoại duyên

.

: Chỉ cho những gì thuộc

phạm vi

ngoại cảnh

.

Đất, nước, nhân công v.v… là

nhân duyên

tạo ra bình (quả).

Sợi, nhân công, máy dệt v.v… là

nhân duyên

tạo ra vải.

Đó là phần nhân, duyên, quả được nói ở mặt

đơn giản

nhất.

Ở các

lãnh vực

như chính trị,

xã hội

, kinh tế,

giáo dục

,

tâm lý

, triết lý,

văn hóa

, nghệ thuật v.v… mọi

ứng dụng

của nó đều không ra ngoài

Nhân quả

.

Muốn có một kết quả tốt trong học tập, đòi hỏi người học phải

học hành

nghiêm túc (nhân), giáo viên phải có

trình độ

về chuyên môn v.v… (duyên).

Muốn biết về một cái chết, phải

dựa vào

khá nhiều

yếu tố

hoặc

ít nhất

là một

điều kiện

đưa đến cái chết đó. Không có việc

tự nhiên

mà chết. Thấy

tự nhiên

chết là do

nhân duyên

tạo ra cái chết đó

vi tế

hơn sự

nhận thức

của mình. Cũng tùy vào

điều kiện

cố ý

hay

sơ xuất

mà tội trạng được định hình nhẹ hay nặng v.v…

Mọi thứ không ra ngoài

Nhân duyên

.

Đặc tính

của pháp

nhân duyên

là dù «nhân» không thay đổi mà «duyên» thay đổi thì «quả» có thể thay đổi. Như xoài Hòa Lộc ngọt và thơm, nhưng mang trồng ở một vùng ở miền Bắc thì chua. Duyên thay đổi nên

tính chất

của quả đổi khác. Y vào

tính chất

đó,

con người

có thể thay đổi

mọi việc

theo ý mình dù ở

lãnh vực

nào, với

điều kiện

tìm ra

đúng

nguyên nhân

của nó.

Nói đúng

hơn là

tìm ra

đúng

liên hệ

nhân quả

của nó, và thay đổi cái nhân ấy.

Thế giới

ngày trở nên

phong phú

và đa dạng là nhờ biết

ứng dụng

nhân – duyên – quả vào

đời sống

thuần thục

.

Nhân duyên

hiện diện

trong từng sự, từng việc. Mọi hành tác của

con người

đều không ra ngoài

nhân duyên

, nhưng thường là do tự phát theo

kinh nghiệm

hơn là nắm được thực lý

chi phối

thế giới

này.

: Chỉ cho những loại duyên có

liên quan đến

tâm.

vô minh

, ái, nghiệp v.v… là

nhân duyên

sinh ra ấm, giới, nhập.

: Chỉ cho những loại duyên cótâm. [4] Như, ái, nghiệp v.v… làsinh ra ấm, giới, nhập.

Thân tâm

hoàn cảnh

mà một

chúng hữu

tình đang có đây, là kết quả của những gì mà

chúng hữu

tình đó đã tạo tác trong

quá khứ

, thông qua ba thứ thân, ngữ và ý, trong đó ý là kẻ chủ đạo. Những hành tác đó được các duyên tham, sân, si (

phiền não chướng

) hỗ trợ mà có cái

thân phần

đoạn như hiện nay

xuất hiện

.

Nhân – duyên – quả nói ở mặt này đòi hỏi ở người đời một

Xem thêm :  Chùm thơ & bài thơ chờ đợi người mình yêu buồn và nỗi nhớ da diết

niềm tin

nhiều hơn là một sự

hiểu biết

rõ ràng

như loại

nhân quả

thuộc

ngoại duyên

vừa nói. Bởi sự

nhận thức

của người đời còn bị hạn cuộc trong

nghiệp thức

chúng sinh

. Chỉ thấy gần không thấy xa, thấy

trước mắt

không thể thấy sau lưng v.v…

thành nhân

quả đối với những gì xảy ra trong hai đời trở lên khó mà nhận được. Trong khi

nhân quả

thuộc

nội duyên

không chỉ xảy ra trong

một đời

mà có

liên hệ

khá nhiều đời. Nhân, có khi thuộc

quá khứ

mà phải mấy

đời sau

mới đủ duyên hiện quả. Như chuyện

nhân quả

xảy ra với

tác giả

cuốn

Thủy Sám

. Vì thế, ngoại trừ những ai đã được

huân tập

niềm tin

đối với

nhân quả

, hoặc trong

hiện tại

, nhận liền được cái quả mà mình vừa gieo nhân, thì đa phần còn lại đối với mặt

nội duyên

này, ít người tin nhận.

Không tin thì hành xử lầm nhân lộn quả, không phải mọi hành tác có thể ra ngoài

nhân quả

.

Phật dạy muốn

sung túc

giàu có

thì phải

bố thí

hay

cúng dường

.

Trộm cắp

chỉ đưa đến đói nghèo.

Trộm cắp

nói đây chỉ cho các hành động thu vào không mang tính

chính đáng

. Nhưng

hiện tại

, đa phần thường làm ngược lại. Lầm

trộm cắp

là nhân của

giàu có

thực hành

điều đó rất mau mắn. Việc gì lợi mình hại người đều làm được và làm mạnh khi đủ duyên. Đó là đang gieo cái nhân

nghèo khó

khổ nạn

trong tương lai. Đủ duyên cái quả

hiện thành

.

Nếu

hiện tại

do

trộm cắp

mà thấy phát sinh

giàu có

thì phải hiểu

trộm cắp

chỉ là

phương tiện

để những phúc thiện đã gieo trong

quá khứ

thành hình

.

Vì vậy

, nhận cho được nhân nào cho ra quả nào

trong đời

sống hiện nay không phải dễ. Muốn nhìn đúng mối

liên hệ

nhân quả

của một pháp đòi hỏi phải có

trí tuệ

, không thì phải có

niềm tin

đối với

kinh luận

.

Long Thọ

nói: “”. Là muốn nói đến cái duyên khiến

dòng tâm thức

nối tiếp

tương tục

. Nó là cái

nhân sinh

ra

nhân quả

tương tục

sinh tử

tương tục

. Trong

Đại Thừa

Khởi Tín

Nghĩa Ký, Tổ

Hiền Thủ

nói: “Khi các

thánh nhân

lìa bỏ

vọng niệm

thì không có

cảnh giới

này. Đã không có

cảnh giới

này thì biết

cảnh giới

này từ vọng mà sinh”.

Đời sống

của

chúng ta

được

tiếp nối

, chết đây sinh kia là do dòng

vọng niệm

.

Liên tục

nối kết nhau là do cái

nhân Thứ

đệ duyên này.

Pháp trước diệt là

điều kiện

để pháp sau sinh. Pháp trước

nếu không

diệt thì pháp sau không thể sinh. Chỉ nói pháp trước mà không nói pháp sau, chỉ nói thứ lớp sinh mà không nói “cái gì” thứ lớp sinh, vì “cái gì” đó

bao gồm

cả

niệm trước

lẫn niệm sau. Niệm sau sinh rồi

trở thành

niệm trước

,

tiếp tục

diệt làm

điều kiện

cho niệm sau sinh. Cứ thế mà

tương tục

không dứt.

Nếu không

đặt

vấn đề

dứt vọng thì dòng

tương tục

đó cứ thế mà

tương tục

.

Nhân quả

tương tục

sinh tử

tương tục

là quả của

Thứ đệ duyên

. Dứt được duyên này cũng có nghĩa là dứt được sự

tương tục

của

nhân quả

sinh tử

.

giác quan

,

kinh luận

gọi là

Sở duyên

[5].

Đối tượng của nămgọi là

chi tiết

,

thức A lại da

, do lực

nhân duyên

mà khi tự thể

sinh khởi

, trong thì biến làm

chủng tử

và thân có các căn, ngoài thì biến làm

khí thế gian

, rồi lấy cái biến ra đó làm

cảnh sở duyên

của mình”

Mạt na

,

tàng thức

vừa là

sở y

vừa là

sở duyên

. Còn

sáu trần

(sắc, thanh v.v…) là

cảnh sở duyên

của sáu thức.

Nói, do lựcmà khi tự thể, trong thì biến làmvà thân có các căn, ngoài thì biến làm, rồi lấy cái biến ra đó làmcủa mình” [6] . Vớivừa làvừa là. Còn(sắc, thanh v.v…) làcủa sáu thức.

cảnh Sở duyên

là sắc, thanh, hương, vị, xúc, nếu khởi

thân nghiệp

,

khẩu nghiệp

,

khởi tâm

vương

tâm sở

thì

Sở duyên

trở thành

Sở duyên duyên

.

Trần Na

,

Sở duyên duyên

là do thức

năng duyên

nắm giữ tướng đã khởi (tướng này phải có thật thể)

sinh khởi

, tướng đó gọi là

Sở duyên duyên

.

cảnh Sở duyên

mà duyên lần nữa, nên gọi là

Sở duyên duyên

.

Vớilà sắc, thanh, hương, vị, xúc, nếu khởivương [7] thì [8] Theo Bồ-tátlà do thứcnắm giữ tướng đã khởi (tướng này phải có thật thể) [9] rồi nương tướng đó mà sinh “sắc cực vi” v.v… Nghĩa là, tướng nào có thật thể và có thể khiến các thức, tướng đó gọi là [10] Vì nơimà duyên lần nữa, nên gọi là

Sở duyên duyên

là một trong các duyên khiến

nhân quả

xoay vần. Lành có. Dữ có.

Bồ-tát

Long Thọ

, sau khi

nhận ra

ái dục

chỉ mang lại khổ đau cho

con người

, liền vào rừng ẩn tu. Được một vị

Tỳ kheo

trao cho cuốn kinh, nhưng không

cảm thấy

thỏa mãn

với những gì mình đã đọc.

Thời gian

đó, Bồ-tát thay y mới, lập giới mới, xây một nhà

thủy tinh

và nghỉ trong đó. Nhân việc này, nẩy sinh hai loại

tư tưởng

khác nhau. Một, cho

Long Thọ

lòng bi mẫn

đối với

chúng sinh

, ngài muốn

tìm ra

phương tiện

lợi ích

cho

đời sau

nên làm các việc đó. Một, cho

Long Thọ

do

hàng phục

được nhiều

ngoại đạo

mà tâm sinh cao mạn, nên

hiện ra

các tướng đó.

Cùng một

cảnh Sở duyên

, nhưng tùy chỗ nghĩ của mỗi người mà

tính chất

của cảnh thành khác. Phần khác đó khiến

Sở duyên

trở thành

Sở duyên duyên

.

Người đã

khởi tâm

cho Bồ-tát

Long Thọ

cao mạn, là đang gieo cái

nhân không

tốt, khó tránh được cái quả chẳng lành khi đủ duyên. Chưa kể một khi đã

khởi tâm

cho ngài cao mạn thì khó mà học được gì ở ngài. Coi như bít lối vào

Trung đạo

của mình. Trong

trường hợp

này,

Sở duyên duyên

là cái

nhân sinh

ra cái quả không lành.

Trường hợp

ngược lại, ta có loại

Sở duyên duyên

làm phát sinh

cảnh giới

lành.

Trong đời

sống

bình thường

đây, ta dễ sống với cái nhân là

Sở duyên duyên

hơn là sống với chính

cảnh Sở duyên

. Ta hay nhầm lẫn giữa cái thật

hiện hữu

và một cái

hiện hữu

đã thông qua lăng kiến của mình. Hay nhầm lẫn giữa một người

giảng pháp

và một người

giảng pháp

hay.

Tư tưởng

“hay” hòa nhập với “đối tượng được nhận biết” nhanh đến mức cứ như chúng là một. Từ đó phát sinh

ít nhất

hai cái nhìn khác nhau dù trên cùng một đối tượng. Tâm rơi vào

nhị biên

phân biệt

.

Sinh tử

theo đó

tương tục

.

Không phải chỉ có người đời mới không tách bạch được cái gì là

thực tại

, cái gì là

cảnh Sở duyên

và cái gì là

Sở duyên duyên

. Ngay cả người tu, dù là

tu Phật

, vẫn chưa thể tách bạch được các

cảnh giới

ấy. Trên cảnh,

tùy theo

quan niệm

đã huân từ trước mà

khởi tâm

, nhưng hay cho cảnh mình thấy là

chân lý

.

Thế giới

nẩy sinh bao

vấn đề

cũng vì đó. Vì đã biến

Sở duyên

thành

Sở duyên duyên

. Khổ và lạc theo đó mà

xuất hiện

.

Sở duyên duyên

trở thành

duyên khiến người đời thông qua đó mà

trả quả

và gây nhân, Bồ-tát thông qua đó mà phát huy hạnh nghiệp.

Một khi

chúng ta

chưa

ý thức

rõ thế nào là

cảnh Sở duyên

, thế nào

Sở duyên duyên

thì loại

Sở duyên duyên

này vẫn

chi phối

toàn bộ

đời sống

của mình.

Với một số nhà

Vật lý

thiên văn

, cái gọi là “cội gốc của vạn pháp” có thể chư vị còn

mơ hồ

, nhưng trong

điều kiện

làm việc của mình, chư vị lại hiểu khá tường tận về loại

Sở duyên duyên

này, dù không hề biết đến cái tên

Sở duyên

hay

Sở duyên duyên

.

thời kỳ

đầu, khi Galilê

sử dụng

kính

thiên văn

để nhìn thấy cái gọi là “thực tại tuyệt vời” thì các

đồng nghiệp

của ông vẫn không mấy tin về điều đó. Bởi dụng cụ

thiên văn

bao gồm

các thấu kính có khả năng làm lệch

tia sáng

và phóng đại các ảnh thì chúng

vẫn có

thể tạo ra những

ảo ảnh

quang học. Và những gì

chúng ta

thấy đó có thể chỉ là sản phẩm của những

ảo ảnh

quang học. Song dù những

hạn chế

về máy móc có thể khắc phục được thì

Xem thêm :  20 bài thơ tình hay nhất về tình yêu làm crush gục ngã ngay lần tỏ tình đầu tiên

vẫn có

một thứ “không thể khắc phục được, đó là

con người

và bộ não của chúng”.

Vàođầu, khi Galilêkínhđể nhìn thấy cái gọi là “thực tại tuyệt vời” thì cáccủa ông vẫn không mấy tin về điều đó. Bởi dụng cụcác thấu kính có khả năng làm lệchvà phóng đại các ảnh thì chúngthể tạo ra nhữngquang học. Và những gìthấy đó có thể chỉ là sản phẩm của nhữngquang học. Song dù nhữngvề máy móc có thể khắc phục được thìmột thứ “không thể khắc phục được, đó làvà bộ não của chúng”. [11]

“Con người không thể

quan sát

tự nhiên

một cách khách quan. Bởi vì luôn có sự tương tác bên trong và bên ngoài của họ. Sự

tiến triển

của

thế giới

bên trong

thường xuyên

ảnh hưởng

đến sự cảm nhận

thế giới

bên ngoài và ngược lại sự

tiếp xúc

của

thế giới

bên ngoài cũng sẽ làm

biến đổi

thế giới

bên trong”.

“Trong suốt quá trình được

đào tạo

nghề nghiệp,

thế giới

bên trong của các nhà khoa học bị nhồi nhét bởi các khái niệm, mô hình và các

lý thuyết

. Do đó

thế giới

bên ngoài khi được phóng chiếu bằng cái nhìn của

thế giới

bên trong không còn

cho phép

các nhà khoa học nhìn được các

sự kiện

“trần trụi” và khách quan mà không có sự

giải thích

nào. Ngay cả những người khách quan nhất trong số các nhà

nghiên cứu

cũng có những

thiên kiến

. Những

thiên kiến

này (gọi chung là hình mẫu) đóng

vai trò

động lực

trong tiến trình khoa học. Không có một

quan niệm

được

tiếp nhận

từ trước (tức coi

như không

có hình mẫu nào hết) thì trong

vô số

thông tin mà

thiên nhiên

gởi cho, nhà khoa học không thể

lựa chọn

được những thông tin và

sự kiện

quan trọng có khả năng nhất trong việc phát hiện những qui luật và nguyên lý, là những

yếu tố

mang nhiều thông tin nhất. Chính

vì vậy

thực tại

không

tránh khỏi

bị

thế giới

bên trong của các nhà khoa học làm cho

biến đổi

chúng ta

chỉ sẽ thấy những thứ mà

chúng ta

muốn thấy mà thôi”.

Đa phần các cái nhìn đều bị

chi phối

bởi những

tri kiến

chúng ta

đã

huân tập

sẵn trong

tâm thức

.

Thế giới

chung quanh không còn được nhìn đúng như chính nó.

nỗ lực

tu hành

của

thiền sinh

đều nhắm vào việc

xa lìa

dần loại

Sở duyên duyên

này, dù là thiện hay

bất thiện

. Trả cảnh về đúng

vị trí

của nó. Tức “Tâm trụ

tự tâm

. Cảnh trụ tự cảnh”.

hy vọng

sống lại

được với cái gốc chân thể, là cội nguồn

chân thật

từ đó phát sinh

vạn pháp

, là

sở y

của

Sở duyên

Sở duyên duyên

. Song với cái nhìn của

đa số

người đời, việc không có một suy niệm nào đối với

vạn vật

vạn sự

thế gian

là việc không thể làm được. Thật ra không phải vậy. Mọi thứ đều do

huân tập

mà có. Không

huân tập

nữa thì mọi thứ thành không.

Trong nhà thiền, mọicủađều nhắm vào việcdần loạinày, dù là thiện hay. Trả cảnh về đúngcủa nó. Tức “Tâm trụ. Cảnh trụ tự cảnh”. [12] Có vậy, mớiđược với cái gốc chân thể, là cội nguồntừ đó phát sinh, làcủavà. Song với cái nhìn củangười đời, việc không có một suy niệm nào đối vớilà việc không thể làm được. Thật ra không phải vậy. Mọi thứ đều domà có. Khôngnữa thì mọi thứ thành không.

Tăng thượng duyên

là loại duyên mà nhờ nó các duyên khác có thể phát tán hoặc theo chiều thuận hoặc theo chiều nghịch.

Long Thọ

nói: “Cái này có nên cái kia có”.

tăng thượng

cho cái kia. Theo đó thì ba duyên trên cũng mang

hình thức

Tăng thượng duyên

, nhưng duyên này chỉ chung cho tất cả những duyên còn sót lại, không thuộc ba duyên trên.

là loại duyên mà nhờ nó các duyên khác có thể phát tán hoặc theo chiều thuận hoặc theo chiều nghịch.nói: “Cái này có nên cái kia có”. [13] Cái này làm duyêncho cái kia. Theo đó thì ba duyên trên cũng mang, nhưng duyên này chỉ chung cho tất cả những duyên còn sót lại, không thuộc ba duyên trên. [14]

Tăng thượng duyên

có ở cả mặt

nội duyên

lẫn

ngoại duyên

.

Quả báo

của

thiện nghiệp

sung túc

,

danh vọng

, sắc đẹp v.v… Chúng có thể là duyên để

thiện nghiệp

trong

hiện tại

điều kiện

phát triển nhưng cũng có thể là duyên khiến

ác nghiệp

điều kiện

tăng thạnh

. Trong

điều kiện

đó,

sung túc

,

danh vọng

v.v… mang

hình thức

của

Tăng thượng duyên

.

Tùy

điều kiện

đất và nước ở mỗi miền mà

thanh long

phát triển tốt hay xấu. Đất và nước khiến

thanh long

phát triển tốt vừa mang tính

Nhân duyên

, vừa mang tính

Tăng thượng duyên

theo chiều thuận. Khiến

thanh long

phát triển èo uột thì đất và nước đó vừa mang tính

Nhân duyên

, vừa mang tính

Tăng thượng duyên

theo chiều nghịch. Nói

Nhân duyên

, vì nhờ sự nhóm họp của các duyên như

hạt giống

, đất, nước v.v… mà có cái quả

thanh long

. Nói

Tăng thượng duyên

, vì có đất tốt và nước tốt mà có

thanh long

tốt, đất và nước không tốt thì có

thanh long

không tốt. “Cái này có nên cái kia có” là

hình thức

của

Tăng thượng duyên

. Đây cũng là duyên góp phần cho sự

tăng trưởng

của dòng

tương tục

.

VÌ SAO

TRUNG LUẬN

PHỦ ĐỊNH 4 DUYÊN?

Duyên khởi

chi phối

mọi

hiện tướng

thế gian

như thế, vì sao

Trung luận

lại phủ định bốn duyên?

bài kinh

thuộc hệ A-hàm,

Đức Phật

cũng khẳng định

Duyên khởi

là thực lý

chi phối

thế gian

này.

Trong cácthuộc hệ A-hàm,cũng khẳng địnhlà thực lýnày. [15] Nếu là thực lý, sao lại phá và sao có thể phá được?

Duyên khởi

tuy là thực lý, nhưng chỉ là thực lý ở

thế gian

. Tức

chỗ nào có không và

thời gian

, chỗ đó

Duyên khởi

tồn tại

chi phối

tất cả.

Nó thuộc về mặt

hiện tượng

. Ở mặt

bản thể

, là chỗ

phi không

thời gian

,

Duyên khởi

không tồn tại

. Đó là “chỗ” mà

Lục Tổ

nói: “Bồ-đề vốn không cây /

Gương sáng

cũng chẳng đài /

Bản lai vô nhất vật

/ Chỗ nào có bụi bậm”.

Tâm Kinh

Bát-nhã nói: “Không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp v.v…”. Không tất cả thì

Duyên khởi

nương đâu mà tồn tại? Vì thế, tuy là thực lý nhưng chỉ là thực lý ở

thế gian

, là thực lý của người trong mộng. Nói trong mộng nhưng không phải với người

tỉnh mộng

Duyên khởi

không có

tác dụng

. Khi dùng

hóa thân

vào cõi mộng

giáo hóa

chúng sinh

, chư vị vẫn phải theo luật ấy mà đi.

Phật ra đời với

thân tướng

của Tất-đạt-đa vẫn không

thoát khỏi

sinh, già, bệnh, chết. Mọi hành tác của ngài không ra ngoài

Duyên khởi

.

Chỉ vì thấu được cội nguồn

chân thật

của tất cả pháp mà dù bị

chi phối

, vẫn không bị

ràng buộc

, đến và đi chỉ do ứng tâm mà hiện. Đó là

lý do

Duyên khởi

được gọi là thực lý. Nhưng chỉ là thực lý ở

thế gian

nên vẫn phá được. “Không” nên

Duyên khởi

.

Thấy các

pháp duyên khởi

thì biết tánh các pháp là “không”.

Phủ định, vì. TứcNó thuộc về mặt. Ở mặt, là chỗvà. Đó là “chỗ” mànói: “Bồ-đề vốn không cây /cũng chẳng đài // Chỗ nào có bụi bậm”. [16] Bát-nhã nói: “Không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp v.v…”. Không tất cả thìnương đâu mà tồn tại? Vì thế, tuy là thực lý nhưng chỉ là thực lý ở, là thực lý của người trong mộng. Nói trong mộng nhưng không phải với ngườikhông có. Khi dùngvào cõi mộng, chư vị vẫn phải theo luật ấy mà đi.Chỉ vì thấu được cội nguồncủa tất cả pháp mà dù bị, vẫn không bị, đến và đi chỉ do ứng tâm mà hiện. Đó làđược gọi là thực lý. Nhưng chỉ là thực lý ởnên vẫn phá được. “Không” nên

Tánh đó,

kinh luận

gọi là

Phật tánh

,

Vô sinh

, Không hai,

Bản lai vô nhất vật

v.v… là tánh thể mà tất cả

chúng sinh

và Phật đồng có, chỉ do

vô minh

mà không

nhận thấy

, cũng không dụng được, phải theo

nghiệp lực

mà chuyển. Kẻ không bị

nghiệp lực

trói buộc

lại an trụ nơi

Xem thêm :  Chia sẻ những câu danh ngôn về mái ấm gia đình lay động hàng triệu trái tim

hóa thành

, đánh

mất công

hạnh và

diệu dụng

của

bản tâm

. Phá, chính là phá tướng

Nhân duyên

để hiển tánh

Nhân duyên

. Là phá mặt

hiện tượng

, giúp

nhận ra

bản thể

. Là

nhận ra

tánh thể

vô sinh

của chính mình, cũng là cội nguồn

chân thật

của tất cả pháp. Phật thể đã hiển thì tướng và dụng của Phật cũng sẽ hiển.

Phá

nhân duyên

, là để

chúng sinh

không chấp

vào

nhân duyên

. Bởi

không chấp

thì mới có thể

trực nhận

lại được tánh thể lìa các

chấp thủ

. Vì thế, phá bốn duyên còn mang

ý nghĩa

là phá tâm

chấp thủ

của

chúng sinh

đối với bốn duyên.

chúng sinh

nói đây, không phải là hạng

chúng sinh

bình thường

với đầy đủ

tham sân si

mà chính là chư vị

Nhị thừa

và Bồ-tát thuộc

Tam hiền

.

y theo

tâm mà nói, không

y theo

hình tướng

. Bởi hạng

chúng sinh

bình thường

khó mà

nghe được

tên bốn duyên. Với lý

nhân quả

thế gian

có khi còn chưa tin nhận, huống là hiểu sâu về bốn duyên để sinh tâm

chấp thủ

đối với bốn duyên? Phải là hàng

nội giáo

hiểu khá tường tận về

giáo pháp

của

Như Lai

, nhưng chưa thấu được chỗ

rốt ráo

Như Lai

đã thấu, mới sinh tâm

chấp thủ

đối với bốn duyên.

Hạngnói đây, không phải là hạngvới đầy đủmà chính là chư vịvà Bồ-tát thuộc [17] Đây làtâm mà nói, không. Bởi hạngkhó màtên bốn duyên. Với lýcó khi còn chưa tin nhận, huống là hiểu sâu về bốn duyên để sinh tâmđối với bốn duyên? Phải là hànghiểu khá tường tận vềcủa, nhưng chưa thấu được chỗmàđã thấu, mới sinh tâmđối với bốn duyên.

Phá bốn duyên là muốn giúp chư vị

nhận ra

được thực tánh của bốn duyên, là

nhận ra

được cội nguồn

chân thật

của tất cả pháp, lìa

hóa thành

chứng

bảo sở

. Vì thế, nói phá bốn duyên mà thực là phá vào tâm

chấp thủ

đối với bốn duyên, không phải hủy hoại chính bốn duyên. Pháp vốn như, có gì phải hủy hoại?


[1]

Trung Luận

.[2]

Kinh Thủ Lăng Nghiêm

. Phần

Ngũ Ấm Ma

.

Phạm vi

Thức ấm

.

. Phần

[3]

Kinh Thủ Lăng Nghiêm

.[4]

Ngoại cảnh

cũng không lìa tâm mà có, nhưng phân ngoại, phân nội và nói có

liên quan đến

tâm, là muốn nói đến mặt nổi trội là ở tâm hay vật theo cái nhìn của

chúng sinh

hiện tại

.

cũng không lìa tâm mà có, nhưng phân ngoại, phân nội và nói cótâm, là muốn nói đến mặt nổi trội là ở tâm hay vật theo cái nhìn của

[5]

Thành Duy Thức Luận

– HT Thích Thiện Siêu dịch và chú,

ấn hành

1996 – Trang 222 ghi: “Luận

Trang Nghiêm

nói: Năm căn của

Như Lai

mỗi

căn duyên

đủ năm cảnh”. Trang 223 ghi: “Khế kinh nói: “Nhãn thức thế nào? Đó là thức nương

nhãn căn

liễu biệt

các sắc. Nói rộng

cho đến

ý thức

thế nào? Là thức nương nơi

ý căn

liễu biệt

các pháp”. Kinh kia chỉ nói riêng chỗ nương của sáu thức (

nhãn căn

v.v…) với

kiến phần

(

liễu biệt

) và

cảnh sở duyên

của nó (sắc v.v…) khi ở

địa vị

chưa

chuyển y

. Còn khi ở

địa vị

đã

chuyển y

thì căn

sở y

và cảnh sở liễu của sáu thức chung thông như trước nói (là chỉ cho những gì nói ở trang 222”.

– HT Thích Thiện Siêu dịch và chú,1996 – Trang 222 ghi: “Luậnnói: Năm căn củamỗiđủ năm cảnh”. Trang 223 ghi: “Khế kinh nói: “Nhãn thức thế nào? Đó là thức nươngcác sắc. Nói rộngthế nào? Là thức nương nơicác pháp”. Kinh kia chỉ nói riêng chỗ nương của sáu thức (v.v…) với) vàcủa nó (sắc v.v…) khi ởchưa. Còn khi ởđãthì cănvà cảnh sở liễu của sáu thức chung thông như trước nói (là chỉ cho những gì nói ở trang 222”.

[6]

Thành Duy Thức Luận

.

Đại Tạng Kinh

31. No 1582, quyển 2 ghi: “阿賴耶識因緣力故自體生時。內變為種及有根身。外變為器。即以所變為自所緣”.

31. No 1582, quyển 2 ghi: “阿賴耶識因緣力故自體生時。內變為種及有根身。外變為器。即以所變為自所緣”.

Thành Duy Thức Luận

là “khởi thức”.[7] Nói theolà “khởi thức”.[8]

Thập Nhị Môn Luận

. Bồ-tát

Long Thọ

tạo.

Cưu ma La Thập

dịch.

Đại Tạng Kinh

30. No 1568.

. Bồ-táttạo.dịch.30. No 1568.

thế giới

tương đối

.[9] Nghĩa “thật” trong

Sở Duyên Duyên

. Bồ-tát

Trần Na

tạo.

Huyền Trang

dịch.

Đại Tạng Kinh

31. No 1624. Ghi “所緣緣者。謂能緣識帶彼相起及有實體。令能緣識託彼而生色等極微。設有實體能生五識容有緣義。然非所緣。如眼根等於眼等識無彼相故。如是極微於眼等識。無所緣義”: “Sở

duyên duyên

là, thức

năng duyên

nắm giữ cái tướng khởi có thật thể đó, khiến thức

năng duyên

nương đó mà

sinh sắc

cực vi

v.v…. Nếu có thật thể và hay sinh

ngũ thức

thì vẫn mang nghĩa

hữu duyên

nhưng không phải là

Sở duyên

, như

nhãn căn

đối với

nhãn thức

, vì không có tướng đó. Như vậy,

cực vi

đối với

nhãn thức

v.v… không có

nghĩa Sở

duyên”.[10] Luận Quán. Bồ-táttạo.dịch.31. No 1624. Ghi “所緣緣者。謂能緣識帶彼相起及有實體。令能緣識託彼而生色等極微。設有實體能生五識容有緣義。然非所緣。如眼根等於眼等識無彼相故。如是極微於眼等識。無所緣義”: “Sởlà, thứcnắm giữ cái tướng khởi có thật thể đó, khiến thứcnương đó màv.v…. Nếu có thật thể và hay sinhthì vẫn mang nghĩanhưng không phải là, nhưđối với, vì không có tướng đó. Như vậy,đối vớiv.v… không códuyên”.

Bí Ẩn

Con Người

Tạo Ra

Vũ Trụ

– Gs Trịnh Xuân Thuận. Phần viết trong ngoặc kép sau đều trích từ đây.[11] Giai điệuVàTạo Ra- Gs Trịnh Xuân Thuận. Phần viết trong ngoặc kép sau đều trích từ đây.[12]

Vạn Pháp

Qui Tâm

Lục –

Thiền sư

Tổ Nguyên

– HT Thích

Đắc Pháp

dịch.

Lục — HT Thíchdịch.

[13]

Thập Nhị Môn Luận

. Bồ-tát

Long Thọ

tạo.

Cưu Ma La Thập

dịch.

Đại Tạng Kinh

30. No 1568.

. Bồ-táttạo.dịch.30. No 1568.

[14]

Thành Duy Thức Luận

– HT Thích Thiện Siêu dịch và chú.

– HT Thích Thiện Siêu dịch và chú.

Trung Bộ

tập II ghi: “Do

duyên sinh

,

lão tử

có mặt. Dù chư

Như Lai

xuất hiện

ở đời hay không

xuất hiện

ở đời,

bản chất

các pháp vẫn thế, vẫn

quyết định

tánh ấy, vẫn theo duyên như thế”.[15] Kinhtập II ghi: “Docó mặt. Dù chưcóở đời hay khôngở đời,các pháp vẫn thế, vẫntánh ấy, vẫn theo duyên như thế”.[16]

Pháp Bảo Đàn Kinh

Lục Tổ

.

Biệt giáo

. Nói theo

Viên giáo

thì

Thập trụ

đã thấy được

Phật tánh

. Ngoài Phật ra, còn lại đều gọi là

chúng sinh

.[17] Đây là nói theo. Nói theothìđã thấy được. Ngoài Phật ra, còn lại đều gọi là


Duyên Tình Duyên – Văn Thiên Nghĩa [LYRIC VIDEO] #DTD


duyentinhduyen lyric video
Duyên Tình Duyên Văn Thiên Nghĩa [LYRIC VIDEO]Được 100k sub rồi giờ mục tiêu 200k nè: http://bit.ly/2L3fDU4

Song: Duyên Tình Duyên
Singer: Văn Thiên Nghĩa
Lyric:
Nơi trần gian còn bao oán than
Cũng bởi duyên tình duyên trái ngang
Đôi bàn tay người ôm lấy ai
Làm bão giông nơi này
Gió thoáng lay cành đào rụng rơi
Để thân khô nơi này chịu cơn rét câm
Thân khô hóa đá rêu phong buồn niềm riêng
Vì thương nhớ ai…
Nhìn vào hư không
Chợt dâng nghẹn bao nỗi buồn
Ở nơi đây cô đơn mình anh
Hiu quạnh bao đêm ngày
Cõi vô thường làm sao đo lường
Hết những yêu thương
Người vội theo ai
Lạc bước ở nơi chốn nào
Để một người đau đớn cả cuộc đời
Giờ đây phải quên đi hết
Vì cuộc tình mình đã chết
Cánh hoa rơi thân héo khô nơi mộ sâu…
Nơi trần gian còn bao oán than
Cũng bởi duyên tình duyên trái ngang
Đôi bàn tay người ôm lấy ai
Làm bão giông nơi này
Gió thoáng lay cành đào rụng rơi
Để thân khô nơi này chịu cơn rét câm
Thân khô hóa đá rêu phong buồn niềm riêng
Vì thương nhớ ai…
Nhìn vào hư không
Chợt dâng nghẹn bao nỗi buồn
Ở nơi đây cô đơn mình anh
Hiu quạnh bao đêm ngày
Cõi vô thường làm sao đo lường
Hết những yêu thương
Người vội theo ai
Lạc bước ở nơi chốn nào
Để một người đau đớn cả cuộc đời
Giờ đây phải quên đi hết
Vì cuộc tình mình đã chết
Cánh hoa rơi thân héo khô nơi mộ sâu…
Nhìn vào hư không
Chợt dâng nghẹn bao nỗi buồn
Ở nơi đây cô đơn mình anh
Hiu quạnh bao đêm ngày
Cõi vô thường làm sao đo lường
Hết những yêu thương
Người vội theo ai
Lạc bước ở nơi chốn nào
Để một người đau đớn cả cuộc đời
Giờ đây phải quên đi hết
Vì cuộc tình mình đã chết
Cánh hoa rơi thân héo khô nơi mộ sâu…
Cánh hoa rơi thân héo khô nơi mộ sâu…

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kỹ Năng Sống
Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kỹ Năng Sống

Related Articles

Back to top button