Kỹ Năng Sống

Đọc hiểu bài thơ con cò của chế lan viên

Ngày đăng: 15/10/2015, 16:07

I – TÌM HIỂU CHUNG 1. Tác giả: Nhà thơ Chế Lan Viên (1920-1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ  Quảng Trị. Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới qua tập Điêu tàn. Chế Lan Viên đã có những đóng góp lớn vào những thành tựu của văn học kháng chiến, ông là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ Việt Nam thế kỷ XX. “17 tuổi với tập thơ Điêu tàn, Chế Lan Viên đã làm nên “một niềm tin kinh dị” trên thi đàn Việt Nam đầu thế kỷ.Bộc lộ bằng một cảm xúc khác thường, quay lưng lại với thực tại hiện hữu: “Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh, một vì sao tro trọi cuối trời xa, Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh – Những ưu phiền đau khổ với buồn lo. Chế Lan Viên tìm về quá khứ của dân tộc Chăm cũng là một cách diễn tả tâm trạng mình về hiện thực của dân tộc. Phần tích cực lẫn hạn chế trong hồn thơ Chế Lan Viên giao thoa trên những nỗi buồn, giấc mơ, những dằn vặt về sự tồn tại của chính mình. Khi những quan điểm của Điêu tàn đến Vàng sao đã không còn phù hợp, Chế Lan Viên rơi vào thần bí, bế tắc. Chỉ còn một cách lựa chọn là hướng cảm xúc của chủ thể sáng tạo vào yêu cầu mới, Chế Lan Viên đã bắt gặp ngọn nguồn của sáng tạo sau Cách mạng tháng Tám 1945. Với Gửi các anh, tập thơ viết trong kháng chiến chống Pháp, Chế Lan Viên đã cố gắng tiếp cận với hiện thực cách mạng. Nhưng ở đây, con người công dân và con người nghệ sĩ vẫn chưa gặp nhau, bản sắc thi sĩ chưa kịp định hình. Chỉ đến ánh sáng và phù sa, Chế Lan Viên mới thực sự từ ” thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”, làm nên một gương mặt thi nhân tài hoa và độc đáo trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Từ đây cho đến những bài thơ cuối đời, cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên luôn vận động và phát triển, thống nhất trong đa dạng. Thơ Chế Lan Viên đã tạo được một sức mạnh ám ảnh đối với người đọc trên cả hai phương diện cảm xúc và trí tuệ. Với ý thức phục vụ cách mạng, phục vụ cuộc sống bằng thi ca, thơ Chế Lan Viên đã muốn là tiếng nói thi ca lịch sử đất nước trong thời đại mới. Trong những cảm hứng từ vĩ mô đến vi mô có cả Chim báo bão, có cả hoa ngày thường, có đối thoại mới lẫn độc thoại với chính mình. Chế Lan Viên là nhà thơ có công đầu trong việc cách tân câu thơ Việt Nam. Ông đã làm một cuộc cách mạng về câu thơ cũ bị phá vỡ. Thay vào đó, là các bài thơ tự do xuất hiện ngày càng nhiều với những câu thơ dài ngắn xen lẫn nhau với các cặp phạm trù đối lập, nhằm biểu đạt ý tưởng lớn của cả bài. Thơ Chế Lan Viên đa diện, đa chiều, nhiều tầng ngữ nghĩa, chủ yếu thể hiện ở chiều sâu, ở tầm triết lí, có sự gặp gỡ của hai nền thơ ca phương Tây và Phương Đông. Chế Lan Viên còn là một trong những số những nhà thơ hiếm hoi làm thơ tứ tuyệt thành công nhất trong thơ ca Việt Nam hiện đại, kết hợp hài hoà giữa cái đẹp truyền thống và hiện đại” (Bích Thu – Từ điển tác giả, tác phẩm Văn học Việt Nam dùng cho nhà trường, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004). 2. Tác phẩm: Tác phẩm đã xuất bản: Điêu tàn (1937); Gửi các anh (1954); ánh sáng và phù sa (1960); Hoa ngày thường, Chim báo bão (1967); Những bài thơ đánh giặc (1972); Đối thoại mới (1973); Hoa trước lăng Người (1976); Hái theo mùa (1977); Hoa trên đá (1985); Tuyển tập Chế Lan Viên (2 tập, 1985); Di cảo I (1994); Di cảo II (1995); Về văn xuôi có các tập ký: Vùng Sai (1942); Thăm Trung Quốc (1963); Những ngày nổi giận (1966); Giờ của số thành (1977); Chế Lan Viên cũng là tác giả của những tập tiểu luận, phê bình trao đổi nghề nghiệp đặc sắc: Nói chuyện văn thơ (1960); Phê bình văn học (1962); Vào nghề (1962); Suy nghĩ và bình luận (1971); Bay theo đường dân tộc đang bay (1976); Nghĩ cạnh dòng thơ (1981); Tứ gác Khuê Văn đến Quán Trung Tân (1981). – Chế Lan Viên đã được tặng Huân chương Độc lập hạng Hai (năm 1988). Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (đợt I – 1996); Giải A Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1985 (tập thơ Hoa trên đá) và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1994 (Di cảo I và Di cảo II). II – GIÁ TRỊ TÁC PHẨM 1. Hình tượng bao trùm cả bài thơ là hình tượng con cò. Đó là con cò trong ca dao truyền thống, xuất hiện rất phổ biến và được dùng với nhiều ý nghĩa khác nhau, nhưng ý nghĩa phổ biến nhất là hình ảnh người nông dân, người phụ nữ trong cuộc sống nhiều vất vả, nhọc nhằn nhưng luôn thể hiện được những đức tính tốt đẹp và niềm vui sống. 2. Bài thơ chia làm ba đoạn:  Đoạn 1: hình ảnh con cò qua những lời ru bắt đầu đến với tuổi ấu thơ.  Đoạn 2: hình ảnh con cò đi vào tiềm thức của tuổi thơ, trở nên gần gũi và sẽ theo con người đi suốt cuộc đời.  Đoạn 3: từ hình ảnh con cò, nhà thơ suy ngẫm và triết lý về ý nghĩa của lời ru và tình mẹ đối với cuộc đời mỗi con người. 3. Trong đoạn đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng những câu ca dao:  Con cò bay lả bay la Bay từ cổng phủ, bay ra cánh đồng  Con cò bay lả bay la Bay từ cửa phủ bay về Đồng Đăng  Con cò mày đi ăn đêm Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao Ông ơi ông vớt tôi nao Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng Có xáo thì xáo nước trong Đừng xáo nước đục, đau lòng cò con. Trong hai bài ca dao trước, hình ảnh con cò gợi tả không gian và khung cảnh quen thuộc, nhịp điệu nhẹ nhàng, thong thả của cuộc sống thời xưa. Trong bài ca dao sau (Con cò mày đi ăn đêm…), hình ảnh con cò lại tượng trưng cho những con người, nhất là người phụ nữ đang nhọc nhằn, vất vả để kiếm sống nuôi con. 4. Hình tượng trung tâm trong bài thơ là cánh cò nhưng cảm hứng chủ đạo lại là tình mẹ. Hình ảnh con cò đã gợi ý nghĩa biểu tượng về lòng mẹ, về sự dìu dắt, nâng đỡ đầy dịu dàng của người mẹ. Bởi vậy, những câu thơ mang tính khái quát trong bài đều là những câu thơ chan chứa tình cảm yêu thương của người mẹ: Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con. Đó là một quy luật tình cảm bền vững và sâu sắc, thể hiện tình cảm yêu thương vô bờ bến của người mẹ. Dù ở đâu, bên mẹ hay đến phương trời khác, dù còn nhỏ hay đã lớn khôn thì con vẫn được mẹ hết lòng thương yêu, che chở. Một con cò thôi Con cò mẹ hát Cũng là cuộc đời Vỗ cánh qua nôi. Lời ru cũng là khúc hát yêu thương. Sự hoá thân của người mẹ vào cánh cò mang nhiều ý nghĩa sâu xa, kết tụ những hi sinh, gian khổ, nhọc nhằn để những lời yêu thương càng trở nên sâu sắc, đằm thắm. Câu thơ cuối là một hình ảnh rất đẹp. Cánh cò vỗ qua nôi như dáng mẹ đang nghiêng xuống chở che, đang nói với con những lời tha thiết của lòng mẹ. 5. Một số đặc điểm nghệ thuật của bài thơ  Về thể thơ: Trong bài thơ này, tác giả sử dụng thể thơ tự do nhưng các đoạn thường được bắt đầu bằng những câu thơ ngắn, có cấu trúc giống nhau, nhiều chỗ lặp gợi âm điệu lời ru. Tuy nhiên, trong bài thơ, ta còn nhận thấy giọng suy ngẫm, triết lí.  Về hình ảnh: Hình ảnh con cò trong ca dao trở thành điểm tựa cho những liên tưởng, tưởng tượng của tác giả. Những hình ảnh trong bài thơ vừa rất gần gũi, xác thực nhưng đồng thời cũng giàu ý nghĩa biểu tượng và sắc thái biểu cảm. – Nhịp điệu linh hoạt của thể thơ tự do đã giúp tác giả thể hiện một cách đặc sắc hình tượng con cò trong lời hát ru của bà mẹ. 6. Hình ảnh con cò không mới, nhưng bắt nguồn từ mạch trữ tình tha thiết trong ca dao, bài thơ Con cò là sự kết tinh giữa cảm hứng trữ tình dân gian và chất triết lí giản dị mà sâu sắc của tác giả Hoa ngày thường – Chim báo bão. (Sưu tầm) I – TÌM HIỂU CHUNG1. Tác giả:Nhà thơ Chế Lan Viên (1920-1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ  Quảng Trị. TrướcCách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới qua tập Điêu tàn. Chế LanViên đã có những đóng góp lớn vào những thành tựu của văn học kháng chiến, ông là một trong nhữngtên tuổi hàng đầu của nền thơ Việt Nam thế kỷ XX.”17 tuổi với tập thơ Điêu tàn, Chế Lan Viên đã làm nên “một niềm tin kinh dị” trên thi đàn Việt Nam đầuthế kỷ.Bộc lộ bằng một cảm xúc khác thường, quay lưng lại với thực tại hiện hữu: “Hãy cho tôi một tinhcầu giá lạnh, một vì sao tro trọi cuối trời xa, Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh – Những ưu phiền đau khổvới buồn lo. Chế Lan Viên tìm về quá khứ của dân tộc Chăm cũng là một cách diễn tả tâm trạng mình vềhiện thực của dân tộc. Phần tích cực lẫn hạn chế trong hồn thơ Chế Lan Viên giao thoa trên những nỗibuồn, giấc mơ, những dằn vặt về sự tồn tại của chính mình. Khi những quan điểm của Điêu tàn đến Vàngsao đã không còn phù hợp, Chế Lan Viên rơi vào thần bí, bế tắc. Chỉ còn một cách lựa chọn là hướng cảmxúc của chủ thể sáng tạo vào yêu cầu mới, Chế Lan Viên đã bắt gặp ngọn nguồn của sáng tạo sau Cáchmạng tháng Tám 1945.Với Gửi các anh, tập thơ viết trong kháng chiến chống Pháp, Chế Lan Viên đã cố gắng tiếp cận với hiệnthực cách mạng. Nhưng ở đây, con người công dân và con người nghệ sĩ vẫn chưa gặp nhau, bản sắc thisĩ chưa kịp định hình. Chỉ đến ánh sáng và phù sa, Chế Lan Viên mới thực sự từ ” thung lũng đau thươngđến cánh đồng vui”, làm nên một gương mặt thi nhân tài hoa và độc đáo trong nền thơ ca cách mạng ViệtNam. Từ đây cho đến những bài thơ cuối đời, cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên luôn vận động vàphát triển, thống nhất trong đa dạng. Thơ Chế Lan Viên đã tạo được một sức mạnh ám ảnh đối với ngườiđọc trên cả hai phương diện cảm xúc và trí tuệ. Với ý thức phục vụ cách mạng, phục vụ cuộc sống bằngthi ca, thơ Chế Lan Viên đã muốn là tiếng nói thi ca lịch sử đất nước trong thời đại mới. Trong nhữngcảm hứng từ vĩ mô đến vi mô có cả Chim báo bão, có cả hoa ngày thường, có đối thoại mới lẫn độc thoạivới chính mình.Chế Lan Viên là nhà thơ có công đầu trong việc cách tân câu thơ Việt Nam. Ông đã làm một cuộc cáchmạng về câu thơ cũ bị phá vỡ. Thay vào đó, là các bài thơ tự do xuất hiện ngày càng nhiều với những câuthơ dài ngắn xen lẫn nhau với các cặp phạm trù đối lập, nhằm biểu đạt ý tưởng lớn của cả bài. Thơ ChếLan Viên đa diện, đa chiều, nhiều tầng ngữ nghĩa, chủ yếu thể hiện ở chiều sâu, ở tầm triết lí, có sự gặpgỡ của hai nền thơ ca phương Tây và Phương Đông. Chế Lan Viên cò n là một trong những số những nhàthơ hiếm hoi làm thơ tứ tuyệt thành công nhất trong thơ ca Việt Nam hiện đại, kết hợp hài hoà giữa cáiđẹp truyền thống và hiện đại” (Bích Thu – Từ điển tác giả, tác phẩm Văn học Việt Nam dùng cho nhàtrường, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004).2. Tác phẩm:Tác phẩm đã xuất bản: Điêu tàn (1937); Gửi các anh (1954); ánh sáng và phù sa (1960); Hoa ngàythường, Chim báo bão (1967); Những bài thơ đánh giặc (1972); Đối thoại mới (1973); Hoa trước lăngNgười (1976); Hái theo mùa (1977); Hoa trên đá (1985); Tuyển tập Chế Lan Viên (2 tập, 1985); Di cảo I(1994); Di cảo II (1995); Về văn xuôi có các tập ký: Vùng Sai (1942); Thăm Trung Quốc (1963); Nhữngngày nổi giận (1966); Giờ của số thành (1977); Chế Lan Viên cũng là tác giả của những tập tiểu luận, phêbình trao đổi nghề nghiệp đặc sắc: Nói chuyện văn thơ (1960); Phê bình văn học (1962); Vào nghề(1962); Suy nghĩ và bình luận (1971); Bay theo đường dân tộc đang bay (1976); Nghĩ cạnh dòng thơ(1981); Tứ gác Khuê Văn đến Quán Trung Tân (1981).- Chế Lan Viên đã được tặng Huân chương Độc lập hạng Hai (năm 1988). Giải thưởng Hồ Chí Minh vềVăn học – Nghệ thuật (đợt I – 1996); Giải A Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1985 (tập thơHoa trên đá) và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1994 (Di cảo I và Di cảo II).II – GIÁ TRỊ TÁC PHẨM1. Hình tượng bao trùm cả bài thơ là hình tượng con cò. Đó là con cò trong ca dao truyền thống, xuất hiệnrất phổ biến và được dùng với nhiều ý nghĩa khác nhau, nhưng ý nghĩa phổ biến nhất là hình ảnh ngườinông dân, người phụ nữ trong cuộc sống nhiều vất vả, nhọc nhằn nhưng luôn thể hiện được những đứctính tốt đẹp và niềm vui sống.2. Bài thơ chia làm ba đoạn: Đoạn 1: hình ảnh con cò qua những lời ru bắt đầu đến với tuổi ấu thơ. Đoạn 2: hình ảnh con cò đi vào tiềm thức của tuổi thơ, trở nên gần gũi và sẽ theo con người đi suốtcuộc đời. Đoạn 3: từ hình ảnh con cò, nhà thơ suy ngẫm và triết lý về ý nghĩa của lời ru và tình mẹ đối với cuộcđời mỗi con người.3. Trong đoạn đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng những câu ca dao:Con cò bay lả bay laBay từ cổng phủ, bay ra cánh đồng Con cò bay lả bay laBay từ cửa phủ bay về Đồng Đăng Con cò mày đi ăn đêmĐậu phải cành mềm, lộn cổ xuống aoÔng ơi ông vớt tôi naoTôi có lòng nào ông hãy xáo măngCó xáo thì xáo nước trongĐừng xáo nước đục, đau lòng cò con.Trong hai bài ca dao trước, hình ảnh con cò gợi tả không gian và khung cảnh quen thuộc, nhịp điệu nhẹnhàng, thong thả của cuộc sống thời xưa. Trong bài ca dao sau (Con cò mày đi ăn đêm…), hình ảnh concò lại tượng trưng cho những con người, nhất là người phụ nữ đang nhọc nhằn, vất vả để kiếm sống nuôicon.4. Hình tượng trung tâm trong bài thơ là cánh cò nhưng cảm hứng chủ đạo lại là tình mẹ. Hình ảnh con còđã gợi ý nghĩa biểu tượng về lòng mẹ, về sự dìu dắt, nâng đỡ đầy dịu dàng của người mẹ. Bởi vậy, nhữngcâu thơ mang tính khái quát trong bài đều là những câu thơ chan chứa tình cảm yêu thương của người mẹ:Con dù lớn vẫn là con của mẹĐi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.Đó là một quy luật tình cảm bền vững và sâu sắc, thể hiện tình cảm yêu thương vô bờ bến của người mẹ.Dù ở đâu, bên mẹ hay đến phương trời khác, dù còn nhỏ hay đã lớn khôn thì con vẫn được mẹ hết lòngthương yêu, che chở.Một con cò thôiCon cò mẹ hátCũng là cuộc đờiVỗ cánh qua nôi.Lời ru cũng là khúc hát yêu thương. Sự hoá thân của người mẹ vào cánh cò mang nhiều ý nghĩa sâu xa,kết tụ những hi sinh, gian khổ, nhọc nhằn để những lời yêu thương càng trở nên sâu sắc, đằm thắm. Câuthơ cuối là một hình ảnh rất đẹp. Cánh cò vỗ qua nôi như dáng mẹ đang nghiêng xuống chở che, đang nóivới con những lời tha thiết của lòng mẹ.5. Một số đặc điểm nghệ thuật của bài thơ Về thể thơ: Trong bài thơ này, tác giả sử dụng thể thơ tự do nhưng các đoạn thường được bắt đầu bằngnhững câu thơ ngắn, có cấu trúc giống nhau, nhiều chỗ lặp gợi âm điệu lời ru. Tuy nhiên, trong bài thơ, tacòn nhận thấy giọng suy ngẫm, triết lí. Về hình ảnh: Hình ảnh con cò trong ca dao trở thành điểm tựa cho những liên tưởng, tưởng tượng củatác giả. Những hình ảnh trong bài thơ vừa rất gần gũi, xác thực nhưng đồng thời cũng giàu ý nghĩa biểutượng và sắc thái biểu cảm.- Nhịp điệu linh hoạt của thể thơ tự do đã giúp tác giả thể hiện một cách đặc sắc hình tượng con cò tronglời hát ru của bà mẹ.6. Hình ảnh con cò không mới, nhưng bắt nguồn từ mạch trữ tình tha thiết trong ca dao, bài thơ Con cò làsự kết tinh giữa cảm hứng trữ tình dân gian và chất triết lí giản dị mà sâu sắc của tác giả Hoa ngày thường- Chim báo bão.(Sưu tầm) … từ hình ảnh cò, nhà thơ suy ngẫm triết lý ý nghĩa lời ru tình mẹ đời người Trong đoạn đầu thơ, tác giả sử dụng câu ca dao:  Con cò bay lả bay la Bay từ cổng phủ, bay cánh đồng  Con cò bay lả… đức tính tốt đẹp niềm vui sống Bài thơ chia làm ba đoạn:  Đoạn 1: hình ảnh cò qua lời ru bắt đầu đến với tuổi ấu thơ  Đoạn 2: hình ảnh cò vào tiềm thức tuổi thơ, trở nên gần gũi theo người… sau (Con cò mày ăn đêm ), hình ảnh cò lại tượng trưng cho người, người phụ nữ nhọc nhằn, vất vả để kiếm sống nuôi Hình tượng trung tâm thơ cánh cò cảm hứng chủ đạo lại tình mẹ Hình ảnh cò gợi

Xem thêm :  Cảm nhận hình tượng con cò trong bài thơ “con cò” của chế lan viên.


Con cò – Ngữ Văn 9 – cô Tạ Minh Thủy


Bài giảng \

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kỹ Năng Sống
Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kỹ Năng Sống

Related Articles

Back to top button